478
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH T VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG S LN TH 3
NHẬN THỨC VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP
TRÊN NỀN TẢNG SỐ VÀ NIỀM TIN VỚI TỔ CHỨC CỦA NHÂN VIÊN
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SMEs TẠI HÀ NỘI
Nguyễn Văn Quân
Học viện Chính sách và Phát triển
Email: quan.nv97@apd.edu.vn
Tóm tt: Trách nhiệm hội của doanh nghiệp (CSR) một vấn đề ngày càng được
quan tâm tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Không chỉ các doanh nghiệp toàn
cầu các doanh nghiệp SMEs cũng đang ctrọng đẩy mạnh truyền thông về các hoạt động
CSR của mình, đặc biệt trong bối cảnh gia tăng của chuyển đổi số và môi trường số đầy tính
mới mẻ. Thông qua một nghiên cứu định lượng với 335 nhân viên đang làm việc tại các doanh
nghiệp SME trên địa bàn Nội, tác giả muốn đánh giá tác động của nhận thức về trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp trên nền tảng số đến niềm tin với tổ chức của các nhân viên.
Nhận thức về CSR của doanh nghiệp trên nền tảng số được phân thành CSR đối với hội,
CSR đối với nhân viên CSR đối với khách hàng. Kết quả phân tích cho thấy cả ba thành
phần này đều tác động ch cực đến niềm tin với doanh nghiệp của nhân viên, tuy nhiên
nghiên cứu không tìm thấy sự khác biệt giữa các đặc điểm nhân khẩu học (giới tính, độ tuổi,
trình độ học vấn, thâm niên công tác) đến niềm tin của nhân viên. Từ đó, nghiên cứu góp phần
đưa ra một số khuyến nghị giúp nhà quản doanh nghiệp SMEs cần đcao hơn nữa vai
trò truyền thông CSR hướng đến nhân viên trên các nền tảng số, đồng thời vẫn cần phải chú
trọng hài hoà để xã hội khách hàng thấy được hiệu quả CSR, từ đó nâng cao niềm tin của
nhân viên với tổ chức.
Từ khoá: Doanh nghiệp SMEs, nền tảng số, niềm tin với tổ chức, trách nhiệm xã hội.
1. Giới thiệu
Trách nhiệm hội của doanh nghiệp (CSR) hiện một trong những chủ đề nghiên
cứu nhận được nhiều sự quan tâm trong những năm gần đây, bởi đây được coi một trong
những yếu tố ảnh hưởng đến niềm tin của nhân viên đối với tổ chức, từ đó nâng cao giá trị,
hiệu quả công việc của nhân viên và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp (Kumari & cộng
sự, 2021). CSR bao gồm tất cả các hoạt động xã hội đa dạng của một tổ chức nhằm thúc đẩy
sự phù hợp giữa kỳ vọng về hội của doanh nghiệp hành vi của các bên liên quan
(Tworzydło & cộng sự, 2021). Nhiều nhà nghiên cứu khác cũng đã chứng minh rằng sự gắn
kết với CSR sẽ giúp nâng cao hiệu quả kinh tế hiệu quả hội của doanh nghiệp (Halme
& cộng sự, 2021; Ruggiero & Cupertino, 2018; Varzaru & cộng sự, 2021). Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp cũng đã đẩy mạnh ứng dụng CSR để giải quyết và cải thiện đa dạng các vấn đề
như nguồn nhân lực, các vấn đề hội, môi trường pháp thay chỉ tập trung vào việc
tối ưu hóa lợi nhuận giá trị doanh nghiệp (Aggerholm & Trapp, 2011). Các tác giả này
cũng nhấn mạnh khi nhân viên nhận thức được về các chính sách CSR của doanh nghiệp, họ
sẽ cảm thấy doanh nghiệp trách nhiệm hội cao và cảm thấy họ một phần quan trọng
của tổ chức, từ đó đóng góp và tham gia ít nhiều vào các hoạt động kinh doanh và xã hội khác
nhau. Từ đó, mức độ nhận thức về CSR của nhân viên có thể tác động đến niềm tin và sự gắn
479
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH T VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG S LN TH 3
kết của họ đối với doanh nghiệp (Al Amri & cộng sự, 2019; Archimi & cộng sự, 2018).
