68
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 253- Tháng 6. 2023
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Xem xét nhận thức hội, nhận thức khả năng
sợ thất bại tác động đến ý định khởi nghiệp
Lâm Ngọc Thuỳ, Nguyễn Thị Hồng Hoa
Trường Đại học Tài chính Marketing
Ngày nhận: 02/12/2022 Ngày nhận bản sửa: 27/02/2023 Ngày duyệt đăng: 14/04/2023
Tóm tắt: Mục tiêu của nghiên cứu trình bày kết quả nghiên cứu ý định khởi
nghiệp của những người trưởng thành. hình cấu trúc tuyến tính (SEM) được
sử dụng để kiểm tra các giả thuyết trên mẫu khảo sát 309 người trưởng thành
tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 14/10/2022 đến ngày 30/11/2022.
Kết quả cho thấy ba nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến ý định khởi nghiệp:
nhận thức hội kinh doanh mức ảnh hưởng cao nhất đến ý định khởi
Considering factors that influence entrepreneurship intention: perception of business
opportunity, perception of business ability and fear of failure
Abstract: The objective of this study is to present the research results on the entrepreneurial intention of
adults. Structural Equation Modeling (SEM) was used to test the theories of a sample about 309 adults in
Ho Chi Minh City from October 14 to October 30, 2022. The results of the study show that there are three
factors directly affecting entrepreneurial intention: the perception of business opportunity has the highest
influence with 48.8%. Next is the fear of failure when starting a business, with 23.9% and the perception
of business ability accounted for 17.7% of the influence on the entrepreneurial intention of adults. Along
with that, the results also acknowledge two factors have an indirect impact on the intention to start a
business: social-cultural, and entrepreneurial competence. From the research results, the authors propose
some recommendations to (1) improve the awareness of business opportunities and the awareness of
entrepreneurship to support start-ups such as building training programs, business skills, and the ability
to operate business activities for people; and (2) reducing the fear of failure when starting a business by
improving the business environment and establishing a tectonic government, restoring business confidence
gradually.
Keywords: Entrepreneurship intention; PLS-SEM model; Perception of business opportunity; Perception of
business ability; Fear of failure.
Doi: 10.59276/TCKHDT.2023.06.2459
Lam, Ngoc Thuy
Email: lamthuy@ufm.edu.vn
Nguyen, Thi Hong Hoa
Email: nthhoa@ufm.edu.vn
Organization of all: University of Finance and Marketing
M NGỌC THUỲ - NGUYỄN THỊ HỒNG HOA
69
Số 253- Tháng 6. 2023- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
nghiệp với 48,8%. Kế đến nỗi sợ thất bại khi khởi nghiệp với 23,9% và nhận
thức khả năng kinh doanh chiếm 17,7% mức độ ảnh hưởng đến ý định khởi
nghiệp của những người trưởng thành. Đồng thời kết quả nghiên cứu cũng
thừa nhận hai nhân tố tác động gián tiếp đến ý định khởi nghiệp là Văn hoá xã
hội và Năng lực khởi nghiệp. Từ đó nhóm tác giả đưa ra một số đề xuất nhằm
(1) nâng cao nhận thức cơ hội kinh doanh và nhận thức khả năng khởi nghiệp,
như xây dựng nhiều chương trình hỗ trợ đào tạo khởi sự kinh doanh, kỹ năng
khởi nghiệp và vận hành hoạt động kinh doanh cho người dân và (2) giảm nỗi
sợ thất bại khi khởi sự như cải thiện môi trường kinh doanh, xây dựng một
Chính phủ kiến tạo, nhờ đó giúp dần lấy lại lòng tin của người làm kinh doanh.
Từ khóa: Ý định khởi nghiệp; hình PLS-SEM; Nhận thức hội; Nhận thức
khả năng; Sợ thất bại.
