
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 115
PHÂN TÍCH CƠ CẤU ĐẦU TƯ VÀ MỘT SỐ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
KHẢ NĂNG PHỤC HỒI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM
Phùng Minh Đức*
Phạm Văn Nghĩa **
TÓM TẮT: Bài báo trình bày nghiên cứu phân tích cơ cấu đầu tư trong khủng hoảng kinh tế và các nhân
tố ảnh hưởng đến khả năng phục hồi của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Việt Nam với bộ số liệu
điều tra DNNVV giai đoạn 2007-2015 trên 9 tỉnh thành Việt Nam bao gồm: Hà Nội, Phú Thọ, Hải Phòng,
Nghệ An, Quảng Nam, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh và Long An và được thực hiện 2
năm 1 lần. Kết quả phân tích từ các mô hình hồi quy cho khẳng định đầu tư cho lao động và đầu tư cho
máy móc thiết bị có đóng góp quan trọng đến khả năng phục hồi của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu
cũng cho thấy các doanh nghiệp chế biến lương thực và thực phẩm thì khả năng phục hồi càng nhanh
hơn, bên cạnh đó yếu tố xuất khẩu cũng tác động đến khả năng phục hồi của DNNVV.
Từ khóa: DNNVV, cơ cấu đầu tư, khả năng phục hồi
1. GIỚI THIỆU:
DNNVV là một bộ phận ngày càng trở nên quan trọng đối với nền kinh tế Việt nam . Theo
thống kê mới nhất, hiện có đến trên 97% số doanh nghiệp trong cả nước là DNNVV, đóng góp
40% vào GDP, 30% vào thu ngân sách nhà nước, giải quyết 50% việc làm cho toàn xã hội, vì vậy
Nhà nước ta đã và đang đặc biệt quan tâm đến sự phát triển của khối các DNNVV. Chẳng hạn,
Chính phủ đưa ra nhiều chính sách để thúc đẩy và hỗ trợ hoạt động của DNNVV như: Nghị định
số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV, quyết định
03/2011/QĐ-TTg ngày 10/01/2011 và Quyết định 58/2013/TTg ngày 15/10/2013 của Thủ tướng
Chính phủ về quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng DNNVV…Điều
này chứng tỏ rằng sự phát triển của DNNVV là rất quan trọng với nền kinh tế và đang được nhà
nước đặc biệt quan tâm.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung vào cơ cấu đầu tư trong giai đoạn khủng hoảng
kinh tế và các nhân tố tác động đến khả năng phục hồi của các DNNVV Việt Nam thuộc 9 tỉnh
trong cả nước
* Khoa Toán kinh tế - Đại học Kinh tế quốc dân, Việt Nam.
** Khoa Toán kinh tế - Đại học Kinh tế quốc dân, Việt Nam. Tác giả nhận phản hồi: Email: nghia25ktqd@gmail.com - ĐT:
0912039311

HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA
116
2. CƠ SỞ LÍ LUẬN
DNNVV có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế mỗi quốc gia. Trong xu thế hội
nhập kinh tế thế giới như hiện nay, các nước đều chú ý hỗ trợ các DNNVV nhằm huy động tối đa
nguồn lực để hỗ trợ phát triển kinh tế. Vì vậy, trong các năm gần đây, các vấn đề liên quan đến
DNNVV luôn được nhiều cá nhân tổ chức quan tâm nghiên cứu, trong đó có vấn đề ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế đến khả năng phục hồi của doanh nghiệp DNNVV.
Khi nghiên cứu về tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến các DNNVV ở
Trung Quốc (2010) Huang Dechun, Ju Kang đã đưa ra kết luận: Các DNNVV đóng vai trò rất quan
trọng trong sự phát triển của Trung Quốc về kinh tế, lao động, việc làm, sự ổn định và phát triển
xã hội, căn cứ vào chỉ số tăng trưởng của 218 DNNVV trên địa bàn Thượng Hải và Thâm Quyến
với phương pháp phân tích Cluster các tác giả cho thấy năm 2008 các DNNVV Trung Quốc bị ảnh
hưởng nặng lề bởi cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu.
Khi nghiên cứu về tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đến các DNNVV ở Anh,
M cowling và Wliu (2014) đã chỉ ra rằng: Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đã làm ảnh
hưởng rất lớn đến doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Anh, trên 40% doanh nghiệp giảm việc làm và trên
50% số doanh nghiệp bị sụt giảm về doanh thu. Mặc dù vậy, theo kết quả điều tra thì ba phần tư
trong số các doanh nghiệp chịu tác động của khủng hoảng có quyết tâm phục hồi doanh nghiệp trở
lại và nghiên cứu kết luận rằng yếu tố nhân lực trình độ cao và trình độ chuyên môn của lao động
quyết định đến khả năng phục hồi của doanh nghiệp.
