
ĐẶT VÂ#N ĐÊ$
Trên thế giới, kể từ khi tán sỏi thận qua da thành công lần đầu
tiên vào năm 1976 và dần trở nên một phương thức điều trị sỏi thận
được ưu chuộng, kể cả sỏi thận phức tạp, sỏi bán san hô, sỏi san hô.
Tuy nhiên, hầu hết các tai biến, biến chứng của phẫu thuật tán sỏi
thận qua da đều liên quan đến việc chọ dò tạo đường hầm vào thận và
kích thước đường hầm tiếp cận sỏi. Do vậy, các cải tiến làm giảm
kích thước đường hầm, phương tiện định vị chọc dò làm cho kỹ thuật
này dễ thực hiện và ít tai biến, biến chứng hơn. Hiện nay phương
pháp tán sỏi thận qua da đường hầm nhỏ đã được áp dụng tương đối
rộng khắp ở nhiều nước trên thế giới cũng như tại Việt nam.
Tại Việt Nam, phương pháp tán sỏi thận qua da đường hầm nhỏ
(Mini-PCNL) điều trị sỏi thận mới được ứng dụng trong thập kỷ gần
đây. Tuy nhiên, phương pháp Mini-PCNL là một kỹ thuật phức tạp,
sau một thời gian triển khai ứng dụng đến nay vẫn chưa đạt được sự
đồng thuận, thống nhất về tính hiệu quả, an toàn cũng như về mặt chỉ
định và quy trình kỹ thuật phù hợp với hoàn cảnh hiện tại là những
vấn đề mà nhiều tác giả quan tâm, bàn luận.Vì vậy, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu với 2 mục tiêu:
1. Đánh giá kết quả điều trị sỏi thận bằng phương pháp tán sỏi
qua da đường hầm nhỏ tại Bệnh viện Quân Y 103.
2. Góp phần xây dựng chỉ định và quy trình kỹ thuật tán sỏi qua
da đường hầm nhỏ điều trị sỏi thận.
ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Việc nghiên cứu ứng dụng phương pháp này một cách đầy đủ
về chỉ định, quy trình kỹ thuật có hệ thống được thực hiện ở một
trung tâm đào tạo và Bệnh viện lớn trong cả nước nên đảm bảo tính
khoa học. Đề tài này có tính thời sự và rất có ý nghĩa thực tiễn, phù
hợp với xu thế phát triển của phẫu thuật tán sỏi thận qua da đường
hầm nhỏ, là một đóng góp khẳng định tính ưu việt của phương pháp
này.
Kết quả nghiên cứu trên số lượng bệnh nhân khá lớn (289 BN),
có tính khả thi của kỹ thuật cao với tỷ lệ thành công 98,96%. Thời
gian phẫu thuật và thời gian nằm viện ngắn lần lượt là 67,6 ± 30,6
phút và 5,33 ± 2,11 ngày. Hiệu quả sạch sỏi cao ngay sau tán đạt
80,42%. Tai biến, biến chứng thấp chủ yếu mức độ nhẹ (độ 1,2 theo