CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Mục tiêu bài học:
- Nắm được các giai đoạn chính của quá trình nhận thức và thực hiện chính
sách xã hội ở Việt Nam;
- Nắm được những nội dung cơ bản về ba kiểu chính sách phúc lợi ở
Việt Nam;
- Nắm được những nội dung cơ bản về ba kiểu chính sách phúc lợi ở
Việt Nam;
- Nắm được một số vấn đề xã hội cấp bách ở Việt Nam hiện nay.
1. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Ở Việt Nam do những hoàn cảnh xã hội đặc biệt, chính sách xã hội được
nhận thức thực hiện theo những giai đọan lịch sử khác nhau. thể chia ra
thành ba giai đoạn lớn để phân tích:
Giai đọan 1 : Từ sau cách mạng tháng tám thành công đến khi cuộc cách
mạng giả phóng dân tộc hòan thành với sự nghiệp kháng chiến chống mỹ thắng
lợi và thống nhất đất nước.
Giai đọan 2 : Từ sau năm 1975 đến khi Đại hội lần thứ VI của Đảng đề
ra đường lối đổi mới.
Giai đọan 3: Từ năm 1986 đến nay.
Hai giai đọan đầu gọi chung thời kỳ trước Đại hội VI của Đảng
(12/1986), do những hạn chế nhận thức của hình hội chủ nghĩa kiểu
cũ, chính sách xã hội chưa được nhận thức đầy đủ. Còn tồn tại quan niệm chính
sách hội chỉ chính sách dành cho những đối tượng hội đặc biệt thiếu
khả ng lao động hoặc cần ưu đãi. Nhiều người coi chính sách hội chỉ
chính sách cứu trợ hội, ưu đãi hội bảo hiểm hội. Nhiều vấn đề
tầm nhu dân số, việc làm, thiết kế những phương án phát triển kinh tế
chưa tính toán đầy đủ đến những vấn đề hội môi trường hội cần thiết
cho con người. Đôi khi chính sách kinh tế tách rời khỏi chính sách hội, còn
chính sách hội đôi khi vượt quá trình độ phát triển của nền kinh tế. Chủ
nghĩa bình quân không chỉ trong phân phối thu nhâp nói chung, trong cả
việc thực hiện chính sách hội. Nhiều nhu cầu hội của nhân đáng được
thỏa mãn nhưng lại bị đồng hóa trong tập thể, cộng đồng. Những sắc thái riêng
biệt của nhân ít được quan tâm. Chính sách hội, ràng chưa được nhận
thức và thực hiện đầy đủ với tất cả những yêu cầu của nó.
Từ sau đổi mới (Đại hội VI), chính sách hội được Đảng Nhà nước
ta đặc biệt quan tâm, thực hiện ngày một tốt hơn. Vấn đề hội đã được tính
đến nhiều hơn trong phương án phát triển kinh tế - hội. Chính sách hội
được nhận thức với tất cả tính toàn diện, phong phú của trên cả tầm
và vi mô. Nhân tố con người và những sắc thái cá nhân đã được coi trọng.
Thực hiện chính sách hội được coi như một nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, của tất ccác lực lượng hội chứ không còn nhiệm vụ của
riêng Nhà nước như trước kia. Chủ nghĩa bình quân cũng được khắc phục từng
bước. Mở của tạo thêm điều kiện để Việt Nam huy động tiềm lực quốc tế cho
việc giải quyết nhiều vấn đề hội do lịch sử chiến tranh để lại cũng như
những vấn đề mới xuất hiện do ảnh hưởng của kinh tế thị trường.
2. CÁC KIỂU CHÍNH SÁCH PHÚC LỢI Ở VIỆT NAM
Luận đề về ba kiểu phúc lợi xã hội ở Việt Nam
Do sự quá độ của các kiểu hội hoàn cảnh lịch sử, Việt Nam đã
đang trải qua ba kiểu phúc lợi hội: phúc lợi cổ truyền, phúc lợi hội của
kinh tế hội chủ nghĩa kế hoạch hóa tập trung phúc lợi hội của kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sơ đồ dưới đâytả ba kiểu phúc lợi mà Việt Nam đã đang trải qua
dưới những ảnh hưởng của những biến đổi hội chung. Cột đầu tiên các
kiểu chính sách phúc lợi hội, cột thứ hai trình bày những thiết chế (tác viên,
chủ thể) tham gia o việc vận hành hệ thống phúc lợi hội. Cột ba thể hiện
những đặc trưng (nguyên tắc) vận hành chính của mỗi hệ thống.