Trong bối cảnh chuyển đổi số và môi trường công nghệ số đang phát triển nhanh chóng
hiện nay, hiệu quả của truyền thông được coi một vấn đề quan trọng được mọi doanh nghiệp
quan tâm và đẩy mạnh, bởi việc truyền thông hiệu quả có thể nâng cao giá trị sự đánh giá
về một doanh nghiệp từ phía người tiêu dùng (Krizanova & cộng sự, 2019). Các học giả khác
nhau đã thừa nhận tầm quan trọng của truyền thông hiệu quả để tạo ra sự nhận diện của người
tiêu dùng với thương hiệu (Baskentli & cộng sự, 2019). Sự ra đời của các phương tiện truyền
thông xã hội và các nền tảng số tương ứng như Facebook, Instagram,.. hay gần đây là Tiktok
đã mang đến cho các doanh nghiệp những hội mới để quảng hình ảnh, tương tác hay
truyền đạt các hoạt động của doanh nghiệp tới người tiêu dùng (Harun & Tajudeen, 2020).
Các doanh nghiệp ngày càng phụ thuộc vào nền tảng kỹ thuật số để truyền đạt các hoạt động
CSR, đặc biệt thông qua các trang web kết nối giữa các nhân trên phương tiện truyền
thông xã hội (Lavorato & Piedepalumbo, 2023; Perelygina & cộng sự, 2019). Sự thay đổi từ
phương tiện truyền thông thông thường sang nền tảng truyền thông hội này đã được thừa
nhận rằng sự tham gia của người tiêu dùng có thể được gia tăng bằng cách sử dụng nền tảng
số vì tính linh hoạt và tương tác cao hơn nhiều so với phương tiện truyền thông thông thường
(Duffett, 2017). Theo đó, các doanh nghiệp cảm thấy truyền thông xã hội trên nền tảng số
phương tiện truyền thông hiệu quả để phục vụ các mục tiêu truyền thông khác nhau, trong đó
có truyền thông cho CSR (Ahmad & cộng sự, 2021).
Tuy nhiên, theo góc độ tiếp cận từ chính những nhân viên của doanh nghiệp về hoạt
động CSR trên các nền tảng số còn nhiều khoảng trống chưa được nghiên cứu rộng rãi.
Đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nơi mà các chính sách về CSRng
như truyền thông trên nền tảng số còn nhiều sự chồng chéo, dẫn đến thực trạng nhân viên tại
chính các doanh nghiệp nhận thức chưa ràng về CRS cũng như các chiến lược truyền thông
về CSR của các doanh nghiệp này trên nền tảng số. Ngoài ra, phần lớn các doanh nghiệp tại
Việt Nam các doanh nghiệp nhỏ vừa (SMEs), chưa chú trọng nhiều vào các hoạt động
CSR. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này được thực hiện để nhằm đánh giá tác động của nhận
thức về CSR của doanh nghiệp trên nền tảng số đến niềm tin với tổ chức của nhân viên trong
các doanh nghiệp SMEs tại Hà Nội, từ đó đưa ra những giải pháp và khuyến nghị phù hợp để
nâng cao nhận thức của nhân viên về các hoạt động CSR của doanh nghiệp gia tăng niềm
tin của họ đối với tổ chức.
2. Cơ sở lý luận và giả thuyết nghiên cứu
2.1. Nhận thức về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trách nhiệm hội của doanh nghiệp (CSR) bao gồm nhiều khía cạnh trong hành vi
của doanh nghiệp với các bên liên quan như nhà sản xuất, nhà tiếp thị, khách hàng, nhà cung
cấp, nhân viên cổ đông của doanh nghiệp (Tworzydło & cộng sự, 2021). Các hoạt động
CSR bao gồm trách nhiệm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, mang lại lợi ích cho
cộng đồng xã hội, trong đó có các hoạt động nhân đạo, từ thiện cũng như các hoạt động đóng
góp vào sự phát triển chung của đất nước. Đối với bất kỳ tổ chức nào, việc một hình ảnh
gắn liền với trách nhiệm hội ngày càng trở nên quan trọng. Một số nghiên cứu đã được
thực hiện để đánh giá hiệu quả của các hoạt động CSR đến nhân viên (Aguilera & cộng sự,
2007; Morgeson & cộng sự, 2013) và chỉ ra rằng nhận thức về CSR của doanh nghiệp có thể
giúp gia tăng các hành vi tích cực của nhân viên thông qua sự cam kết với tổ chức (Brammer
480
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH T VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG S LN TH 3
& cộng sự, 2007) hay bằng cách giảm ý định luân chuyển nghỉ việc (Hansen & cộng sự,
2011).
