NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TTÁC ĐỘNG ĐẾN KHẢ NĂNG HỢP TÁC
GIỮA DOANH NGHIỆP VÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC VỀ ĐÀO TO NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
TS. Trần Thị Minh Phương1
Tóm tắt: Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, hợp tác
giữa doanh nghiệp với trường đại học là xu hướng phổ biến trên thế giới. Đối với doanh nghiệp, hiệu qu
hợp tác với trường đại học giúp cho doanh nghiệp nâng cao trình độ khoa học công nghệ, cải tiến công tác
tổ chức định mức, đổi mới sản xuất, nâng cao năng suất lao động và chất lượng nguồn nhân lực. Chính vì
vậy, mức độ hợp tác giữa doanh nghiệp với trường đại học ngày càng có vai trò quan trọng. Bài viết nghiên
cứu một số đặc điểm hợp tác giữa doanh nghiệp và trường đại học trong bối cảnh Việt Nam, làm rõ hơn cơ
sở lý luận mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà trường, đề xuất các nhân tố ảnh hưởng tới mức độ hợp tác
giữa doanh nghiệp và nhà trường, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường sự hợp tác giữa doanh
nghiệp và trường đại học trong bối cảnh công nghiệp 4.0.
Từ khóa: Nhân tố tác động, doanh nghiệp, trường đại học, nguồn nhân lực, cách mạng công nghiệp 4.0
Abstract: In the context of global competition and the development of the industrial revolution 4.0,
cooperation between businesses and universities is a popular trend in the world. For businesses, the
effectiveness of cooperation with universities helps businesses improve the level of science and technology,
improve the organization of norms, production innovation, improve labor productivity and quality of
Human resources… Therefore, the level of cooperation between businesses and universities is increasingly
important. The paper examines some characteristics of cooperation between enterprises and universities
in the context of Vietnam, clarifying the rationale for the relationship between enterprises and schools,
proposing factors affecting the level cooperation between businesses and schools, thereby offering some
solutions to enhance cooperation between businesses and universities in the context of industry 4.0.
Keywords: Impact factors; enterprises; universities; human resources; industrial revolution 4.0.
1. ĐẶC ĐIỂM HỢP TÁC GIỮA DOANH NGHIỆP TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ thì hợp
tác giữa doanh nghiệp với trường đại học là xu hướng phổ biến trên thế giới, có tác động tích cực
tới hoạt động đào tạo, nghiên cứu và phát triển trong đại học và khai thác tối ưu nguồn lực của các
bên. Đối với doanh nghiệp, hiệu quả hợp tác với trường đại học giúp cho doanh nghiệp nâng cao
trình độ khoa học công nghệ, cải tiến quy trình sản xuất chất lượng sản phẩm, nâng cao năng
suất chất lượng nguồn nhân lực. Chính vậy, tăng cường hợp tác giữa doanh nghiệp với trường
đại học ngày càng có vai trò quan trọng.