Mô hình Thiểt chế Đặc điểm
Phúc lợi cổ truyền
Gia đình
Gia đình mở rộng,
họ hàng
Cộng đồng (hàng
xóm, làng xã, các
hiệp hội, tổ chức
tôn giáo, v.v...)
Phường hội
Nhà nước
Phúc lợi làng xã: gia đình
gia đình mở rộng đóng vai trò
đầu tiên, nhưng dòng họ
các thiết chế cộng đồng có vai
trò rất quan trọng
Nhà nước đưa ra khuôn khổ
luật pháp các điều chỉnh
đối với phúc lợi làng xã
Phúc lợi xã hội dựa
trên kinh tế kế hoạch
hoá xã hội chủ nghĩa
(từ cuối những năm
1950 ở miền Bắc và từ
Bảo đảm hội toàn dân
thông qua việc gắn người dân
vào hệ thống phúc lợi hội
khu vực nhà nước và tập thể
cuối những năm 1970
trên cả nước đến cuối
những năm 1980)
Nhà nước
Cơ quan/xí nghiệp
nhà nước
Hợp tác xã
Đoàn thể quần
chúng
Cộng đồng
Tổ chức quốc tế
Phát triển bảo hiểm hội
cho người lao động trong khu
vực nhà nước và một hệ
thống bảo đảm xã hội cho khu
vực tập thể, đặc biệt nông
thôn
Nhấn mạnh vào kế hoạch hóa
quản của nhà nước
trung ương đối với phúc lợi
xã hội
Phúc lợi xã hội dựa
trên kinh tế thị
trường theo định
hướng xã hội chủ
nghĩa
(từ cuối những năm
1980 đến nay)
Nhà nước
Tổ chức kinh
doanh/đơn vị cơ
quan nhà nước và
không nhà nước
Đoàn thể quần
chúng
Nhà nước đóng vai trò nòng
cốt, đồng thời thu hút phát
huy sự tham gia của mọi
thành phần, lĩnh vực vào phúc
lợi xã hội.
Thừa nhận nâng cao vai
trò của khu vực tư nhân.
Tăng cường vai trò của nhà
nước địa phương.
Gia đình
Cộng đồng
Xã hội dân sự
Cá nhân
Tổ chức quốc tế
Đề cao vai trò của hộ gia
đình.
Mở rộng bảo đảm hội
bảo hiểm xã hội cho toàn dân,
cho mọi khu vực xã hội.
Tăng cường tự chủ kinh tế
hành chính cho các tổ chức
bảo hiểm xã hội nhà nước.
Mở rộng giúp đỡ quốc tế.
Thực tế phúc lợi hội Việt Nam thời gian qua đã trải qua ba hình
phúc lợi hội được tả trong đồ trên. Quá trình này không dẫn đến việc
thay thế lẫn nhau hòan tòan, hình giai đọan trước còn bảo lưu nhiều
đặc điểm trong giai đọan sau, dẫn đến một sự kết hợp, pha trộn của cả ba
hình trong thời điểm hiện nay. Kiểu quá độ trên đã giúp cho nhà nước và xã hội
Việt Nam vượt qua nhiều biến cố lịch sử một cách thành công như chiến tranh,
khủng hỏang, cấm vận, chuyển đổi hình kinh tế - hội. Nhưng bên cạnh
đó, chính kiểu quá độ này cũng tạo ra những khó khăn và thách thức trong việc
định hình một hệ thống phúc lợi xã hội mới.