1. Giới thiệu
Khởi nghiệp chìa khóa quan trọng góp
phần tăng trưởng kinh tế đất nước giải
quyết tình trạng ngày càng thiếu hụt việc làm
của người lao động hiện nay. Lee cộng sự
(2006) cho rằng tinh thần khởi nghiệp được
chú trọng nhiều quốc gia được xem
cách thức để thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế tạo việc làm. Năm 2016 được Chính
phủ Việt Nam lấy làm năm “Quốc gia khởi
nghiệp”. Nhiều chính sách khuyến khích
khởi nghiệp xây dựng hệ sinh thái khởi
nghiệp sáng tạo đã được ban hành như Kết
luận số 14-KL/TW, ngày 22/9/2021 của Bộ
Chính trị về chủ trương khuyến khích
bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích
chung thông qua các Đề án 844, 939, 1665
của Chính phủ được triển khai (Chính phủ,
2022). Năm 2018, theo bảng xếp hạng Chỉ
số Đổi mới sáng tạo (GII), Việt Nam đã đạt
được kết quả khả quan, xếp thứ 44/132 quốc
gia nền kinh tế về đổi mới sáng tạo toàn
cầu, tiếp tục giữ vị trí đứng đầu trong 34
quốc gia thu nhập trung bình thấp. Việt
Nam xếp thứ 3 trong nhóm 3 hệ sinh thái
khởi nghiệp sáng tạo năng động nhất khu
vực Đông Nam Á, chỉ sau Indonesia
Singapore (Gem, 2018).
Ngày càng nhiều người Việt Nam tham
gia vào khởi nghiệp để lập ra các dự án
kinh doanh. Theo Cục Quản đăng
kinh doanh trong giai đoạn 2016- 2019,
mỗi năm Việt Nam trên 126.000 doanh
nghiệp thành lập mới, tăng gấp 1,6 lần
so với giai đoạn 2011- 2015. Việt Nam
hiện khoảng trên 3.000 doanh nghiệp
khởi nghiệp (Cục Quản Kinh Doanh,
2022). Doanh nhân ngày nay đang ngày
càng nhận được sự tôn trọng của hội.
Chính những nhận thức tích cực này giúp
thúc đẩy sự sáng tạo trong khởi nghiệp
giúp các doanh nghiệp điều kiện để phát
triển tốt hơn. Theo báo cáo của GEM Việt
Nam (Global Entrepreneurship Monitor)
dựa trên kết quả khảo sát hơn 2.000 người
trưởng thành và 36 chuyên gia Việt Nam,
đã cho thấy bức tranh về đặc điểm về phát
triển kinh doanh Việt Nam theo từng
giai đoạn trong chu kỳ phát triển, từ những
doanh nhân tiềm năng, đến lúc khởi sự, trải
qua giai đoạn đầu, cho đến khi phát triển ổn
định cuối cùng chấm dứt hoạt động
kinh doanh. Ngoài ra, Báo cáo còn đưa
ra 3 nhân tố chính hội tiềm năng
của khởi nghiệp các doanh nghiệp Việt
Nam giai đoạn 2013- 2017 bao gồm: Nhận
thức về hội khởi nghiệp; Nhận thức về
Xem xét nhận thức cơ hội, nhận thức khả năng và sợ thất bại tác động đến ý định khởi nghiệp
70 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 253- Tháng 6. 2023
khả năng Khả năng đối mặt sự thất bại
(Gem, 2018).
Do đó, tính mới của nghiên cứu này sẽ tập
trung vào việc (1) Xem xét sự ảnh hưởng
của nhân tố văn hoá hội năng lực
tác động đến nhận thức thức hội, nhận
thức khả năng và nỗi sợ thất bại của những
người trưởng thành; (2) Đánh giá vai trò
trung gian của nhân tố nhận thức hội,
nhận thức khả năng sợ thất bại trong
mối quan hệ tác động giữa văn hoá hội
năng lực đến ý định khởi nghiệp của
người trưởng thành tại Thành phố Hồ Chí
Minh (Tp. HCM). Từ đó tạo sở khoa
học cho việc đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao ý định khởi nghiệp cho đối tượng
trên ở Việt Nam.