1 Email: minhphuong_822004@yahoo.com, Khoa Quản lý NNL, Trường Đại học Lao động – Xã hội.
505
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP
Trong quá trình phát triển đổi mới, quan hệ của ba đối tượng: doanh nghiệp, nhà trường,
quản nhà nước luôn dựa trên nền tảng của quá trình đổi mới khoa học - công nghệ. Trong
mối quan hệ này, nhà trường ngoài nhiệm vụ truyền thống là đào tạo nguồn nhân lực và cung cấp
những kiến thức cơ bản, còn đóng vai trò giống như viện nghiên cứu cung cấp công nghệ và những
trợ giúp nhằm giúp doanh nghiệp phát triển, đổi mới (Loet Leydesdorff cộng sự, 2001). Theo
thời gian, sự phát triển của hệ thống kiến thức và khoa học công nghệ sẽ giúp cho nền kinh tế ngày
càng phát triển hơn (Etzkowitz cộng sự, 2001). Chìa khóa của sự thành công trong quá trình
đổi mới chính nhờ vào mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức khác như trường đại học,
viện nghiên cứu. Mối liên kết giữa doanh nghiệp nhà trường, viện nghiên cứu có thể theo nhiều
hình thức, mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào mức độ phát triển, lịch sử đặc thù của từng quốc
gia (Conceicão và Heitor, 2001; Senker, 2001; Crow và các cộng sự, 1998; Geisler và Rubenstein,
1989). Khi thực hiện liên kết giữa doanh nghiệp trường, thường với mục tiêu đem lại lợi ích
cho cả hai phía. Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp chính là lợi nhuận và để đạt được mục tiêu
này, doanh nghiệp cần các điều kiện về khả năng thiết kế sản phẩm qui trình sản xuất, công
nghệ, nguồn nhân lực, tri thức trong nghiên cứu khoa học. Mục tiêu của trường qua hoạt động đào
tạo nhằm cung cấp nguồn nhân lực và qua hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm cung cấp tri thức
mới và nhà trường cũng cần các điều kiện như có đội ngũ giảng viên, sở vật chất phục vụ cho
công tác giảng dạy và nghiên cứu, các chương trình đào tạo phù hợp. Như vậy, khi doanh nghiệp
và trường hợp tác với nhau thì nhà trường có thể giúp doanh nghiệp có được các điều kiện để đạt
được mục tiêu hoạt động. DN cũng có thể giúp nhà trường về lĩnh vực nghiên cứu thực tế.
Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới kinh tế từ năm 1986 đã tạo ra những thay đổi lớn không chỉ
về kinh tế cả về hội, trong đó giáo dục đại học. Đi cùng với sự nghiệp đổi mới kinh tế,
chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
các trường đại học khối kinh tế đã những thay đổi bản về cấu ngành nghề đào tạo nhằm
đáp ứng các yêu cầu phát triển. Tiếp đó, khi nước ta đã chính thức gia nhập WTO, việc đào tạo
trình độ đại học khối các trường kinh tế đang đứng trước những thách thức lớn. Chúng ta cần tiếp
tục đổi mới đào tạo trình độ đại học khối các trường kinh tế để đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của nền
kinh tế thị trường khu vực và thế giới. Hơn nữa, yêu cầu của thị trường lao động cạnh tranh là rất
lớn, bao gồm cả thị trường lao động trong nước, khu vực và quốc tế.
Việc hợp tác giữa đại học doanh nghiệp được Đảng Nhà nước ta quan tâm từ hai thập
niên trở lại đây. Các văn bản tuyên bố chủ trương và chỉ đạo khẳng định: các trường đại học phải
các trung tâm nghiên cứu khoa học, công nghệ, chuyển giao ứng dụng công nghệ vào sản
xuất và đời sống; thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở
đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội (chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2011-2020); coi doanh nghiệp là trung tâm của đổi mới ứng dụng và chuyển giao công
nghệ, nguồn cầu quan trọng nhất của thị trường khoa học công nghệ (Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 6 Trung ương Đảng khóa XI)...
Tuy nhiên, thực tế ở nước ta cho thấy việc gắn kết giữa đào tạo nhân lực và nhu cầu của xã hội về
nhân lực còn rất hạn chế, nguồn cung nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu lao động cũng đang là vấn
đề rất được luận quan tâm. Đa số các trường đại học chủ yếu tổ chức thực hiện các chương trình đào
tạo sẵn có, chưa nắm bắt được nhu cầu về nhân lực theo trình độ, ngành nghề của thị trường lao động
