intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ôn luyện Ngữ văn 9: Sang Thu

Chia sẻ: Thanh Thanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

77
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung "Ôn luyện Ngữ văn 9: Sang Thu" trình bày về dàn ý chi tiết làm thành một bài văn mẫu giúp các bạn dễ dàng nắm bắt nội dung để viết thành một bài văn của riêng mình. Mời các bạn cùng tham khảo tài liệu

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ôn luyện Ngữ văn 9: Sang Thu

Tài liệu: Ôn luyện Ngữ văn 9- Cô Trần Thị Vân Anh<br /> <br /> Sang thu<br /> <br /> “Sang thu”<br /> -Hữu ThỉnhMùa thu quả nhiên là mùa nhạy cảm bậc nhất trong năm. Con người cùng tạo vật tất thảy đều<br /> nhạy cảm. Tuy nhiên, cái thời điểm mà sự nhạy cảm của hồn tạo vật luôn thách thức với sự nhạy cảm<br /> của hồn người vẫn là thời khắc giao mùa - chớm thu. Các kênh cảm giác và cả tâm cảm nữa của mỗi hồn<br /> thơ dường như đều được huy động tối đa để nắm bắt những làn sóng, những tín hiệu mơ hồ nhất từ<br /> những giao chuyển âm thầm trong vạn vật.<br /> Chả thế mà, bao đời nay luôn có sự đua ganh giữa hồn thơ với hồn tạo vật. Chỉ cần điểm sơ qua<br /> những tín hiệu từng được hồn thơ từ cổ chí kim nắm bắt trong những thi ảnh không thôi, cũng khó đủ<br /> giấy mực rồi. Gọn nhẹ hơn, chỉ điểm qua những thi tứ nổi bật dành cho nhịp chuyển mùa thôi, chắc<br /> cũng không xuể. Cho nên, tôi sẽ không nấn ná làm cái việc rút tỉa những thi ảnh và thi tứ tiêu biểu về<br /> thời điểm nhạy cảm ấy của thơ ca các thời, nghĩa là không tái hiện lại một truyền thống, một tiền đề<br /> nữa. Mà cùng Hữu Thỉnh, bước ngay… “Sang thu”:<br /> “Bỗng nhận ra hương ổi<br /> Phả vào trong gió se<br /> Sương chùng chình qua ngõ<br /> Hình như thu đã về<br /> <br /> Sông được lúc dềnh dàng<br /> Chim bắt đầu vội vã<br /> Có đám mây mùa hạ<br /> Vắt nửa mình sang thu<br /> <br /> Vẫn còn bao nhiêu nắng<br /> Đã vơi dần cơn mưa<br /> Sấm cũng bớt bất ngờ<br /> Trên hàng cây đứng tuổi”<br /> Thu, 1977<br /> Tôi mừng cho Hữu Thỉnh và bài thơ, nó vừa giành được một chỗ xứng đáng trong chương trình<br /> Văn và Tiếng Việt của nhà trường. Kể từ nay, “hương ổi” của thi phẩm sẽ phả vào tâm hồn của nhiều thế<br /> <br /> Tài liệu: Ôn luyện Ngữ văn 9- Cô Trần Thị Vân Anh<br /> <br /> Sang thu<br /> <br /> hệ học trò, sẽ được những tâm hồn ấy mang tới bao nẻo thu, đến cả những miền chưa từng có mùa thu<br /> nữa.<br /> 1. Từ cấu trúc …<br /> Trước tiên, thử đi vào cấu trúc của thi phẩm. Hình thái tổ chức của “Sang thu” đâu dễ nhận diện.