2. Cơ sở thuyết và mô hình nghiên cứu
2.1. Cơ sởthuyết
Khởi nghiệp hoạt động tự làm chủ
doanh nghiệp- một quá trình nhân
khởi nghiệp xác định biết theo đuổi,
nắm lấy những hội trong nền kinh tế
(Stevenson & Jarillo, 2007). Theo đó, khởi
nghiệp quá trình thiết kế, khởi chạy
vận hành kinh doanh xu hướng bao
gồm các chủ đề như sự ủng hộ của Chính
phủ, dịch vụ, các khóa học khởi nghiệp, hỗ
trợ tài chính... thúc đẩy và hỗ trợ các doanh
nhân (Lin, Peña, & Chen, 2017).
Ý định khởi nghiệp có thể được định nghĩa
sự liên quan ý định của một nhân
để bắt đầu một doanh nghiệp (Souitaris,
Zerbinati, & Al-Laham, 2007); một
quá trình thúc đẩy lập kế hoạch thực
hiện một kế hoạch kinh doanh (Gupta and
Bhawe, 2007). Để tạo ra doanh nghiệp của
riêng họ, các nhân phải nhận ra các
hội, tận dụng các nguồn lực (Kuckertz &
Wagner, 2010). Ý định khởi nghiệp trong
phạm vi nghiên cứu của bài báo này được
hiểu theo quan điểm của Dohse Walter
(2012), trong đó ý định khởi nghiệp được
định nghĩa trạng thái của tâm trí trong
việc sẵn sàng thực hiện tự kinh doanh, tự
tạo việc làm hoặc thành lập doanh nghiệp
mới. Theo Krueger Deborah Brazeal
(1994), ý định cho khởi nghiệp chính
tiền đề cho hành vi khởi nghiệp. Điều này
khẳng định việc nghiên cứu ý định khởi
nghiệp là rất quan trọng và thể hiện nỗ lực
khuyến khích các hoạt động tự kinh doanh.
Các nhân tố tác động đến hành vi khởi
nghiệp thể được tiếp cận thông qua
hình thuyết về hành vi dự định của
Ajzen (1991). Lý thuyết này được xây dựng
nhằm mục tiêu cải thiện khả năng dự đoán
của thuyết hành động hợp (Theory of
reasoned action- TRA) Ajzen đã từng
đưa ra trước đó, nhằm khắc phục những
hạn chế của hình ban đầu trong việc
giải quyết kiểm soát hành vi. Theo thuyết
hành vi dự định của Ajzen (1991), tác giả
cho rằng ý định thực hiện hành vi sẽ chịu
ảnh hưởng bởi ba nhân tố như thái độ đối
với hành vi, tiêu chuẩn chủ quan nhận
thức về kiểm soát hành vi. Nhân tố thứ ba
ảnh hưởng đến ý định của con người
nhân tố nhận thức kiểm soát hành vi. Nhân
tố này đã chỉ ra sự dễ dàng hay khó khăn khi
thực hiện hành vi, nhận thức của nhân
do khả năng của bản thân nguồn lực
để thực hiện hành vi (Ajzen, 1991). Trong
nghiên cứu này, các nhân tố trong hình
của Ajzen cũng được sử dụng để xây dựng
hình các nhân tố ảnh hưởng đến ý định
khởi nghiệp của những người trưởng thành.