Nghiên cứu gần đây của Al Amri & cộng sự (2019) nhấn mạnh rằng bốn khía cạnh của
nhận thức về CSR bao gồm: (1) CSR đối với xã hội, (2) CSR đối với nhân viên, (3) CSR đối
với khách hàng và (4) CSR đối với chính phủ có ảnh hưởng đến thái độ hành vi của nhân
viên. Nói cách khác, các hoạt động CSR của công ty được nhân viên ghi nhận sẽ ảnh hưởng
đến cảm xúc của nhân viên, chẳng hạn như niềm tin vào tổ chức (Lee & cộng sự, 2013). Trong
nghiên cứu này, mặc dù các tác giả kiểm định tác động của bốn khía cạnh CSR khác nhau tuy
nhiên, thang đo của biến CSR về chính phủ chỉ bao gồm hai biến quan sát, do đó tác giả nhận
định rằng chưa đảm bảo độ tin cậy cho thang đo đó. Trong nghiên cứu này, tác giả ứng dụng
thuyết trao đổi hội (Social exchange theory - SET) để thể hiện tác động của nhận thức
về CSR của doanh nghiệp trên nền tảng số đến niềm tin với tổ chức của nhân viên. Lý thuyết
này là một trong những cách tiếp cận chính đối với mối quan hệ giữa nhân viên và tổ chức và
lập luận rằng mối quan hệ của nhân viên với tổ chức được hình thành bởi các quá trình trao
đổi hội khác nhau (Blau, 1964; Emerson, 1976; Homans, 1958). Các nhân phát triển
những hành vi cụ thể như một chiến lược trao đổi để đền đáp sự hỗ trợ họ nhận được từ tổ
chức. Trong mối quan hcủa họ với tổ chức các nhà lãnh đạo, nếu họ cảm thấy thiếu sự
tin tưởng vào tổ chức, họ thể coi việc rút lui hoặc hình thành các hành vi tiêu cực giống
như phương tiện khôi phục sự công bằng trong quá trình trao đổi hội (Settoon & cộng sự,
1996). Nói cách khác khi nhân viên nhận thức về các hoạt động CSR của doanh nghiệp đang
được thực hành tốt thì họ sẽ xu hướng tin tưởng gắn đối với tổ chức hơn họ coi
mình là một phần của những đóng góp tốt đẹp đó.
2.2. Niềm tin với doanh nghiệp
Theo Mayer & cộng sự (1995), các tác giả định nghĩa niềm tin với tổ chức sự sẵn lòng
của nhân viên trước hành động của người quản lý trên những kỳ vọng tích cực về ý định hoặc
hành vi của người đó. Theo định nghĩa này, tổ chức được đại diện bởi các lãnh đạo cấp cao
và các thủ tục, quy chuẩn và quyết định của tổ chức. Một nghiên cứu khác cho rằng, niềm tin
với doanh nghiệp liên quan đến sự đánh giá toàn diện về mức độ tin cậy của một tổ chức theo
cảm nhận của nhân viên (Gambetta, 1988). Quan điểm này cũng điểm tương đồng với
nghiên cứu của Lin (2010) khi đề cập đến sự sẵn lòng của nhân viên trước những hành
động của tổ chức hay những hành vi và hành động mà họ không thể kiểm soát. Nhân viên tin
rằng tổ chức sẽ thực hiện một hành động có ý nghĩa hoặc ít nhất là không gây bất lợi cho họ.
Thuật ngữ này cũng liên quan đến sự tin tưởng vào các nhà quản lý, tin ởng vào các hành
động sự trung thực của họ, hay những kỳ vọng tích cực của nhân viên cũng những nội
hàm quan trọng của niềm tin với doanh nghiệp (Yilmaz & Atalay, 2009). Theo lý thuyết SET,
đây chính kết quả của một quá trình trao đổihội (Blau, 1964) mà trong đó nhân viên giải
thích, đáp lại các hành động liên tục theo dõi môi trường làm việc để đánh giá liệu họ
nên tin tưởng vào ban lãnh đạo doanh nghiệp hay không. Niềm tin của tổ chức đóng vai trò
quan trọng trong việc ng cao thái độ hành vi của nhân viên (Hansen & cộng sự, 2011).
