
của nó. Nhiều hãng viễn thông lớn đã đưa ra mô hình cấu trúc mạng thế hệ sau như
Alcatel, Ericssion, Nortel, Siemens, Lucent, NEC,…
Nhìn chung từ mô hình này, cấu trúc mạng mới có đặc điểm chung là bao
gồm các lớp sau:
- Lớp kết nối (Acess +Transport/Core)
- Lớp kết nối trung gian hay lớp truyền thông (Media)
- Lớp điều khiển (Control)
- Lớp quản lý (Management)
Trong đó, lớp điều khiển rất phức tạp với nhiều loại giao thức, khả năng
tương thích giữa các thiết bị của hãng là vấn đề đang được các nhà khai thác quan
tâm.
Hình 1.5 Cấu trúc mạng thế hệ sau ( góc độ mạng)
Xem xét từ góc độ kinh doanh và cung cấp dịch vụ thì mô hình cấu trúc
mạng thế hệ sau còn có thêm lớp ứng dụng dịch vụ.
Lớp điều khiển
Lớp truyền thông
Lớp truy cập và
truyền dẫn
Lớp quản lý

Trong môi trường phát triển cạnh tranh thì sẽ có rất nhiều thành phần tham
gia kinh doanh trong lớp ứng dụng dịch vụ.
Hình 1.6 Cấu trúc mạng và dịch vụ NGN (góc độ dịch vụ)
Lớp ứng dụng
Lớp điều khiển
Lớp truy cập và
truyền dẫn
Lớp truyền thông
Lớp quản lý
Giao di
ện
m
ở
API
Giao di
ện
m
ở
API
Giao di
ện
m
ở
API

Thuê bao di
động
Các doanh
nghiệp lớn
Các công ty nhỏ/
văn phòng tại gia ...
Lớp truy cập và truyền dẫn
Lớp truyền thông
Lớp điều khiển
Lớp ứng dụng Softswitch hay
Media Gateway
Controller
Media
Gateway
Các Server
ứng dụng
Router
Switch - Router
Khách hàng tại
nhà/ Vùng dân cư
Hình 1.7 Cấu trúc luận lý của NGN
Kiến trúc mạng NGN sử dụng chuyển mạch gói cho cả thoại và dữ liệu. Nó
phân chia các khối vững chắc của tổng đài hiện nay thành các lớp mạng riêng rẽ,
các lớp này liên kết với nhau qua các giao diện mở tiêu chuẩn.
Hệ thống chuyển mạch NGN được phân thành bốn lớp riêng biệt thay vì tích
hợp thành một hệ thống như công nghệ chuyển mạch kênh hiện nay: lớp ứng dụng,
lớp điều khiển, lớp truyền thông, lớp truy cập và truyền tải. Các giao diện mở có sự
tách biệt giữa dịch vụ và truyền dẫn cho phép các dịch vụ mới được đưa vào nhanh

chóng, dễ dàng; những nhà khai thác có thể chọn lựa các nhà cung cấp thiết bị tốt
nhất cho từng lớp trong mô hình mạng NGN.
1.4.1 Lớp truyền dẫn và truy cập
Phần truyền dẫn
- Lớp vật lý: Truyền dẫn quang với kỹ thuật ghép kênh bước sóng quang DWDM
được sử dụng.
- Lớp 2 và lớp 3:
Truyền dẫn trên mạng lõi (core network) dựa vào kỹ thuật chuyển mạch gói
cho tất cả các dịch vụ với chất lượng dịch vụ QoS tuỳ theo yêu cầu cho từng loại
dịch vụ.
ATM hay IP/MPLS có thể được sử dụng làm nền cho truyền dẫn trên mạng
lõi để đảm bảo QoS.
Mạng lõi có thể thuộc mạng LAN hay mạng đường trục
Các router sử dụng ở biên mạng lõi khi lưu lượng lớn, ngược lại, khi lưu
lượng thấp, switch-router có thể đảm nhận luôn chức năng của những router này.
- Thành phần:
Các nút chuyển mạch/ Router (IP/ATM hay IP/MPLS), các chuyển mạch
kênh của mạng PSTN, kỹ thuật truyền tải chính là IP hay IP/ATM.
Có các hệ thống chuyển mạch, hệ thống định tuyến cuộc gọi.
- Chức năng:

Lớp truyền tải trong cấu trúc mạng NGN bao gồm cả chức năng truyền dẫn
và chức năng chuyển mạch.
Lớp truyền dẫn có khả năng hỗ trợ các mức QoS khác nhau cho cùng một
dịch vụ và cho các dịch vụ khác nhau. Nó có khả năng lưu trữ lại các sự kiện xảy ra
trên mạng (kích thước gói, tốc độ gói, độ trì hoãn, tỷ lệ mất gói và Jitter cho
phép,… đối với mạng chuyển mạch gói; băng thông, độ trì hoãn đối với mạng
chuyển mạch kênh TDM). Lớp ứng dụng sẽ đưa ra các yêu cầu về năng lực truyền
tải và nó sẽ thực hiện các yêu cầu đó.
Phần truy cập
- Lớp vật lý:
Hữu tuyến: Cáp đồng, xDSL hiện đang sử dụng. Tuy nhiên trong tương lai
truyền dẫn quang DWDM, PON (Passive Optical Network) sẽ dần dần chiếm ưu thế
và thị trường xDSL, modem cáp dần dần thu hẹp lại.
Vô tuyến: thông tin di động – công nghệ GSM hoặc CDMA, truy cập vô
tuyến cố định, vệ tinh.
- Lớp 2 và lớp 3: Công nghệ IP sẽ làm nền cho mạng truy cập.
- Thành phần:
Phần truy cập gồm các thiết bị truy cập đóng vai trò giao diện để kết nối các
thiết bị đầu cuối vào mạng qua hệ thống mạng ngoại vi cáp đồng, cáp quang hoặc
vô tuyến.
Các thiết bị truy cập tích hợp (IAD).