<br /> Về bố cục, ai chẳng thấy chính tác giả đã tự chia bài thơ thành ba khổ khúc chiết. Nhưng về ý tứ ? Xem<br /> chừng ý khổ này cứ “dính” vào khổ kia, chả chịu rành mạch gì cả. Thì quanh đi quẩn lại vẫn là thế :<br /> “hương ổi”, “gió se”, “sương chùng chình”, “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, “nắng vẫn còn”, “mưa đã vơi”,<br /> “sấm bớt bất ngờ”, “hàng cây đứng tuổi”… chẳng dáng nét thu về, thì hình sắc thu sang, đấy thay đổi<br /> tinh vi, đây đổi thay tinh tế. Ý đâu có khác gì nhau. Đến nỗi, ngay cả “Sách giáo viên” hướng dẫn người<br /> dạy khai thác và soạn giảng chừng như cũng “ bí” trong việc phân định . Hay việc chia thành ba khổ thế<br /> chỉ hoàn toàn do cảm tính lúc viết của thi sĩ, còn ý thơ thì vốn thiếu rành mạch, vô tổ chức ? Không hẳn.<br /> Đọc kĩ hơn thì thấy rằng: cùng viết về thiên nhiên lúc giao mùa, nhưng mỗi khổ thơ vẫn nghiêng về một<br /> ý. Về cảnh vật, khổ một nghiêng về những tín hiệu mách bảo sự hiện diện đây đó của mùa thu, từ góc<br /> nhìn vườn ngõ : “Bỗng nhận ra hương ổi/Phả vào trong gió se/Sương chùng chình qua ngõ/Hình như<br /> thu đã về”. Khổ hai lại nghiêng về những cảnh sắc trời mây sông nước đang chuyển mình sang thu, với<br /> tầm nhìn rộng xa vào bầu trời mặt đất: “Sông được lúc dềnh dàng/ Chim bắt đầu vội vã/Có đám mây<br /> mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu”. Trong khi đó, khổ ba lại nghiêng về những biến đổi bên trong các<br /> hiện tượng thiên nhiên và tạo vật : “Vẫn còn bao nhiêu nắng/Đã vơi dần cơn mưa/Sấm cũng bớt bất<br /> ngờ/Trên hàng cây đứng tuổi”. Như vậy, ba khổ thơ đã được liên kết thành một chỉnh thể nhuần nhị<br /> nhờ vào một trật tự khá tự nhiên: từ gần đến xa, từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ ngoài vào trong,<br /> với các lớp cảnh càng ngày càng đi vào chiều sâu… Một trật tự hợp lí tự nhiên bao giờ cũng là điều sinh<br /> tử để một sản phẩm nghệ thuật hiện ra như một sinh thể! Nhưng, cả người khờ khạo nhất cũng phải<br /> thấy rằng : thơ thiên nhiên không đơn thuần chỉ có cảnh. Cùng với cảnh, bao giờ cũng là tình, dù đậm<br /> hay nhạt, dù kín hay lộ. Tình trong cảnh, cảnh trong tình. Cho nên, đồng hành với mạch cảnh sắc trên<br /> đây, là tâm tư của thi sĩ. Cụ thể là mạch cảm nghĩ trước mùa thu. Sự đan xen các mạch này là một khía<br /> cạnh phức tạp không thể thiếu của cấu trúc. Sau một thoáng ngỡ ngàng ở khổ một (… “Hình như thu đã<br /> về”), là đến niềm say sưa ở khổ hai (… “Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu”), và kết lại ở khổ<br /> ba với vẻ trầm ngâm(… “Sấm cũng bớt bất ngờ / trên hàng cây đứng tuổi”). Không chỉ có thế. Tương<br /> ứng với những cung bậc của mạch cảm, là các cấp độ của mạch nghĩ. Khổ đầu: bất giác, khổ hai: tri giác,<br /> khổ ba: suy ngẫm. Mạch cảm và mạch nghĩ bao giờ cũng song hành và chuyển hoá sang nhau trong<br /> cùng một dòng tâm tư. Chúng đan bện với nhau khiến cấu trúc nghệ thuật càng tinh vi phức tạp. Rõ<br /> <br /> Tài liệu: Ôn luyện Ngữ văn 9- Cô Trần Thị Vân Anh<br /> <br /> Sang thu<br /> <br /> ràng, từ khổ một đến khổ ba, thi phẩm là sự đồng hành và hoá thân vào nhau của ba mạch nội dung vừa<br /> rõ nét vừa sống động. Có thể nôm na hoá qua sơ đồ sau:<br /> <br /> Thế đấy, cấu trúc của thi phẩm này, bề ngoài, có vẻ “dính”, nhưng bề sâu, đâu phải là thiếu rành<br /> mạch. Trái lại là đằng khác ấy chứ ! Rõ ràng, qua phân tích trên đây cũng đủ thấy rằng : một tiếng thơ<br /> dù bình dị hồn nhiên thế nào đi nữa, vẫn là một kiến trúc ngôn từ với một cấu trúc thật tinh vi.<br /> 2. … đến điệu tâm hồn<br /> Cảm nhận tạo vật lúc sang thu, đa phần các thi sĩ nghiêng về vẻ biến suy một chiều của cảnh. Vì<br /> thế, thần thái của cảnh thu thường hiện lên qua vẻ tiêu sơ. Ví như bài Thu cảm, tiếng thơ khá tinh tế của<br /> một thi sĩ đương thời : “Mướp tàn sen cũng đi tu / Lá tre đã thả một mùa heo may / Con sông không ốm<br /> mà gầy / Mắt em chưa tối đã đầy hoàng hôn”. Cảm nhận của Hữu Thỉnh khác, không đơn tuyến. Tôi cho<br /> rằng, một trong những nét đặc sắc của bài Sang thu là có hai hệ thống tín hiệu báo mùa có vẻ phản trái<br /> nhau, song cả hai đều thuộc về thần thái của mùa thu. Tạm đặt tên là nhịp mạnh và nhịp nhẹ. Nhịp<br /> mạnh bao gồm những động thái, sắc thái dương tính (mạnh, nhanh, nhiều…): “hương ổi phả” – “chim<br /> vội vã” – “vẫn còn bao nhiêu nắng”… Nhịp nhẹ thì nghiêng về âm tính (êm, chậm, ít…): “sương chùng<br /> chình”, “sông dềnh dàng”, “mưa vơi dần”… Lúc bất giác nhận ra hương ổi “phả” vào trong gió se, thì<br /> cũng là lúc bắt gặp sương “chùng chình” qua ngõ. Chính lúc sông “dềnh dàng” là lúc chim “vội vã”. Khi<br /> nắng “còn” cũng là khi mưa “vơi”. Đừng nghĩ thi sĩ cố ý đặt bày hai mạch tương phản nhằm chơi trò lạ<br /> hoá. Nó chính là hiện tượng trái chiều mà cùng hướng ta vẫn thường thấy trong mỗi cuộc đổi thay.<br /> Chẳng phải thế sao? Chẳng phải bao mạch sống đang cần mẫn chuyển lưu trong lòng tạo vật làm nên<br /> cõi sống trường cửu này vốn vẫn tương sinh tương khắc như vậy sao? Và chẳng phải những vận động<br /> <br /> Tài liệu: Ôn luyện Ngữ văn 9- Cô Trần Thị Vân Anh<br /> <br /> Sang thu<br /> <br /> trái chiều mà cùng hướng vẫn thường đem đến cho sự sống thế quân bình ngay trong lòng mỗi nhịp<br /> biến thiên hay sao? Cho nên, thật thú vị mà cũng thật hiển nhiên là hai nhịp mạnh - nhẹ với hệ thống<br /> hưng- suy, tiêu- trưởng kia lại đan dệt trong nhau khá nhuần nhuyễn tạo nên cái bản giao hưởng gợi<br /> cảm của đất trời thu. Có thể xem đó là nét phức điệu trong cảm nhận ngoại giới của hồn thơ Hữu Thỉnh.<br /> Toàn cảnh thu trong bước chuyển mùa, nhờ lối cảm ấy, đã hiện ra không chỉ có biến thiên, mà đây đó<br /> còn cả thế quân bình. Luôn thấy được thế quân bình ngay giữa những biến thiên thì ít bất ngờ chao đảo.