1
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Số 270- Năm thứ 26 (11)- Tháng 10. 2024
Nghiên cứu tính chất pháp lý điều chỉnh giao dịch thư
tín dụng và một số gợi ý cho Việt Nam
Ngày nhận: 20/08/2024 Ngày nhận bản sửa: 01/10/2024 Ngày duyệt đăng: 11/10/2024
Tóm tắt: Hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, hoạt động ngoại thương
hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng, chịu sự điều chỉnh bởi hệ thống văn
bản pháp lý phức tạp, điều này là vì các hoạt động này vừa chịu sự điều chỉnh
bởi hệ thống pháp quốc gia vừa chịu sự điều chỉnh bởi hệ thống pháp
quốc tế. Để hạn chế tranh chấp rủi ro phát sinh trong giao dịch thư tín dụng
(letter of credit, sau đây viết tắt là LC) đòi hỏi các bên liên quan phải hiểu biết
thấu đáo tính chất pháp lý của các văn bản điều chỉnh, trong đó các thông lệ
và tập quán thương mại quốc tế do Phòng thương mại quốc tế (International
Chamber of Commerce - ICC) ban hành đóng vai trò chủ đạo. Do các thông lệ
và tập quán thương mại quốc tế do ICC ban hành chỉ mang tính chất pháp lý
tùy ý và không bao gồm các chế tài xử lý các tranh chấp, nên việc nghiên cứu
tính chất pháp lý điều chỉnh giao dịch LC là rất cần thiết, nhằm giảm thiểu rủi
ro cho các bên tham gia, là mục đích của nghiên cứu này.
Từ khóa: Thư tín dụng, Tính chất pháp tùy ý, Thông lệ tập quán thương
mại quốc tế, UCP
Discussion on the legal aspect of letter of credit transactions and recommendations for Vietnam
Abstract: Foreign economic activities in general, foreign trading and international payment activities
in particular, are regulated by a complex system of legal documents, including both the national and
international legal system. To avoid disputes and risks arising in letter of credit (LC) transactions,
the involved parties must thoroughly understand the legal substance of all the relevant regulating
documents, in which the most important one is the international trading rules and guidelines issued by the
International Chamber of Commerce (ICC). As these ICC documents are not mandatory and do not include
sanctions for handling disputes, this article will discuss deeply on the legal substance of these documents
with a focus on issues relating to LC transactions, aiming to provide recommendations for involved parties.
Keywords: Letter of credit, Voluntary legal nature, International trade customs and practices, UCP
Doi: 10.59276/JELB.2024.10.2806
Nguyen, Van Tien
Email: tiennv@hvnh.edu.vn
Banking Academy of Vietnam
Nguyễn Văn Tiến
Học viện Ngân hàng, Việt Nam
Nghiên cứu tính chất pháp lý điều chỉnh giao dịch thư tín dụng
và một số gợi ý cho Việt Nam
2Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 270- Năm thứ 26 (11)- Tháng 10. 2024
1. Đặt vấn đề
Cùng với phát triển kinh tế thị trường, mở
cửa kinh tế, hướng tới xuất khẩu (XK) thu
hút đầu nước ngoài, nền kinh tế Việt Nam
đã đạt mức tăng trưởng cao ổn định trong
nhiều năm. Theo World Bank (2024), thì chỉ
số mở cửa kinh tế của Việt Nam năm 2023
184% (được tính bằng tổng kim gạch xuất
nhập khẩu trên GDP), đứng top 10 nền
kinh tế trên thế giới, tốc độ tăng trưởng kim
gạch xuất nhập khẩu (XNK) hàng năm luôn
ở mức cao (trung bình trên 10%/năm), dòng
vốn đầu tư nước ngoài chảy vào nền kinh tế
không ngừng tăng lên… Chỉ tính riêng năm
2023 thì tổng kim gạch XNK cả nước đạt
681 tỷ USD vốn đầu trực tiếp nước
ngoài thực hiện đạt là 23,2 tỷ USD.