506 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
nên nhiều sinh viên sau khi ra trường chưa đáp ứng được yêu cầu của người tuyển dụng, hoặc không
làm đúng ngành nghề mình đã học. Đồng thời, so với thế giới, đặc biệt là các quốc gia châu Âu và Mỹ
thì đổi mới về vấn đề này ở Việt Nam rất chậm, đặc biệt các chính sách, chế giải pháp thực thi
trong thực tiễn từ Chính phủ và các Bộ, ngành còn thiếu đồng bộ. Kết quả nghiên cứu tại 8 cơ sở giáo
dục bậc đại học tham gia Dự án “Giáo dục đại học theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng” do Bộ Giáo
dục Đào tạo triển khai (POHE) cho thấy: Hoạt động hợp tác giữa các trường đại học doanh nghiệp
là chưa nhiều. Phần lớn các trường chủ yếu chỉ thiết lập mạng lưới khoảng 10 đối tác chiến lược. Duy
nhất có Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh thiết lập được hợp tác mang tính chiến
lược với 120 doanh nghiệp. Các trường đại học khác có số lượng các doanh nghiệp hợp tác ngắn hạn,
không thường xuyên ít doanh nghiệp đối tác như: Đại học Nông Lâm thuộc Đại học Huế; Đại
học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên có từ 20 đến 40 đối tác; đặc biệt ở nhóm ít như Đại học Vinh chỉ có
4 đối tác. Kết quả khảo sát gần 1.400 cựu sinh viên từng tham gia học tập tại các cơ sở giáo dục trong
Dự án cho thấy: có 72,8% cho rằng có thể đáp ứng được các nhu cầu của nhà tuyển dụng; 75,5% cho
rằng “công việc thực tập thật sự có ích cho công việc đang làm”. Chính điều này giúp sinh viên tự tin,
năng động tìm kiếm được việc làm đúng với sở trường ngành nghề đào tạo sau khi tốt nghiệp. Tuy
nhiên, các nội dung hợp tác khác các cấp độ sâu hơn theo xu hướng hội nhập và chia sẻ nguồn lực
cùng phát triển trong hợp tác với doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.
2. SỞ LÝ THUYẾT VỀ HỢP TÁC GIỮA DOANH NGHIỆP VÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Nhà triết học Willhelm Humboldt (Cộng hòa Liên bang Đức) người khởi xướng ý tưởng
liên kết, hợp tác giữa đại học và doanh nghiệp. Theo ông, trường đại học ngoài chức năng đào tạo
phải chức năng nghiên cứu hợp tác với các ngành công nghiệp. Hợp tác đại học doanh
nghiệp được hiểu như sự tương tác, giao dịch giữa sở giáo dục đại học với các doanh nghiệp
để mang lại lợi ích cho các bên. Hợp tác bao gồm: hợp tác trong nghiên cứu và phát triển (R&D),
xây dựng và phổ biến chương trình đào tạo, học tập suốt đời, phát triển doanh nghiệp và quản trị.
Hợp tác giữa nhà trường với doanh nghiệp xuát phát từ việc tìm kiếm nguồn vốn để thực hiện
nghiên cứu cơ bản, gia tăng quyền sở hữu công nghệ, các phương tiện nghiên cứu và áp dụng công
nghệ vào doanh nghiệp, đạt được lợi ích chung cho cả hai bên. Về phía doanh nghiệp, có nhiều lí
do khi thực hiện hợp tác với nhà trường như nâng cao năng lực sản xuất, giảm lãng phí trong hoạt
đông, tạo lợi thế cạnh tranh, gia tăng lợi nhuận hoặc mở rộng các hội kinh doanh trong tương
lai nhờ nâng cao giá trị thị trường và sản lượng sản xuất (Emanuela Todeva, David Knoke, 2005).
Về phía nhà trường, khi thực hiện hợp tác với doanh nghiệp làm gia tăng hội cho nhà trường
trong đào tạo và nghiên cứu, chẳng hạn như: tăng cường cơ hội gặp gỡ các chuyên gia của doanh
nghiệp, nắm bắt được vấn đề thực tế của doanh nghiệp nhằm giúp cho việc nghiên cứu giảng
dạy của nhà trường phù hợp hơn với nhu cầu của doanh nghiệp, gia tăng nguồn vốn phục vụ cho
nghiên cứu, mở rộng uy tín của nhà trường, gia tăng quyền sở hữu công nghiệp, đồng thời tạo
hội việc làm cho sinh viên tốt nghiệp từ nhà trường.
Để hoạt động hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp đạt hiệu quả và đem lại lợi ích cho cả hai
bên, đồng thời xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới mối liên kết này, Eva M. Mora-Valentin và các cộng
sự (2004) cho rằng, các nhân tố tạo nên sự thành công của liên kết này thể chia thành hai nhóm:
(1) nhóm nhân tố liên quan đến hoàn cảnh; (2) nhóm nhân tố liên quan đến tổ chức trong quá trình hợp tác.