2.2. Mô hình nghiên cứu
Dựa trên thuyết nền tảng của Ajzen
(1991), Dohse Walter (2012) Krueger
Deborah Brazeal (1994), và các công trình
nghiên cứu liên quan đến ý định khởi
nghiệp của sinh viên tại Việt Nam, như
M NGỌC THUỲ - NGUYỄN THỊ HỒNG HOA
71
Số 253- Tháng 6. 2023- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Nguyen & Phan (2014), Huỳnh Nhật Nghĩa
cộng sự (2021), Nguyễn Hải Quang
Cao Nguyễn Trung Cường (2017), Nguyễn
Quốc Nghi cộng sự (2016), Đoàn Thị
Thu Trang (2018), Thanh Tùng
Đinh Cao Tín (2018), nhóm tác giả phân
tích ảnh hưởng gián tiếp của văn hoá hội
năng lực khởi nghiệp đến ý định khởi
sự của người trưởng thành thông qua: nhận
thức hội, nhận thức khả năng nỗi sợ
thất bại của họ tại khu vực Tp. HCM.
hình nghiên cứu được đề xuất như Hình 1.
Văn hoá- Xã hội
Nghiên cứu của Nguyen & Phan (2014)
đã chỉ ra rằng môi trường bên ngoài ảnh
hưởng đến nhận thức về tinh thần kinh
doanh và gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến
ý định khởi nghiệp. Remeikiene & cộng
sự (2013) đã chứng minh rằng «văn hóa/
đất nước», «các yếu tố xã hội», những tấm
gương điển hình về sáng tạo kinh doanh,
«sự ủng hộ của gia đình», lòng mong muốn
khởi nghiệp» tác động tích cực đến ý
định tạo lập việc kinh doanh mới. Hơn nữa,
Ambad & Damit (2016) chỉ ra rằng các
chính sách hỗ trợ khởi nghiệp kinh doanh
cho các nhà khởi nghiệp khuyến khích
các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu sau
khi thành lập doanh nghiệp đến từ Chính
phủ cũng sẽ ảnh hưởng đến quyết định
khởi nghiệp. Từ đó đề xuất các giả thuyết:
H1: Văn hoá hội tác động cùng chiều
đến nhận thức cơ hội
H2: Văn hoá hội tác động cùng chiều
đến nhận thức khả năng
H3: Văn hoá hội tác động cùng chiều
đến sợ thất bại
Năng lực
Nhận thức về năng lực bản thân cảm nhận
nhận thức của một nhân về việc thực hiện
một hoạt động nhất định thông qua khả năng
thiết lập, duy trì kiểm soát các biến hội
(Liñán & Chen, 2009) hoặc khả năng quản
tình huống và phát triển ý tưởng (Autio et
al., 2001; Kickul & Gundry, 2002). Những
cá nhân cảm nhận lạc quan về năng lực của
mình trước cũng sẽ lạc quan với tính khả
thi khi thực hiện công việc (Krueger, 1993;
Kickul & Gundry, 2002; Liñán & Chen,
2009). Cá nhân có mong muốn khởi nghiệp
tin tưởng vào năng lực khởi nghiệp thành
công của bản thân sẽ xuất hiện tiềm năng
khởi nghiệp (Krueger & Deborah Brazeal,
1994; Shapero & Sokol 1982). Từ đó đề
xuất các giả thuyết:
H4: Năng lực tác động cùng chiều đến
nhận thức cơ hội
H5: Năng lực tác động cùng chiều đến
nhận thức khả năng
H6: Năng lực tác động ngược chiều đến nỗi
sợ thất bại
Nhận thức cơ hội
Nhận thức về các cơ hội kinh doanh có thể
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp, 2022
Hình 1. Mô hình đề xuất
Xem xét nhận thức cơ hội, nhận thức khả năng và sợ thất bại tác động đến ý định khởi nghiệp
72 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 253- Tháng 6. 2023
tự động liên quan đến ý định bắt đầu một
công việc kinh doanh mới và việc xác định
các hội này một kỹ năng quan trọng
và thiết yếu mà doanh nhân tham vọng cần
(Vidal-Suñé & López-Panisello, 2013).