<br /> Trong thiên nhiên đã vậy. Trong cuộc đời cũng thế. Và, tôi ngờ rằng cảm quan quân bình về đời sống đã<br /> ngấm ngầm xui thi sĩ tìm đến cái kết điềm tĩnh trước ba động, giấu cương sau nhu này:<br /> “Sấm cũng bớt bất ngờ<br /> Trên hàng cây đứng tuổi?”<br /> Nói đến câu kết kia, không thể không thêm vài lời về cách lập tứ dẫn tới kết. Nó rõ nhất ở khổ ba :<br /> “Vẫn còn bao nhiêu nắng /Đã vơi dần cơn mưa /Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng tuổi”. Để ý<br /> một chút, sẽ thấy rằng đến đây, tâm thế thi sĩ không còn ngỡ ngàng bất giác như khổ một, say sưa tri<br /> giác như khổ hai, mà lòng đã nặng hơn, đã ra chiều trầm ngâm với suy ngẫm rồi. Lớp từ mang sắc thái<br /> đong đếm ở đây mách với ta điều đó. Hệ thống các từ còn (-hết), vơi (-đầy), bớt (-thêm) bảo rằng thi sĩ<br /> đang suy xét, đúc kết, chiêm nghiệm. Chiêm nghiệm điều gì ? Về một lẽ đời trong hai chiều biến đổi trái<br /> nhau. Ba câu trên : nắng “vẫn còn”, tức là đã giảm ; mưa “vơi dần” rõ là giảm ; sấm “bớt bất ngờ” càng<br /> giảm. Cả ba nghiêng về chiều giảm. Nhưng, khi câu ba nối vào câu kết, thì chiều giảm đột ngột thành<br /> chiều tăng, một chiều tăng kín đáo: “Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng tuổi”. Ấy là sự từng trải<br /> tăng lên, là cây đã trưởng thành. Nhờ lối viết nén, mấy chữ “bớt bất ngờ” như một nút buộc, câu thơ<br /> bỗng có “cú pháp dính”, lời thơ súc tích hẳn nhờ các làn nghĩa giao nhập ràng néo nhau : sấm bớt gây<br /> bất ngờ (sấm đã e cây), hay cây bớt bị bất ngờ (cây thôi e sấm)? Có lẽ là cả hai, nhưng xem chừng, cái vế<br /> sau mới là chốt hạ. Nhờ ngữ pháp ấy mà cái ý cương kia liền được giấu kín nhẹm, thậm chí được nhu<br /> hoá. Có thể nói, đây là lối kết theo kiểu “đảo phách”. Một cú đảo phách ngoạn mục. Bởi đảo mà cứ như<br /> không.<br /> *<br /> “Sang thu” là bài thơ tinh tế. Điều này khỏi bàn thêm. Chẳng thế mà các chi tiết gợi cảm của thi<br /> phẩm đã cuốn hút nhiều người yêu thơ. Nào những hương ổi phả vào trong gió se, nào sương chùng<br /> chình qua ngõ, rồi thì sông được lúc dềnh dàng… xem ra, thi ảnh nào cũng tài hoa. Mà ấn tượng nhất<br /> hẳn phải là cảnh tượng: “Có đám mây mùa hạ/Vắt nửa mình sang thu”. Làm xác định cái không xác<br /> định, khiến cái vô hình thành hữu hình, làm định dạng cái vốn mơ hồ, là lối viết đâu có gì lạ về thi pháp.<br /> <br /> Tài liệu: Ôn luyện Ngữ văn 9- Cô Trần Thị Vân Anh<br /> <br /> Sang thu<br /> <br /> Thế mà thi ảnh lại mới, hình sắc lại gợi. Đám mây thực thế mà ảo thế ! Cái cách “vắt nửa mình” kia sao<br /> mà thi vị ! Có thật chăng một đám mây vốn của mùa hè đang mải mê lấn sân sang mùa thu ? Có mà<br /> không có, thật mà không thật. Cứ y như giữa mùa thu và mùa hè vẫn có một lằn ranh làm bằng sợi dây<br /> vô hình giăng ra giữa thinh không, khiến đám mây yêu kiều và đỏng đảnh kia có thể vắt nửa mình qua<br /> đó mà khoe sắc phô duyên vậy !