
Ngô Đạo Tử
Ngô Đạo Tử (chữ Hán: 吴道子; 685-758) là họa sĩ lớn của Trung Quốc thời
nhà Đường, người Dương Cù thuộc huyện Vũ, Hà Nam, Trung Quốc.
Mục lục
1 Thời trẻ
2 Sự nghiệp
o 2.1 Ngao du tự tác
o 2.2 Họa sĩ cung đình
3 Di sản
4 Xem thêm
5 Tham khảo
6 Chú thích
Thời trẻ
Ngô Đạo Tử mồ côi cha mẹ từ nhỏ, gia đình nghèo. Ông thông minh hiếu
học, theo học những nhà thư pháp nổi tiếng như Trương Túc, Hạ Tri
Chương. Quãng thời gian theo học thư pháp đã tạo cơ sở cho việc học và
phát triển hội họa của ông sau này[1].

Đối với hội họa, Ngô Đạo Tử tỏ ra ham thích từ bé. Tới năm 17 tuổi, ông đã
giỏi vẽ tranh, nắm vững kỹ xảo cao siêu của hội họa. Do có tài năng, ông
được Vĩ Tự Lập, một sủng thần của Đường Trung Tông, đồng thời là người
ham mê nghệ thuật, chú ý đến và thu nhận làm tiểu lại.
Sự nghiệp
Ngao du tự tác
Ngô Đạo Tử từng theo Vĩ Tự Lập vào Tứ Xuyên. Tại đây ông đã nổi cảm
hứng vẽ tranh. Tranh sơn thủy của ông có tính chân thực, thể hiện phong
cách hùng tráng. Ngô Đạo Tử chính là người khai sáng ra sự thay đổi phong
cách tranh sơn thủy, gọi là “sơn thủy chi biến”[2].
Vào khoảng niên hiệu Cảnh Long thời Đường Trung Tông (707-709), Ngô
Đạo Tử đến Hà Khâu[3] nhận chức Huyện úy, tức là bắt trộm cướp và cai
quản tù ngục. Do cách làm việc khoan dung, dân chúng xa gần đều rất khen
ngợi. Tuy nhiên, công việc này không hợp với ông nên không lâu sau ông từ
chức, về sống ở Lạc Dương. Cũng từ thời gian này, Ngô Đạo Tử sống tự do
để thỏa chí làm nghệ thuật.
Phật giáo và Đạo giáo thời Đường phát triển mạnh, tại Tràng An và Lạc
Dương có nhiều chùa chiền, đạo quán lớn với những bức họa tường của các
bậc tiền bối. Đây là điều kiện tốt cho Ngô Đạo Tử quan sát, học tập từ các
tác phẩm của các danh họa.
Người ảnh hưởng lớn nhất tới ông là họa sĩ nổi tiếng Trương Tăng Dao thời
Lương, người không chỉ giỏi vẽ chân dung các nhân vật trong Phật giáo,
Đạo giáo mà còn chịu ảnh hưởng của các họa sĩ phương Tây với phong cách

vẽ “sơ thể” làm hình nổi trên mặt phẳng. Ngô Đạo Tử đã lĩnh hội sâu sắc
nghệ thuật này và được người đời gọi là truyền nhân hậu thế của Trương
Tăng Dao[4].
Họa sĩ cung đình
Tranh Khổng Tử do Ngô Đạo Tử vẽ
Ngô Đạo Tử vẽ nhiều tranh tường (bích họa), tên tuổi ông ngày càng nổi,
truyền tới kinh thành Tràng An. Đường Huyền Tông nghe tin, bèn triệu ông
vào triều. Từ đó Ngô Đạo Tử trở thành họa sĩ cung đình.
Đường Huyền Tông ham thích nghệ thuật, trong cung có nhiều nhà văn, nhà
thơ, nhạc công và họa sĩ. Số họa sĩ trong cung khá nhiều và được ban chức,