hai điểm đặc biệt cần lưu ý, về nguyên
tắc, thứ nhất, trong các giao dịch kinh tế
quốc tế thì người trú người không
trú không thể không được phép thanh
toán trực tiếp cho nhau, nhất thiết phải
thanh toán qua hệ thống ngân hàng bằng các
phương thức thanh toán, trong đó phương
thức thanh toán bằng LC; thứ hai, tuân thủ
nguyên tắc, trên lãnh thổ Việt Nam chỉ dùng
Đồng Việt Nam, do đó, mọi khoản thu bằng
ngoại tệ muốn sử dụng được tại Việt Nam
thì người trú người không cư trú phải
bán cho hệ thống ngân hàng lấy đồng Việt
Nam; ngược lại, mọi khoản chi bằng ngoại
tệ thì người trú phải dùng Đồng Việt
Nam mua ngoại tệ để thanh toán ra nước
ngoài. Như vậy, các dòng ngoại tệ chảy vào,
chảy ra khỏi nền kinh tế phải thanh toán qua
hệ thống ngân hàng bằng các phương thức
thanh toán phải tiến hành mua, bán giữa
Đồng Việt Nam với các ngoại tệ, điều này
đã làm cho các nghiệp vụ ngân hàng quốc
tế bùng nổ, trong đó nghiệp vụ thanh toán
quốc tế cơ sở là trọng tâm. Tuy nhiên,
khi nghiệp vụ ngân hàng quốc tế bùng nổ thì
kéo theo đó các rủi ro phát sinh cũng tăng,
trong đó có rủi ro pháp lý liên quan đến các
giao dịch LC.
Nghiên cứu tính chất pháp trong giao
dịch LC nhằm hạn chế rủi ro cho các bên
tham gia mục đích của nghiên cứu này.
Để đạt mục tiêu nghiên cứu, phương pháp
tổng quan tài liệu, phân tích các qui định
thông lệ quốc tế liên quan được sử dụng, là
cơ sở cho các nhận định của tác giả.
2. Tính chất pháp lý trong các giao dịch
liên quan đến giao dịch thư tín dụng
Trong phương thức thanh toán ứng trước
ghi sổ, ngân hàng đơn thuần chỉ thực hiện
chức năng chuyển tiền trên danh nghĩa người
mua và nhận tiền trên danh nghĩa người bán.
Trong phương thức nhờ thu, các ngân hàng
tham gia xử chứng từ do người bán gửi đến
hành động với vai trò đại của người
bán. Ngoại trừ vai trò đại chức năng
giám sát, trong cả ba phương thức thanh toán
nêu trên, các ngân hàng không có bất kỳ cam
kết hay nghĩa vụ tín dụng nào với người mua
người bán. Tuy nhiên, trong phương thức
LC, các ngân hàng đã tham gia chủ động
tích cực hơn nhiều, theo đó các ngân hàng đã
cam kết cấp tín dụng cho cả người mua
người bán. Do đó, để điều chỉnh giao dịch
LC, cần xem xét đến tính chất pháp lý từ các
khía cạnh sau đây:
2.1. Các hợp đồng liên quan đến giao dịch
thư tín dụng
Trong phương thức thanh toán LC, các mối
quan hệ hợp đồng được hình thành như
trong Hình 1.
Hợp đồng C1, quan hệ hợp đồng giữa
người mua (nhà nhập khẩu- NK) người
bán (nhà xuất khẩu- XK), hợp đồng
tính chất pháp quốc tế, được thể hiện
bằng các điều khoản quy định trong hợp
đồng mua bán, bao gồm các chi tiết liên
NGUYỄN VĂN TIẾN
3
Số 270- Năm thứ 26 (11)- Tháng 10. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
quan đến số lượng và chất lượng hàng hóa,
sở giá cả, điều kiện thương mại, ngày
gửi hàng, phương tiện vận tải… Ngoài ra,
khi người mua người bán thỏa thuận
phương thức thanh toán bằng LC thì các
nội dung thanh toán bằng LC cũng phải
được quy định ràng ngay tại hợp đồng
mua bán này. Trong hợp đồng mua bán,
các bên cũng thỏa thuận luật điều chỉnh
hợp đồng (luật nước người XK, luật nước
người NK, luật nước thứ 3 hay luật quốc tế)
quan tài phán (tòa án hay trọng tài)
xét xử khi tranh chấp xảy ra. Cần lưu
ý rằng, nếu không thỏa thuận luật điều
chỉnh hợp đồng thì quan tài phán sẽ áp
dụng pháp luật tại nơi hợp đồng được thực
hiện chủ yếu (thường là nơi hàng hóa được
chuyển giao theo quy tắc của Incoterrms).