507
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP
Wong, Poh-Kam, Yuen-Ping Ho (2006) đưa ra các hình tả mối quan hệ giữa kinh
doanh chất lượng nguồn nhân lực. hình đã đưa ra 5 mức độ kết hợp giữa chiến lược kinh
doanh chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Nhu cầu của người sử
dụng lao động được biểu hiện bằng mong muốn của họ có được những lao động được đào tạo với
những kiến thức phẩm chất con người đáp ứng được yêu cầu của những vị trí công việc
những lao động này phải đảm nhiệm trong các quan, tổ chức cũng như trong doanh nghiệp.
Bằng cách đó, các quan, tổ chức doanh nghiệp được nguồn lực quan trọng, thậm trí
quan trọng bậc nhất để làm tròn sứ mạng của mình, để tồn tại và phát triển; đặc biệt là trong điều
kiện thời đại của kinh tế tri thức ngày càng chiếm vai trò chủ đạo.
Nghiên cứu về mối quan hệ hợp tác nhà trường doanh nghiệp (University Business
Cooperation - UBC), các tác giả tổng kết: Mối quan hệ hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp
được hiểu như những giao dịch giữa các trường đại học các tổ chức sản xuất kinh doanh
lợi ích của cả hai bên. Mối quan hệ này đang chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố trong đó có nhận
thức về lợi ích của sự hợp tác, cũng như những rào cản động lực của sự hợp tác đó. Hơn nữa,
theo Carayon (2003); Gibb & Hannon (2006) những nhân tố thuộc về hoàn cảnh như tuổi tác, giới
tính, số năm học đại học, số năm làm việc trong giới doanh nghiệp, đặc điểm của nhà trường
của quốc gia… cũng ảnh hưởng tới phạm vi của việc hợp tác.
Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Châu (2008) đưa ra mô hình (I-P-O-C) kết hợp giữa các yếu tố
chất lượng của các thành phần tạo nên một cơ sở giáo dục, mô hình bao gồm: chất lượng đầu vào,
chất lượng quá trình, chất lượng đầu ra và hoàn cảnh cụ thể. Các tiêu chí và chỉ số cụ thể cần được
xác định để chỉ mức độ đạt được của các thành phần này. Trong đào tạo, chất lượng đào tạo trình
độ đại học được đánh giá qua mức độ đạt được mục tiêu đào tạo đã đề ra đối với một chương trình
đào tạo. Cụ thể hơn, chất lượng đào tạo là kết quả của quá trình đào tạo được phản ánh ở các đặc
trưng về phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt
nghiệp tương ứng với mục tiêu, chương trình đào tạo theo các ngành cụ thể. Một cách khái quát
thể hiểu chất lượng đào tạo trình độ đại học được đánh giá qua mức độ đạt được mục tiêu đào tạo
đề ra đối với chương trình đào tạo. Qua các quan điểm trên ta có thể thấy, chất lượng đào tạo trình
độ đại học thể hiện cả hai khía cạnh: khía cạnh thứ nhất đạt được mục tiêu (phù hợp với tiêu
chuẩn) do nhà trường đề ra, ở khía cạnh này chất lượng đào tạo được xem là chất lượng bên trong.
Ở khía cạnh thứ hai, chất lượng được xem là sự thoả mãn nhu cầu của người sử dụng lao động,
khía cạnh này chất lượng được xem là chất lượng bên ngoài. Như vậy, mỗi cơ sở đào tạo luôn có
một nhiệm vụ được uỷ thác, nhiệm vụ này thường được do các chủ sở hữu quy định, điều này chi
phối mọi hoạt động của nhà trường.
3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KHẢ NĂNG HỢP TÁC GIỮA DOANH NGHIỆP TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Để hoạt động hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp đạt hiệu quả và đem lại lợi ích cho cả hai
bên, đồng thời xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới mối liên kết này, Eva M. Mora-Valentin và các cộng
sự (2004) cho rằng, các nhân tố tạo nên sự thành công của liên kết này thể chia thành hai nhóm:
(1) nhóm nhân tố liên quan đến hoàn cảnh; (2) nhóm nhân tố liên quan đến tổ chức trong quá trình hợp tác.
