
NHỮNG KHÁI NIỆM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
Mục tiêu bài học:
- Sinh viên nắm được các khái niệm chính sách, chính sách xã hội; đối
tượng, chức năng và mục tiêu của chính sách xã hội;
- Vận dụng được phương pháp phân tích chích sách vào việc phân tích một
chính sách xã hội cụ thể.
1. CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
1.1. Khái niệm xã hội
Xã hội là một hình thái vận động cao nhất của thế giới vật chất. Hình thái
vận động này lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người
với người làm nền tảng.
Xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và các quan hệ của các cá nhân
với nhau.
Theo Mác “Xã hội - cho dù nó có hình thức gì đi nữa - là cái gì? Là sản
phẩm của sự tác động qua lại giữa con người”
Con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên, bằng hoạt động của mình con
người làm nên lịch sử, làm nên xã hội. Vì vậy, xã hội không thể là cái gì khác mà
chính là bộ phận đặc thù được tách ra một cách hợp qui luật của tự nhiên. Xã hội là
hình thái tổ chức cao nhất của vật chất trong quá trình vận động tiến hoá lâu dài và
phức tạp.
Xã hội là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên. Tính đặc thù của xã hội
được thể hiện: khác với phần còn lại của tự nhiên chỉ có những nhân tố vô thức tác
động lẫn nhau, xã hội, nhân tố hoạt động là con người có ý thức. Hành động của họ
có suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất định. Hoạt động của con người
không chỉ tái sản xuất ra chính bản thân mình mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên.
Cho đến nay còn nhiều người hiểu theo nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Theo
nghĩa rộng xã hội được hiểu như là tất cả những gì gắn với xã hội loài người nhằm
phân biệt nó với các hiện tượng tự nhiên.

Xã hội dùng trong khái niệm chính sách xã hội không đồng nghĩa với cái xã
hội mục đích, động cơ, động lực của mọi hoạt động đời sống con người, mỗi nhóm
và tập đoàn người trong một xã hội xác định.
Khái niệm xã hội, trong nghĩa rộng, không chỉ dành riêng cho con người
mà ám chỉ mọi tổ chức của các sinh vật có tương quan lệ thuộc lẫn nhau. Cụ thể
hơn, một xã hội là một tập hợp những sinh vật (1) được tổ chức, có phân công
lao động tồn tại qua thời gian, (2) sống trên một lãnh thổ, trên một địa bàn (3)
và chia sẻ những mục đích chung, cùng nhau thực hiện những nhu cầu chủ yếu
của đời sống như nhu cầu tái sản xuất, nhu cầu an ninh, các nhu cầu tinh thần...
Định nghĩa này Phân biệt khái niệm xã hội với khái niệm dân số. Khái niệm dân
số không hàm ý một tổ chức xã hội, trong khi khái niệm xã hội nhấn mạnh
những mối quan hệ hổ tương giữa các thành viên trong xã hội. Định nghĩa như
trên xã hội cũng không đồng nghĩa với quốc gia, mặc dù trong thế giới hiện nay,
khái niệm xã hội thường ám chỉ một quốc gia, một nhà nước, bởi lẽ thông
thường một thành viên của xã hội họ nghĩ rằng họ là thành viên của một quóc
gia nhất định. Nhưng không phải luôn luôn như vậy và trong nhiều trường hợp
không có sự đồng nhất giữa xã hội và nhà nước. Đó cũng chính là nguyên nhân
của nhiều cuộc nội chiến, của nhiều cuộc xung đột xã hội như trường hợp của
Palestine, của những thổ dân châu Mỹ hay của bộ lạc Ibo ở Nigeria.
Xã hội con người khác xã hội của loài vật, bởi lẽ con người có khả năng thay
đổi hình thái và chức năng của xã hội để thích ứng với hoàn cảnh, hay nói cách
khác con người có khả năng xây dựng cho mình một nền văn hóa. Văn hóa cho
phép con người sống trong xã hội không chỉ dựa trên sự phân công lao động, trên
sự lệ thuộc tương hỗ mà còn chia sẻ những giá trị, những niềm tin chung. Cùng
nhắm tới việc thực hiện một chức năng xã hội, nhưng văn hóa cho phép con người,
thuộc những nền văn hóa khác nhau, có những loại hình quan hệ xã hội, tương tác
xã hội khác nhau. Do đó một khi đã được sản sinh, văn hóa và xã hội phát triển đan
xen một cách rất phức tạp.