Hợp đồng C2, quan hệ hợp đồng giữa
nhà nhập khẩu (nhà NK), tức người làm
đơn mở LC (Applicant) Ngân hàng
phát hành (Issuing Bank, sau đây viết tắt
NHPH). Mối quan hệ pháp hợp đồng
này được thể hiện bởi các nội dung sau:
- Các điều kiện điều khoản thể hiện
trong đơn mở LC được bởi người mua
gửi NHPH.
- Việc NHPH chấp nhận đơn để phát hành
LC, tức NHPH đã cấp tín dụng cho nhà
NK, do đó, NHPH phải tuân thủ chặt chẽ
quy chế cấp tín dụng của quan quản
nhà nước (ở Việt Nam Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, sau đây viết tắt là NHNN)
và quy chế cấp tín dụng nội bộ của NHPH.
Do NHPH khống chế bộ chứng từ cho đến
khi được thanh toán, tức NHPH người
kiểm soát hàng cho đến khi được thanh
toán, nên tỷ lệ bảo đảm tín dụng thường
thấp (khoảng từ 15- 20% trị giá lô hàng).
- Khi có bất kỳ tranh chấp nào giữa NHPH
và nhà NK thì cơ quan tài phán sẽ áp dụng
luật quốc gia để giải quyết, trong đó đơn
xin mở LC các hợp đồng bảo đảm tín
dụng những chứng cứ không thể thiếu.
Tại Việt Nam, văn bản pháp điều chỉnh
mối quan hệ giữa nhà NK NHPH mới
được ban hành tại Thông số 21/2024/
TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định về
nghiệp vụ thư tín dụng các hoạt động
liên quan khác đến thư tín dụng, hiệu
lực từ ngày 01/7/2024.
- Điểm cần lưu ý là, nội dung đơn mở LC
phải phản ánh đầy đủ nhất quán với
điều khoản thanh toán ghi trong hợp đồng
mua bán, bởi nếu không như thế thì nhà
NK có thể gặp rủi ro. Về mặt pháp lý, đơn
ISSUING BANK
APPLICANT BENEFICIARY
Sale Contract
Application
for LC
Issue LC
C1
C2
C3
NOMINATED BANK
Dch v y thác
Dch v
Áp dng lut pháp
c nhà NK
Áp dng lut pháp
c nhà XK
Áp dng
lut pháp quc tế
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình 1. Mối quan hệ hợp đồng trong phương thức thanh toán giao dịch thư tín dụng (LC)
Nghiên cứu tính chất pháp lý điều chỉnh giao dịch thư tín dụng
và một số gợi ý cho Việt Nam
4Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 270- Năm thứ 26 (11)- Tháng 10. 2024
mở LC tính chất pháp hoàn toàn độc
lập với hợp đồng mua bán khi tranh
chấp giữa NHPH nhà NK thì cơ quan tài
phán chỉ căn cứ vào đơn mà không xem xét
đến hợp đồng mua bán. Do đó, nếu giữa
nội dung đơn hợp đồng mua bán không
nhất quán với nhau thì NHPH cần khuyến
cáo nhà NK để làm rõ lý do mà không chịu
trách nhiệm gì.
Hợp đồng C3, quan hệ hợp đồng giữa
NHPH nhà XK. Căn cứ nội dung đơn mở
LC (C2), NHPH phát hành một LC cho nhà
XK hưởng (Beneficiary), theo đó, NHPH
cam kết sẽ thanh toán không hủy ngang
và vô điều kiện cho nhà XK khi người này
xuất trình được bộ chứng từ xuất khẩu phù
hợp với các nội dung quy định trong LC và
trong thời hạn hiệu lực của LC.
