
vietnam medical journal n01 - MAY - 2020
6
tốt, không bị biến dạng vùng mông. Các biến
chứng khác như chảy máu, nhiễm trùng vạt
chúng tôi không ghi nhận. Lý giải 3 trường hợp
kết quả gần là vừa, chúng tôi thấy phù hợp theo
tác giả Fujioka M., đối với bất cứ loại vạt nào,
vùng lấy vạt đều phải được đóng sau khi lấy bởi
vì là vùng dễ hình thành u huyết thanh hậu
phẫu. Nghiên cứu này cho thấy rằng sự lành vết
thương hậu phẫu bị chi phối bởi sự hình thành u
huyết thanh, và u huyết thanh làm kéo dài thời
gian lành vết thương đáng kể [7]. Vấn đề theo
dõi hậu phẫu, theo Phạm Văn Trung và cộng sự
[1], theo dõi toàn thân bằng nâng cao thể trạng,
kháng sinh, hướng dẫn tư thế nằm và nệm
chống loét, tại vạt 100% dẫn lưu hút áp lực âm
dưới vạt. theo dõi và rút dẫn lưu sau 48h đến
72h sau mổ, thay băng, đắp gạc ẩm hàng ngày.
Thời gian theo dõi chúng tôi ngắn hơn tác giả
Eren F. và cộng sự, thời gian trung bình theo dõi
bệnh nhân là 11,7 tháng (8-20 tháng) [5], vì
trên thực tế chúng tôi mất dấu nhiều bệnh nhân
do khó hợp tác, thay đổi chỗ ở, điều kiện kinh tế
kém, đây là điều kiện khách quan tại Việt Nam.
IV. KẾT LUẬN
- Dùng siêu âm 8Mhz khảo sát mạch xuyên
trong tam giác trên luôn có ít nhất một mạch
xuyên và số lượng mạch xuyên khi siêu âm tương
ứng với số lượng mạch xuyên khi phẫu tích vạt.
- Đặt ống dẫn lưu áp lực âm theo dõi lượng
dịch sau mổ, chỉ khi nào hết dịch mới rút, khi
khâu chú ý tránh khoảng chết tại các ngã 3 có
thể gây tụ dịch
- Khi bóc mạch xuyên nên chừa mô xung
quanh mạch xuyên để tránh xoắn vặn khi xoay
vạt góc rộng; (4) Khi sử dụng trên 2 mạch xuyên
nuôi vạt, thì chú ý góc xoay vạt theo chiều
ngang dễ gây xoắn mạch xuyên hơn chiều dọc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Trung, Nguyễn Đức Thành (2015).
Ứng dụng vạt da cân nhánh xuyên động mạch
mông trên điều trị loét cùng cụt mức độ nặng tại
bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng. Tạp chí Y học thảm
hoạ & Bỏng, 2:257-263.
2. Nguyễn Văn Thanh, Trần Vân Anh, Nguyễn
Văn Huệ (2015). Nghiên cứu ứng điều trị loét
cùng cụt mức độ nặng (III,IV) bằng vạt da cân có
cuống mạch nuôi nhánh xuyên động mạch mông
trên. Tạp chí Y học Việt Nam, 437: 216-222.
3. Hashimoto I., Abe Y., Ishida S., et al.
(2016).Development of Skin Flaps for
Reconstructive Surgery: Random Pattern Flap to
Perforator Flap. The Journal of Medical
Investigation, 63: 159-162.
4. Vasile J.V., Newman T., Rusch D.G., et al.
(2009). Anatomic Imaging of Gluteal Perforator
Flaps without Ionizing Radiation: Seeing Is
Believing with Magnetic Resonance Angiography. J
Reconstr Microsurg. 2010 Jan, 26(1): 45-57.
5. Eren F., Oksuz S., Melikoglu C., et al. (2016).
Multidimensional Use of Pedicled Gluteal Artery
Perforator Flaps in Perianal and Gluteal
Regions.Van Tip Derg, 23(1): 34-39.
6. LinC.T., Chang S.C., Chen S.G., et al.(2013).
Modification of the superior gluteal artery perforator
flap for reconstruction of sacral sores. J Plast
Reconstr Aesthet Surg. 2014 Apr, 67(4): 526-32.
7. FujiokaM. (2015). Perforator Flap is Better option for
Sacral Pressure Ulcer Repair because of Fewer
Complications: Comparative Study of 20 Perforator and
11 Rotation Flap Surgeries. SOJ Surgery, 2(1): 1-7.
8. ChenW., Jiang B., Zhao J., et al.(2016). The
superior gluteal artery perforator flap for
reconstruction of sacral sores. Saudi Med J 2016,
37(10): 1140-1143.
NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ CỦA CẮT LỚP VI TÍNH ĐA DÃY
TRONG CHẨN ĐOÁN GIAI ĐOẠN UNG THƯ DẠ DÀY
Nguyễn Văn Sang1, Phạm Hồng Đức2, Phùng Anh Tuấn3
TÓM TẮT2
Mục tiêu: Nghiên cứu giá trị của cắt lớp vi tính đa
dãy trong chẩn đoán giai đoạn ung thư dạ dày. Đối
tượng và phương pháp: Tiến cứu mô tả cắt ngang
có so sánh với phẫu thuật và mô bệnh học (MBH) của
88 bệnh nhân ở Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.
1Trường Đại học Y tế công cộng
2Trường Đại học Y Hà Nội
3Học viện Quân Y
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Văn Sang
Email: Dr.nguyensang@gmail.com
Ngày nhận bài: 18/3/2020
Ngày phản biện khoa học: 6/4/2020
Ngày duyệt bài: 14/4/2020
Kết quả hình ảnh được thực hiện bởi nghiên cứu sinh
và một bác sỹ chẩn đoán hình ảnh có kinh nghiệm, họ
không biết trước kết quả giải phẫu bệnh. Kết quả:
MDCT phân xâm lấn T và hạch vùng N phù hợp với giải
phẫu bệnh với độ chính xác lần lượt là 73,9% (65/88)
và 55,7% (49/88). Độ chính xác trong giai đoạn bệnh
theo AJCC là 46,6% (41/88). Xâm lấn T có p<0,01,
hạch vùng N p<0,01 và giai đoạn ung thư theo AJCC có
p<0,01. Kết luận: Chúng tôi cho thấy MDCT khó trong
chẩn đoán giai đoạn bệnh của UTDD, hạch nhóm gần
có khả năng ác tính nhiều hơn nhóm xa.
Từ khóa:
Ung thư dạ dày, cắt lớp vi tính đa dãy
đầu dò, giai đoạn, hình ảnh ung thư.
SUMMARY
STUDY THE VALUE OF MULTI DETECTOR-