<br /> Mà đâu chỉ trong quan sát, ở thi phẩm này, Hữu Thỉnh còn tỏ ra tinh hơn nữa trong sự đồng điệu<br /> với nhịp chuyển mùa. Những hiện tượng riêng lẻ thì gồm cả hai hệ thống tín hiệu trái chiều, có chậm có<br /> nhanh. Nhưng cái nhịp luân chuyển chung chi phối vạn vật thì bao giờ cũng khẩn trương và mau lẹ.<br /> Nhịp luân chuyển ấy dường như đã nhập vào mấy chữ tưởng rất không đâu mà lại thần tình này: “Sông<br /> được lúc dềnh dàng/Chim bắt đầu vội vã ; Vẫn còn bao nhiêu nắng/Đã vơi dần cơn mưa”. Mấy chữ ấy đi<br /> với nhau thành cặp, hô ứng và tiếp ứng nhau làm hiển thị cái nhịp luân chuyển trong tạo vật vốn mải<br /> mê mà vô hình.<br /> Người đọc cũng dễ say với những nét tài hoa trong việc sử dụng nhuần nhuyễn yếu tố cổ điển của<br /> thi sĩ. Đọc Hữu Thỉnh, có một chất rất dễ nhận : dân gian. Còn có một chất khác, luôn cặp kè, mà xem ra<br /> lại khó thấy : Đường thi. Sao lại cặp kè ? Thì một trong những chiêu rất Hữu Thỉnh chẳng phải là chế tác<br /> thi liệu dân gian bằng thi pháp Đường ư ? Cố nhiên, anh không chỉ có chiêu này. Ở “Sang Thu”, cái súc<br /> tích Đường thi kết hợp với chất hồn nhiên thơ trẻ cứ loáng thoáng đâu đó trong cách nhìn tạo vật, trong<br /> cách kiệm lời, mà hiển lộ nhất là ở phép đối ngẫu được dùng khá nhuyễn: “Sông được lúc dềnh dàngChim bắt đầu vội vã ; Vẫn còn bao nhiêu nắng-Đã vơi dần cơn mưa”. Có lẽ khi đọc các cặp ấy, tâm trí ta<br /> bị trôi theo lời thơ bình đạm, ít ai để ý đến nghệ thuật tổ chức, chỉ lúc chợt ngoái lại, thì mới vỡ lẽ: ồ, ra<br /> là phép đối ! Thế là nhuyễn, là tinh chứ sao !<br /> Tuy nhiên, đó vẫn là những tinh tế tiểu tiết và dễ viết.<br /> Đôi khi quá chú mục vào cái tinh tế trong tiểu tiết có thể quên sự tinh vi trong đại cục. Tôi muốn<br /> nói đến điều khác : ý tưởng bao trùm. Nó mới là nét tinh vi thuộc về đại cục. Ý tưởng Sang thu được gói<br /> kín vào thi tứ. Một thi tứ đa tầng khiến hình tượng thơ thành đa nghĩa. Nhờ đó, thi phẩm nhỏ đã mang<br /> thi tứ lớn.<br /> “Sang thu” đa nghĩa, vì ít nhất, có sự chất chồng và giao thoa của ba lớp nghĩa : trời đất sang thu,<br /> đời sống sang thu và đời người sang thu. Lớp nghĩa thứ nhất dễ thấy. Vì nó ở bề nổi của văn bản thơ. Nó<br /> khiến bài thơ như một bức tranh thiên nhiên. Không. Có lẽ như những thước phim về cảnh vật thiên<br /> nhiên thì phải hơn. Tranh thì tĩnh, phim mới động. Sự mẫn cảm của tâm hồn thi sĩ đã được dịp phô diễn<br /> qua những thi ảnh giàu mỹ cảm trong việc nắm bắt bao vận động, chuyển động, biến động âm thầm và<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2