Trong bối cảnh thực hiện CSR, ảnh hưởng của các hoạt động CSR có thể cho phép nhân viên
sửa đổi hành vi của họ. Nhưng quá trình sửa đổi thể xảy ra thông qua tác động của niềm
tin như nghiên cứu của Manimegalai & Baral (2018) đã đề xuất. Trong quá trình này, kiến
thức hoặc nhận thức về các hoạt động CSR của doanh nghiệp sẽ giúp nhân viên tin tưởng vào
481
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH T VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG S LN TH 3
tổ chức của họ hơn, dẫn đến thái độ và hành vi tích cực.
2.3. Mối quan hệ giữa nhận thức về trách nhiệm hội của doanh nghiệp trên nền
tảng số và niềm tin với doanh nghiệp
Ngày càng có nhiều nghiên cứu coi vai trò của CSR là tiền đề để xác định niềm tin của
một cá nhân đối với doanh nghiệp (Misani, 2017). Nhận thức của nhân viên về việc thực hiện
các hoạt động CSR thể ảnh hưởng đến mức độ tin cậy của họ đối với tổ chức (Dhiman &
Sharma, 2021). Cụ thể, những nhân viên nhận thức rằng tổ chức của họ không ý thức v
trách nhiệm hội hoặc thực hiện chúng một cách hời hợt sẽ xu hướng phát triển thái độ
hành vi tiêu cực khi họ làm việc (Iqbal & cộng sự, 2012). Ngược lại, khi nhân viên nhận
thức rằng tổ chức của họ thúc đẩy các trách nhiệm hội quan trọng, họ nhiều khả năng
cảm thấy hài lòng và phát triển niềm tin vào tổ chức, dẫn đến thái độ tích cực hơn đối với tổ
chức và cuối cùng dẫn đến hiệu suất và kết quả được nâng cao. Đặc biệt trong môi trường số,
nghiên cứu gần đây của Puwirat & Tripopsakul (2019) nhấn mạnh việc chuyển đổi cách thức
hoạt động CSR truyền thống sang cách thức truyền thông qua nền tảng số là điều tất yếu của
doanh nghiệp, góp phần gia tăng niềm tin của khách hàng và hình ảnh của thương hiệu.
thuyết SET cho rằng CSR về nhân viên tạo ra niềm tin đối với tổ chức là kết quả của
chế trao đổi qua lại trong khi CSR đối với các yếu tố bên ngoài là CSR đối với các bên liên
quan về mặt xã hội và phi xã hội và khách hàng cũng giúp khắc sâu niềm tin với tổ chức vào
tâm trí nhân viên do cơ chế trao đổi xã hội tổng quát. Vì vậy, CSR được nhìn nhận là rất quan
trọng trong việc xây dựng lòng tin của nhân viên đối với tổ chức ảnh hưởng đến thái độ,
hành vi của họ. Farooq & cộng sự (2014) đã xem xét và chứng minh tác động của CSR (bao
gồm CSR đối với các bên liên quan trong cộng đồng, CSR đối với môi trường, CSR đối với
khách hàng và CSR đối với nhân viên) đến niềm tin với tổ chức nhận thấy rằng tất cả các
tác động đều đáng kể ngoại trừ CSR đối với môi trường.