Trong nghiên cứu của mình, Nguyễn Thị Thu Hằng (2008) đã chỉ ra rằng hai nhóm nhân tố
chủ yếu ảnh hưởng tới sự hợp tác giữa doanh nghiệp và trường đại học như sau: (1) Nhóm nhân tố
508 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
liên quan đến hoàn cảnh bao gồm: Mối quan hệ thân thiết sẵn giữa hai bên, uy tín/danh tiếng của
đối tác, mục tiêu hợp tác, năng lực của các bên khi tham gia hợp tác; (2) Nhóm nhân tố liên quan
đến tổ chức bao gồm: cam kết giữa hai bên, khả năng đàm phán, giao tiếp, truyền đạt thông tin…
Từ các nghiên cứu trước, tác giả đề xuất các nhân tố ảnh hưởng tới sự hợp tác giữa doanh
nghiệp và nhà trường như sau (Sơ đồ 1):
Sơ đồ 1: Mô hình các nhân tố tác động tới khả năng hợp tác doanh nghiệp và nhà trường
Nhóm nhân tố liên quan đến mối quan hệ thân thiết sẵn giữa hai bên, mối quan hệ này
đạt được từ trong quá khứ do các thỏa thuận trước đây trong các dự án, các hoạt động nghiên cứu
của doanh nghiệp với các đơn vị khác. Qua tiến trình thực hiện công việc và kết quả đạt được khi
thực hiện cùng đối tác những kinh nghiệm đã tích lũy được trong quá trình hợp tác, sẽ giúp
cho doanh nghiệp tiếp tục lựa chọn đối tác này và việc hợp tác sẽ có nhiều triển vọng thành công
(Menguzzato, 1992). Như vậy, yếu tố này đề cập đến các vấn đề, bao gồm: NT DN có mối quan
hệ thân thiết sẵn có; Cam kết hợp tác giữa nhà trường và DN mang tính công bằng và vì quyền lợi
của cả hai bên; Mục tiêu của hai bên được chia sẻ thông qua hợp tác; Hình thức hợp tác giữa nhà
trường và DN có sự linh hoạt cao.
Nhóm nhân tố trao đổi thông tin đề cập đến các vấn đề bao gồm các cam kết, thỏa thuận giữa
hai bên khả năng đàm phán, giao tiếp, truyền đạt thông tin, cụ thể gồm các yếu tố thành phần
sau: Nhà trường DN thường xuyên trao đổi thông tin; Chất lượng thông tin trao đổi đảm bảo
tính chính xác, kịp thời; Nội dung trao đổi thông tin (chương trình, kế hoạch hợp tác…) đảm bảo
chính xác, đầy đủ.
Nhóm nhân tố thuộc về doanh nghiệp đề cập đến các yếu tố thành phần như: Sự quan tâm và
ủng hộ của lãnh đạo doanh nghiệp về hợp tác đào tạo với nhà trường; Doanh nghiệp luôn có nguồn
tài chính cho việc hợp tác với nhà trường; Lĩnh vực hoạt động của DN gần với chuyên ngành đào
tạo của nhà trường.
Nhóm nhân tố từ phía nhà trường bao gồm Nhà trường định hướng hợp tác với DN; Nhà
trường chủ động trong việc tiếp cận và đề xuất các hình thức hợp tác với DN; Chất lượng đào tạo
của nhà trường đáp ứng được nhu cầu của hội; Chương trình đào tạo của nhà trường phù hợp
với tiêu chuẩn, tiêu chí nghề nghiệp của DN; Danh tiếng của nhà trường được thể hiện thông qua
hợp tác với DN; Nhà trường được giao quyền tự chủ.
thể thấy rằng, trên thực tế, các nhân tố trên thường ảnh hưởng tích cực tới sự hợp tác giữa
doanh nghiệp với trường đại học. Tuy nhiên, khi thực hiện hợp tác những vấn đề kìm hãm làm
Mối quan h
gia DN và NT
Trao
đổi
thông
tin
Hợp tác DN
và NT
Nhân t t phía
DN
Nhân t t phía
NT