Điểm cần lưu ý là, nội dung LC phải phản
ánh đầy đủ nhất quán với nội dung đơn
mở LC, nếu không như thế thì NHPH
sẽ gặp rủi ro. Mặc nội dung LC (C3)
được bắt nguồn từ đơn mở LC (C2), nhưng
về mặt pháp thì LC lại hoàn toàn độc
lập với đơn mở LC. Khi bất kỳ tranh
chấp nào giữa NHPH nhà XK (thường
được thay mặt đại diện bởi ngân hàng
phục vụ người XK, tức Ngân hàng được
chỉ định, sau đây viết tắt NHĐCĐ) thì
cơ quan tài phán sẽ áp dụng thông lệ và tập
quán quốc tế là UCP và ISBP để giải quyết
theo các nội dung được quy định trong LC,
không căn cứ vào nội dung đơn mở
LC (C2) hay nội dung hợp đồng mua bán
(C3). Như vậy, tính chất pháp lý của LC là
hoàn toàn độc lập với đơn mở LC với
hợp đồng mua bán. Việc NHPH quyết
định thanh toán cho bộ chứng từ xuất khẩu
hay không không phụ thuộc vào việc
thực hiện hợp đồng mua bán và không phụ
thuộc vào thực trạng hàng hóa được giao.
Về pháp lý, tòa án các nước hầu như không
can thiệp đến tính độc lập về nghĩa vụ của
NHPH đối với người thụ hưởng. Xét từ
giác độ người bán, sau khi hàng hóa được
gửi đi theo quy định của hợp đồng mua bán,
lập bộ chứng từ theo quy định của LC
xuất trình cho NHPH để được thanh toán.
Người bán không cần quan tâm đến thiện
chí và năng lực thanh toán của người mua,
bởi trách nhiệm thanh toán bộ chứng
từ thuộc về NHPH chứ không phải người
mua. Người bán cũng không cần lo lắng về
quy chế quản ngoại hối ngay cả rủi
ro chính trị ở nước người mua, bởi vì trong
hầu hết các trường hợp, cam kết của NHPH
được thừa nhận rộng rãi trong nước quốc
tế, do đó nếu không thực hiện những đã
cam kết, thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín quốc
gia trên trường quốc tế, khiến cho hệ thống
ngân hàng quốc gia thể bị giáng hạng tín
nhiệm, gây bất lợi trong giao thương quốc
tế. Về mặt pháp lý, giao dịch LC là độc lập
với hợp đồng mua bán thực trạng hàng
hóa được giao, do đó, có thể làm phát sinh
động lừa đảo, gian lận thương mại như
không giao hàng hoặc giao hàng không
đúng như hợp đồng, nhưng các bên thể
thông đồng với nhau lập bộ chứng từ phù
hợp với LC để được thanh toán chiếm
đoạt tiền từ NHPH. Thực tế trên thế giới đã
xảy ra không ít trường hợp như thế.
Dịch vụ ủy thác của NHPH cho NHĐCĐ
(C4): Thông thường, nhà XK không cùng
quốc gia với NHPH, nên giữa nhà XK
NHPH không mối quan hệ khách hàng
với nhau. Do đó, để giao dịch LC thể
vận hành được trở thành phương thức
thanh toán thuận lợi và hiệu quả, thì cần có
một ngân hàng nước người xuất phục
vụ người xuất, được NHPH ủy thác thực
hiện các nghiệp vụ liên quan đến LC. Các
nghiệp vụ ủy thác thường gồm: Thông báo
LC (advising), thương lượng chiết khấu bộ
chứng từ (negotiating), trả tiền (paying),
chấp nhận hối phiếu (accepting), cam kết
trả chậm (deferred undertaking payment),
xác nhận LC (confirming) chuyển
NGUYỄN VĂN TIẾN
5
Số 270- Năm thứ 26 (11)- Tháng 10. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
nhượng LC (transferring). Về mặt pháp lý,
ngoại trừ nghiệp vụ xác nhận LC là không
hủy ngang, thì tất cả các nghiệp vụ còn lại
thể hủy ngang. Điều này nghĩa
là, sau khi được NHPH ủy thác, NHĐCĐ
quyền thực hiện hoặc không thực hiện
các nghiệp vụ này tại bất kỳ thời điểm nào
cho đến khi bộ chứng từ được xuất trình.