Theo Collier & Esteban (2007) khi một doanh nghiệp tích cực tham gia vào các hoạt
động CSR vì các mục đích xã hội và khách hàng thì giá trị của các hoạt động đó có xu hướng
thấm sâu vào văn hóa môi trường làm việc của doanh nghiệp. Ngoài ra, điều này củng cố
nhận thức của nhân viên rằng tổ chức của họ sẽ duy trì triển vọng ch cực ngay cả trong tương
lai, vì vậy nhân viên cảm thấy tin tưởng vào tổ chức mà họ làm việc. Kết quả này cũng được
ủng hộ bởi Hansen & cộng sự (2011) khi đã xem xét vai trò trung gian của niềm tin với tổ
chức giữa nhận thức vCSR thái độ cũng như kết quả hành vi của nhân viên. Các tác giả
đã phát hiện ra rằng những nhân viên nhận thấy doanh nghiệp có CSR cao hơn thì nhân viên
đó ít có khả năng rời bỏ tchức hơn. Hay nghiên cứu của Gaudencio & cộng sự (2017) đã xác
định vai trò trung gian quan trọng của niềm tin với tổ chức trong mối quan hệ giữa các thành
phần của nhân thức vCSR (như CSR đối với các bên liên quan, CSR đối với nhân viên, CSR
đối với chính phủ và CSR đối với khách hàng). Các kết quả đều cho thấy niềm tin với tổ chức
là kết quả ngay lập tức của nhận thức về CSR, giúp hình thành thái độ và hành vi tích cực của
nhân viên (Al Amri & cộng sự, 2019; Archimi & cộng sự, 2018; George & cộng sự, 2020;
Kumari & cộng sự, 2021; Silva & cộng sự, 2023). Dựa vào những lập luận nêu trên, tác giả
đưa ra các giả thuyết sau:
H1: CSR đối với hội trên nền tảng số tác động tích cực đến niềm tin với tổ chức
của nhân viên.
H2: CSR đối với nhân viên trên nền tảng số tác động tích cực đến niềm tin với tổ
482
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH T VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG S LN TH 3
chức của nhân viên.
H3: CSR đối với khách hàng trên nền tảng số tác động tích cực đến niềm tin với tổ
chức của nhân viên.
Bên cạnh đó, một số nghiên cứu cũng đã nhấn mạnh các đặc điểm nhân khẩu học của
khách thể nghiên cứu có vai trò kiểm soát niềm tin với doanh nghiệp của nhân viên. Ví dụ, trình
độ học vấn của nhân viên càng cao thì càng niềm tin với doanh nghiệp càng lớn, tương
tự với đặc điểm giới tính nữ (Daley & Vasu, 1998). Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu đã chỉ
ra rằng giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn thâm niên trong tổ chức thể ảnh hưởng đến
niềm tin với doanh nghiệp (Tan & Lim, 2009). Nghiên cứu của Gulbahar (2017) cũng đề xuất
phải cần kiểm định vai trò kiểm soát của các đặc điểm nhân khẩu học khác nhau. Theo đó, tác
giả đề xuất mô hình nghiên cứu như sau:
Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
p
Nguồn: Đề xuất của tác giả
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Mẫu và thu thập dữ liệu
Trong nghiên cứu này, tác giả thực hiện khảo sát các nhân viên đang làm việc tại các
doanh nghiệp SMES trên địa bàn Hà Nội để thu thập số liệu nhằm phân tích c mối quan h
giả thuyết. Tác giả sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện để tiếp cận bởi đây là những người
dễ tiếp cận nhất đối với nhà nghiên cứu (Stratton, 2021). Hơn nữa, do sự hạn chế về thời gian,
ngân sách và số lượng đa dạng nhân viên trong các doanh nghiệp SMES mà tác giả có thể tiếp
cận nên đây được phương pháp tối ưu nhất mà tác giả được. Nghiên cứu này bao gồm 4
nhân tố với 20 biến quan sát, nên số mẫu tối thiểu để phân tích là 20*5 = 100 mẫu. Theo đó, tác
giả đã tiến hành khảo sát thu về 335 phiếu hợp lệ từ các nhân viên đang làm việc trong các
doanh nghiệp SMES, đảm bảo gấp hơn 3 lần so mới số mẫu tối thiểu.
3.2. Thiết kế thang đo
Trong nghiên cứu này, thang đo Likert 5 cấp độ sẽ được sử dụng làm cơ sở cho các cuộc
khảo sát, cụ thể “1-Hoàn toàn không đồng ý”; “2-Không đồng ý”; “3-Trung lập”; “4-Đồng ý”
“5-Hoàn toàn đồng ý”. Thang đo được sử dụng để đánh giá nhận thức về CSR của doanh
Nhân thc v trách nhim
xã hi ca doanh nghip trên
nn tng s
CSR đối vi xã hi
trên nn tng s (CSRXH)
CSR đối vi nhân viên
trên nn tng s (CSRNV)
CSR đối vi khách hàng
trên nn tng s (CSRKH)
Nim tin vi t chc
(NTTC)
Biến kim soát:
Giới tính; độ tui; trình
độ hc vn; thâm niên
công tác
H1+
H2+
H3+