Theo các Mác và Ăng ghen, xã hội là hình thái vận động cao nhất của thế
giới vật chất. Hình thái vận động này lấy con người và sự tác động lẫn nhau giữa
người và người làm nền tảng xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những
quan hệ của các cá nhân, là sản phẩm của tác động qua lại giữa những con người.
1.2. Vấn đề xã hội

Thế nào là vấn đề xã hội, vấn đề này được xem xét dưới nhiều phương diện,
góc độ khác nhau trong các ngành, môn khoa học khác nhau.
Theo các nhà xã hội học thì có vấn đề xã hội khi những thành viên của một
cộng đồng (lớn hay nhỏ) nhận thấy có những dấu hiệu hoặc điều kiện gây ảnh
hưởng, tác động hoặc đe dọa đến chất lượng cuộc sống của họ và đòi hỏi phải có
những biện pháp, giải pháp để phòng ngừa, ngăn chặn giải quyết tình trạng đó theo
hướng có lợi cho sự tồn tại và phát triển của cộng đồng.
Theo Mác thì xã hội là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với
người và như vậy nó chính là đối tượng nghiên cứu của việc nghiên cứu các vấn đề
xã hội nói chung và chính sách xã hội nói riêng. Theo quan điểm này thì vấn đề xã
hội được hiểu rất rộng và khó xác lập.
Có quan niệm lại đặt các vấn đề xã hội bên cạnh các vấn đề khác như kinh
tế, chính trị, văn hóa xã hội... quan điểm này cũng mang tính tương đối vì trong
từng vấn đề cụ thể đã chứa đựng trong đó cả khía cạnh kinh tế, chính trị, văn hóa
và cả khía cạnh xã hội. Ví như vấn đề lao động việc làm nó hàm chứa cả vấn đề
kinh tế và vấn đề xã hội.
Vậy, vấn đề xã hội là những vấn đề phát sinh trong lòng xã hội liên quan đến
con người, liên quan đến sự công bằng, bình đẳng trong xã hội, đến cơ hội tồn tại
và phát triển, đến sự hưởng thụ các nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người.
Đó là các vấn đề có ảnh hưởng tác động, thậm chí đe dọa sự phát triển bình thường
của con người, của cộng đồng xã hội, tác động xấu đến chất lượng sống của con
người, của cộng đồng và do vậy đòi hỏi phải có những giải pháp, biện pháp kiểm
soát, phòng ngừa, ngăn chăn, điều chỉnh hoặc giải quyết theo hướng bảo đảm sự
phát triển bền vững của xã hội.
Vấn đề xã hội là những tình huống nảy sinh trong đời sống xã hội mà cách
thức và những biện pháp giải quyết của chủ thể (con người, nhóm xã hội) chưa đạt
được kết quả mong muốn. chẳng hạn như là nghèo đói, mại dâm, thất nghiệp, ma
túy, xung đột,...
1.3. Chính sách xã hội
Đây là vấn đề gây không ít tranh cãi. Để làm rõ vấn đề này trước tiên cần
nghiên cứu và phân tích một số khái niệm liên quan như:
1.3.1. Khái niệm chính sách

Theo nhiều nhà nghiên cứu, chính sách là hình thức tác động qua lại giữa
các nhóm, tập đòan xã hội gắn trực tiếp họăc gián tiếp với tổ chức, hoạt động của
nhà nước, của các đảng phái, thiết chế khác nhau của hệ thống chính trị nhằm thực
hiện các lợi ích, các mục tiêu, nhiệm vụ của các nhóm, tập đòan xã hội ấy.
Chính sách thường được thể chế hóa trong các quyết định, hệ thống pháp
luật, các quy chuẩn hành vi và những quy định khác.
Chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay các nhà quản
lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.
Chính sách là một quá trình hành động có mục đích được theo đuổi bởi một
hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm.
Chính sách là hoạt động chính trị, liên quan đến những mục tiêu cơ bản, một
chuỗi các hành động, một tập hợp các quy tắc và điều chỉnh. Có thể phân tích
chính sách theo nghĩa các giá trị, mục tiêu, nguồn lực, phong cách và chiến lược.