Mọi tranh chấp phát sinh giữa NHPH
NHĐCĐ được giải quyết trên sở thông
lệ và tập quán quốc tế là UCP và ISBP.
Mối quan hệ giữa NHĐCĐ và nhà XK (C5):
Khi NHĐCĐ cung cấp các dịch vụ liên quan
đến LC cho nhà XK (như nói ở trên), nếu
tranh chấp xảy ra thì hệ thống văn bản pháp
quốc gia sẽ được áp dụng để giải quyết.
Tại Việt Nam, văn bản pháp trực tiếp đó
Thông số 21/2024/TT-NHNN ngày
28/6/2024 quy định về nghiệp vụ thư tín
dụng các hoạt động liên quan khác đến
thư tín dụng, có hiệu lực từ ngày 01/7/2024.
2.2. Văn bản pháp quốc tế điều chỉnh
giao dịch LC (C3)
Để điều chỉnh các quan hệ trong nước, mỗi
nước phải xây dựng cho mình một hệ thống
pháp luật riêng phù hợp với thể chế chính
trị, xã hội, tập quán và trình độ phát triển; vì
vậy, luật pháp giữa các nước ít nhiều là khác
nhau. Tuy nhiên, khi tham gia các hoạt động
quốc tế, các nước đều bình đẳng với nhau,
nên không thể dùng luật pháp của một nước
nào đó để buộc nước khác phải theo. Để giải
quyết vấn đề mâu thuẫn luật pháp giữa các
nước trong quan hệ quốc tế, các quốc gia đã
xây dựng một hệ thống pháp thống nhất
mang tính quốc tế để điều chỉnh các hoạt
động quốc tế, trong đó hoạt động thanh
toán quốc tế bằng LC.
Trong thực tế, tất cả các những ai tham gia
vào hoạt động quốc tế, không loại trừ một
ai, không loại trừ bất kỳ một hoạt động nào,
đều phải tuân thủ các nguồn luật chúng
ta đối tượng điều chỉnh. Trong khi đó, các
nguồn luật (quốc gia quốc tế) tương đối
nhiều, một người không thể đọc, nghiên cứu
được tất cả các nguồn luật đó, vậy, khi
tiến hành một hoạt động nào đó, người ta
trước hết phải bám sát tuân thủ nguồn
luật chuyên ngành (luật riêng, luật đặc thù)
điều chỉnh hoạt động đó. Thanh toán quốc tế
là một hoạt động đặc thù trên phạm vi quốc
tế, do đó, phải hệ thống văn bản pháp
quốc tế đặc thù để điều chỉnh. Về bản,
hệ thống văn bản pháp lý ngày nay đã được
luật hóa, tuy nhiên, bên cạnh đó thì hệ thống
văn bản pháp tùy ý cùng song song tồn
tại. Sự khác nhau bản giữa luật văn
bản pháp tùy ý luật tính bắt buộc
thực hiện đương nhiên, không loại trừ; trong
khi đó, văn bản pháp tùy ý chỉ hiệu
lực pháp (trở nên tính bắt buộc thực
hiện giống như luật) khi các bên liên quan
tự nguyện thỏa thuận áp dụng.
Thực tế, thương mại và thanh toán quốc tế
vốn phức tạp nhiều rủi ro hơn so
với thương mại thanh toán nội địa, bởi
vì, chịu chi phối bởi không những pháp luật
còn những thông lệ tập quán quốc
tế. Do đó, các bên tham gia thương mại và
thanh toán quốc tế phải am hiểu thấu đáo
không những pháp luật nói chung còn
phải am hiểu tường tận các thông lệ và tập
quán quốc tế do ICC ban hành. Bộ thông lệ
tập quán quốc tế do ICC ban hành điều
chỉnh giao dịch LC gồm có:
- Tập quán thực hành thống nhất về tín
dụng chứng từ (The Uniform customs and
practice for documentary credits - UCP).
- Tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế
trong kiểm tra chứng từ theo tín dụng chứng
từ (The International Standard Banking
Practice for the Examination of Documents
under Documentary Credits - ISBP).
- Quy tắc thống nhất về hoàn trả liên hàng
theo tín dụng chứng từ (The Uniform Rules
for Bank-to-Bank Reimbursements Under