Trong kiểu phúc lợi cổ truyền, gia đình họ hàng, làng các thiết
chế trong lòng nó, đóng vai trò chủ yếu trong việc chăm sóc phúc lợi. Nhà
nước cũng gây ảnh hưởng thông qua các bộ luật hoặc chỉ dụ của triều đình.q
dụ: Trong 722 điều luật Bộ Quốc triều hình luật thời ghi rõ:
“trong kinh thành, trong làng xóm, có kẻ ốm đau mà không ai nuôi, nằm đường
xá, thì dựng lều mà chăm sóc họ, cơm cháo, thuốc men, cốt sao để cứu sống họ,
không được bỏ mặt họ rên rỉ, khốn khổ...”q
Điều 295 quy định sự quan tâm đến những người mồ côi, không nơi
nương tựa. Điều 339 quy định trách nhiệm đối với những i hạn hán, lụt,
mưa bão, sâu, keo, châu chấu, thiên tai phá hoại mùa màng.
Về mặt thuyết, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đưa ra một đồ
phúc lợi hội khác cho người dân. Tuy nhiên, khi áp dụng vào Việt Nam
đồ này đã kết hợp với thực tế văn hóa - xã hội bản địa, để tạo nên một thực tiễn
phúc lợi hội hỗn hợp. Trong thực tế này, các thiết chế hội vai trò then
chốt trong việc đảm bảo phúc lợi người dân , theo thứ tự này gồm : nhà
nước; cơ quan - xí nghiệp nhà nước; hợp tác xã; đoàn thể quần chúng; gia đình;
và cộng đồng.
Những nguyên lý cơ bản của kiểu tổ chức phúc lợi xã hội này bao gồm :
- Bảo đảm hội tòan dân thông qua việc gắn người dân vào hệ thống
phúc lợi xã hội khu vực nhà nước tập thể.
- Phát triển bảo hiểm xã hội cho người lao động trong khu vực nhà nước
và một hệ thống bảo đảm xã hội trong khu vực tập thể, đặc biệt ở nông thôn.
- Nhấn mạnh vào kế hoạch hóa quản của nhà nước trung ương đối
với phúc lợi xã hội.
Từ cuối những năm 1980 trong những năm 1990 diễn ra sự chuyển
đổi mạnh mẽ của hệ thống phúc lợi hội do áp lực của thị trường, mở cửa
chính sách đổi mới. Cùng với khu vực kinh tế, khu vực phúc lợi hội chuyển
sang một kiểu phúc lợi hội mới, trong đó chức năng, tầm quan trọng thứ
tự của các thiết chế hội tham gia vào việc bảo đảm phúc lợi hội cho con
người đã thay đổi đáng kể. thể gọi ý một trật tự như sau của các thiết chế
phúc lợi hội: nhà nước; tổ chức kinh doanh/ đơn vị quan nhà nước
không nhà nước; đoàn thể quần chúng; gia đình; cộng đồng; hội dân sự;
nhân; và tổ chức quốc tế. Đây là trật tự hình thành trong chính sách. Tuy nhiên,
trong thực tế, gia đình nhân đã nổi lên như những tác nhân hội chủ
yếu để đảm bảo phúc lợi hội con người. Một bằng chứng phần đóng góp
của nhân gia đình cho các chi phí y tế giáo dục chiếm tỷ lệ ngày càng
cao.
Rút ra từ hệ thống ban hành, có thể thấy các nguyên lý của tổ chức phúc
lợi xã hội giai đoạn này là:
- Nhà nước đóng vai trò nồng cốt, đồng thời thu hút phát huy sự
tham gia của nhiều thành phần, nhiều lĩnh vực vào phúc lợi xã hội.
- Thừa nhận và nâng cao vai trò của khu vực tư nhân.
- Tăng cường vai trò của nhà nước địa phương.
- Đề cao vai trò của gia đình.
- Mở rộng bảo đảm hội và bảo hiểm hội cho toàn dân, cho mọi
khu vực xã hội.
- Tăng cường tự chủ kinh tế hành chính cho các tổ chức bảo hiểm
xã hội nhà nước.
- Mở rộng giúp đỡ quốc tế.
3. KHUNG CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT PHÚC LỢI XÃ HỘI
Phúc lợi hội một chủ đề quan trọng ngay từ cương lĩnh đầu tiên
của Đảng cộng sản Việt Nam thành lập. Từ ngày đầu lập nước, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dành nhiều m sức hình thành xây dựng khung chính sách
phúc lợi quốc gia.