Chính phủ thể tạo điều kiện thuận lợi
cho việc xác định các hội kinh doanh
và quá trình khởi nghiệp bằng cách bù đắp
những thiếu sót của doanh nhân về nguồn
lực khả năng của họ, thông qua các
chương trình trợ cấp hỗ trợ tài chính,
các chương trình đào tạo, cung cấp thông
tin vấn… (Dahles, 2005; Christian
Keuschnigg & Soren Bo Nielsen, 2004).
Từ đó đề xuất các giả thuyết:
H7: Nhận thức cơ hội tác động cùng chiều
đến ý định khởi nghiệp.
Nhận thức khả năng
Nhận thức khả năng mức độ tự tin của
một nhân về khả năng thực hiện các
hành vi (Ajzen, 1991). Một trong những
loại năng lực quan trọng nhất năng lực
động, được định nghĩa “khả năng tích
hợp, xây dựng phân bổ nguồn các năng
lực bên trong bên ngoài để giải quyết
các vấn đề môi trường đang thay đổi nhanh
chóng” (Teece & cộng sự, 1997). Theo
đó, Nguyen & Phan (2014) cũng cho thấy
nhận thức tính khả thi ảnh hưởng đến nhận
thức tích cực về tinh thần kinh doanh
ảnh hưởng gián tiếp tích cực đến ý định
khởi nghiệp. Những người nhận thức
lạc quan về năng lực bản thân đối về khởi
nghiệp cũng thường có cái nhìn tốt về tính
khả thi thực hiện hoạt động khởi nghiệp.
Từ đó đề xuất giả thuyết:
H8: Nhận thức khả năng tác động cùng
chiều đến ý định khởi nghiệp.
Sợ thất bại
Nỗi sợ hãi phổ biến các doanh nhân khi
khởi nghiệp sợ thất bại, nỗi sợ thất bại
đánh giá các mối đe dọa trong các tình
huống được đánh giá khả năng thất bại
(David E. Conroy, 2001). Những tình huống
này gây ra các phản ứng hành vi khác nhau:
đương đầu với mối đe doạ; hoặc tránh
các mối đe doạ; hoặc bị liệt trước các
tình huống đe doạ và điều này sẽ trở thành
rào cản đối với tinh thần khởi nghiệp. Nỗi
sợ thất bại có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu
cực đến nhận thức hành vi của nhân
(Cacciotti and Hayton, 2014). Nỗi lo lắng
thất bại là một phần không thể thiếu khi có
ý định khởi sự một doanh nghiệp. Từ đó đề
xuất giả thuyết:
H9: Sợ thất bại tác động ngược chiều đến ý
định khởi nghiệp.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu định tính được tiến hành trên
nhóm thảo luận gồm 20 thành viên đang
trong độ tuổi lao động (từ 18 đến 45 tuổi)
được chia thành 4 nhóm chính: Nhóm 1 làm
việc toàn thời gian; nhóm 2 làm việc bán
thời gian; nhóm 3 tự kinh doanh nhóm
4 đang thất nghiệp nhằm mục đích hoàn
chỉnh, bổ sung cho các thang đo. Nhóm
tác giả tạo cuộc họp online bằng Google
Meet để triển khai phỏng vấn nhóm các đối
tượng. Để kiểm định hình nghiên cứu,
nhóm tác giả sử dụng phương pháp chọn
mẫu thuận tiện. Tuy nhiên phương pháp
này có hạn chế tính đại diện của mẫu thu
thập so với tổng thể còn hạn chế, để khắc
phục vấn đề này nhóm tác giả tiến hành thu
thập dữ liệu tại Tp. HCM nơi có nhiều hoạt
động buôn bán kinh doanh các doanh
nghiệp với các loại hình dịch vụ khác nhau.
Bảng khảo sát được tạo trên google form
sau đó được gửi đến đối tượng khảo sát
như các diễn đàn Doanh nghiệp, các trung
tâm Tìm kiếm việc làm, cộng đồng cựu
sinh viên các trường đại học… thời gian
khảo sát từ ngày 14/10/2022 đến ngày
30/11/2022. Về kích cỡ mẫu của nghiên