với nhiệm vụ vẽ chân dung các công thần, những cảnh sinh hoạt của vua và
các phi tần. Lúc mới vào cung, Ngô Đạo Tử làm chức Cung phụng, sau lên
chức Nội giáo bác sĩ có nhiệm vụ dạy các cung nữ học vẽ. Tuy nhiên chức
vụ này của ông rất thấp, dưới cả hàm Cửu phẩm. Sau đó Ngô Đạo Tử được
phong làm Ninh vương hữu. Ninh vương là anh của Huyền Tông, “hữu” là
quan chuyên đi theo hầu, hàm dưới Ngũ phẩm. Một họa sĩ được thăng lên
hàm đó thể hiện sự quan tâm của Huyền Tông đối với ông.
Ngô Đạo Tử tính tình phóng túng, thích uống rượu để sáng tác. Hòa thượng
chùa Bồ Đề tại phường Bình Khang ở kinh thành Tràng An biết vậy bèn mời
ông đến uống rượu ngon và vẽ tranh tường tại ngôi chùa mới xây.
Đạo Tử thường xuyên theo Huyền Tông đi tuần du bên ngoài. Năm 717, ông
theo Huyền Tông đến Lạc Dương. Ông gặp nhà thư pháp Trương Húc và
tướng quân Bùi Mân. Bùi Mân nhờ ông vẽ tranh trên tường ở chùa Thiên
Cung để giúp mình làm lễ siêu độ cho cha mẹ. Ngô Đạo Tử vẽ tranh và
không nhận tiền, chỉ xin Bùi Mân biểu diễn tài múa võ.
Bùi Mân nhận lời, cởi bỏ tang phục, mặc chiến bào, phi ngựa như bay, múa
kiếm sáng loáng rồi tung kiếm lên cao, giơ bao kiếm ra đỡ nhẹ nhàng như
không. Mọi người đều khen ngợi. Ngô Đạo Tử nổi hứng vẽ luôn bức tranh
Bùi Mân diễn võ, gọi là “Trừ họa hoạn biến” lên cổng chùa Thiên Cung.
Đây chính là bức tranh đắc ý nhất trong đời ông[5]. Nhà thư pháp Trương
Húc cũng nổi hứng, rút bút viết luôn một bức “cuồng thảo” thư. Mọi người
đều thán phục tài năng của Ngô, Bùi, Trương.
Ngoài việc vẽ tranh trong cung, Ngô Đạo Tử vẫn đi vẽ tranh trong chùa và
đạo quán. Ông thương vẽ trực tiếp, không cần trợ giúp của phương tiện

đương thời gọi là “lậu cảo”. Cách vẽ đó được người đời gọi là “Đạo Tử
thuật”. Các bức vẽ của ông đều đẹp có hình có thần, do ông tùy ý tùy tâm vẽ,
không cần phác thảo trước[6]. Bức bích họa “Địa ngục biến tướng đồ” trong
chùa Cảnh Vân tại Tràng An diễn lại sự tích “Mục Liên cứu mẹ” của đạo
Phật kín 10 mặt tường lớn. Những hình quỷ quái yêu ma ở địa ngục sống
động tới mức khi xem tranh, người ta có cảm giác sởn gai ốc như yêu ma
sắp bước xuống. Ngoài ra, trong bức tranh này, Ngô Đạo Tử còn đưa chân
dung tất cả các vị quan lớn, quý tộc vào cảnh mang gông chịu tội dưới địa
ngục. Đây là hành động được đánh giá là rất can đảm của ông[7].
Bức tranh “Địa ngục biến tướng đồ” vẽ xong, dân trong kinh thành đến xem,
đều sợ phải xuống địa ngục chịu tội, nên dốc tâm làm việc thiện; có những
người đồ tể và chài lưới bỏ nghề sang làm nghề khác[8].
Năm 725, Đường Huyền Tông đi Sơn Đông tới núi Thái Sơn, mang theo
nhiều binh lính, cờ xí người ngựa kéo dài vài chục dặm. Đến Kim Kiều ở
Thượng Đảng[9], vua Đường đắc ý sai ông cùng 2 họa sĩ khác là Vĩ Vô
Thiêm và Trần Hoằng hợp sức vẽ tranh “Kim Kiều đồ”. Ba người phân công
nhau: Trần Hoằng vẽ cảnh Huyền Tông cưỡi ngựa, Vĩ Vô Thiêm vẽ cảnh
động vật ngựa, lừa, bò, dê, chó, khỉ… còn Ngô Đạo Tử vẽ nhân vật, núi non,
cỏ cây, cầu, xe ngựa… tạo thành bức tranh tuyệt tác hùng tráng có kích
thước rất lớn.
Năm 749, miếu Lão Quân ở Lạc Dương được xây dựng lại. Ngô Đạo Tử
phụng mệnh vua vẽ tranh tường trong miếu. Ông đã vẽ bức tranh “Ngũ
thánh triều nguyên đồ” gồm chân dung 5 vị vua nhà Đường là Đường Cao
Tổ, Đường Thái Tông, Đường Cao Tông, Đường Trung Tông và Đường