Chính sách là tập hợp biện pháp của một chủ thể quản lý, tạo ra sự đối xử
khác nhau giữa các nhóm trong một hệ thống xã hội, nhằm phục vụ cho mục tiêu
phát triển chung của toàn hệ thống.
Như vậy, khi nói đến chính sách, luôn có các yếu tố sau:
- Một chủ thể tạo dựng và thực thi chính sách;
- Các nhóm xã hội khác nhau bị tác động bởi chính sách;
- Một chính sách phân biệt đối xử giữa các nhóm xã hội;
- Mục tiêu phát triển chung của toàn hệ thống.
Khoa học chính sách là một ngành khoa học vận dụng một cách tổng hợp
các tri thức và phương pháp để nghiên cứu hệ thống chính sách và quy trình chính
sách, tìm ra thực chất, nguyên nhân và kết quả của chính sách, cung cấp những
kiến thức liên quan đến chính sách nhằm mục đích cải tiến hệ thống chính sách và
nâng cao chất lượng của chính sách.
Từ những định nghĩa và phân tích khái niệm như trên về chính sách và xã
hội ta có thể đi đến cách tiếp cận sau về chính sách xã hội. Xã hội dùng trong
chính sách xã hội là cái xã hội theo nghĩa hẹp. Nó đang được nhiều nhà nghiên cứu
thống nhất hiểu như mối qua hệ của con người, của các cộng đồng người thể hiện

trên nhiều mặt của đời sống xã hội từ chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng . Điều
này không có nghĩa là “cái xã hội” theo nghĩa hẹp là cái bao trùm, chứa đựng mọi
quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa và tư tưởng mà chính xác hơn, nó chính là yếu
tố con người, là khía cạnh nhân văn của tất cả những mối quan hệ kinh tế, chính trị,
văn hóa, tư tưởng ấy. như vậy cái xã hội theo nghĩa hẹp chính là mục tiêu, là mục
đích của tất cả các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa và tư tưởng của con người.
Quan hệ giữa “cái xã hội” theo nghĩa hẹp với cái “kinh tế” “chính trị” “văn hóa”
“tư tưởng” những cái chung với những cái riêng. Người ta có thể tìm thấy cái xã
hội này thông qua việc phân tích chính sách xã hội.
Các quan niệm về chính sách xã hội
Theo nhà xã hội học Xô Viết V.Z.Rogovin: Chính sách xã hội là lĩnh vực tri
thức xã hội học, nghiên cứu hệ thông về các quá trình xã hội, quyết định hoạt động
sống của con người trong xã hội, xét theo khả năng tác động, quản lý đến các quá
trình đó
Theo Giáo sư Anthony Giddens là một nhà xã hội học người Anh: chính
sách xã hội là “sự nghiên cứu có hiệu quả về xã hội học, khoa học chính trị và khoa
học kinh tế, được chờ đợi nhằm biến đổi hoạch định chính sách trong chính phủ và
do đó dẫn đến tiến bộ xã hội và thịnh vượng kinh tế.
Theo Giáo sư G.Winkler (Viện trưởng Viện Xã hội học và chính sách xã hội
– Viện Hàn lâm Khoa học CHDC Đức): Chính sách xã hội là tổng hoà các biện
pháp và phương pháp của Đảng, của giai cấp công nhân, của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, của các liên hợp công đoàn, của các đảng phải và các tổ chức chính trị khác,
nhằm tiếp tục xây dựng quan hệ xã hội… phục vụ cho những yêu cầu và lợi ích
của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tri thức và những người lao động
khác
Như vậy, có thể thấy:
- Chính sách xã hội là lĩnh vực tri thức xã hội học, nghiên cứu hệ thống về
các qúa trình xã hội, quyết định hoạt động sống của con người trong xã hội, xét
theo khả năng tác động, quản lý đến các quá trình đó. Có đầy đủ cơ sở để xem xét
csxh như là sự hòa quyện của khoa học và thực tiễn, như là sự phân tích phức hợp,
dự báo về các quan hệ, các quá trình xã hội và sự vận động thực tiễn các tri thức
thu nhận được nhằm mục đích quản lý các quá trình và quan hệ ấy.