Nghiên cứu về khả năng phục hồi của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Mĩ, Bin Zhou(2016)
cho rằng hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ có hiểu biết tương đối chính xác về quản trị doanh
nghiệp. Những lý do chính để thực hiện khôi phục doanh nghiệp chủ yếu là nội bộ, bao gồm giảm
chi phí, cải thiện tỷ suất lợi nhuận, cải thiện việc sử dụng tối đa công suất nhà máy và duy trì vị thế
cạnh tranh. Cuối cùng, bài viết cung cấp bằng chứng rằng các rào cản mà các doanh nghiệp vừa và
nhỏ gặp phải liên quan đến quản lý hoặc các yếu tố liên quan đến trình độ của chủ doanh nghiệp
và trình độ chuyên môn của lao động là yếu quyết định chính đến sự phát triển của doanh nghiệp.
Có khá nhiều các công trình nghiên cứu trong nước đã đề cập đến các vấn đề liên quan đến
DNVVN như: tiêu chí xác định DNVVN; vai trò, đặc điểm của DNVVN, và sự phát triển của các
DNNVV. Ngoài ra, cũng có không ít các đề tài nghiên cứu về tác động của khủng hoảng tới khối
các DNVVN như Nguyễn Thị Hải Ninh (2012), đã nêu ra hệ thống lí luận về tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đối với DNNVV Việt Nam, các DNNVV Việt Nam chịu
tác động mạnh mẽ từ cuộc khủng hoảng, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn về vốn, thị trường tiêu
thụ giảm mạnh dẫn đến nhiều doanh nghiệp dừng sản xuất hoặc phá sản. Các nguyên nhân chủ yếu
được đưa ra là: Các doanh nghiệp này có nguồn lực hạn chế, khả năng tiếp cận vốn thấp khi lạm
phát tăng cao đẩy lãi suất cho vay tăng cao bên cạnh đó kinh tế thế giới suy giảm kéo theo các hợp
đồng xuất khẩu bị cắt giảm.
Phan Thị Minh Lý (2011) đã chỉ ra 4 nhân tố tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
các DNNVV Việt Nam là: nhân tố chính sách, vốn, nội lực của doanh nghiệp và chính sách kinh
tế vĩ mô, trong đó, nhân tố nội lực của doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng nhất đến kết quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Phạm Thị Loan (2015), đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng

HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 117
đến kết quả sản xuất kinh doanh của DNNVV Việt Nam trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế tài
chính toàn cầu.
Về nghiên cứu định lượng, nghiên cứu của Lê Thị Anh (2016) đã phân tích sự phục hồi của
doanh nghiệp thông qua các yếu tố: vốn, lao động, trình độ chuyên môn của chủ doanh nghiệp,
quy mô doanh nghiệp đề tài còn bổ sung thêm các yếu tố như xuất khẩu, tỷ lệ lao động có trình độ
chuyên môn trên tổng số lao động, loại máy móc doanh nghiệp sử dụng, yếu tố ngành để đánh giá
tác động lên hiệu quả hoạt động của khối các DNVVN.
Trên thực tế, DNNVV Việt Nam đã được minh chứng là một bộ phận quan trọng giúp nền
kinh tế Việt Nam vượt qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới vừa qua. Sự phát triển của khối
doanh nghiệp này gắn với sự phát triển chung của nền kinh tế, và trong quá trình phát triển này, các
doanh nghiệp sẽ còn phải đối đầu với những biến động về môi trường kinh tế. Vì vậy, cần có những
nghiên cứu để tìm ra các yếu tố quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp trụ được vững vàng qua
các giai đoạn khó khăn và có thể phục hồi một cách nhanh chóng và bền vững. Tuy nhiên, hiện
nay chưa có phân tích định lượng nào nghiên cứu về vấn đề này cho doanh nghiệp Việt Nam. Bài
viết nhằm mục đích giúp xóa bớt khoảng trống này, đưa ra các bằng chứng đáng tin cậy cho doanh
nghiệp trong việc xây dựng các chiến lược phát triển bền vững.
3. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dữ liệu nghiên cứu: Số liệu điều tra DNNVV giai đoạn 2007-2015 trên 9 tỉnh thành Việt
Nam bao gồm: Hà Nội, Phú Thọ, Hải Phòng, Nghệ An, Quảng Nam, Khánh Hòa, Lâm Đồng,
Thành phố Hồ Chí Minh và Long An và được thực hiện bởi Viện Lao động và Xã hội-Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội
Một vài kết quả phân tích thống kê
(Tính toán của tác giả trên bộ số liệu điều tra của viện Lao động và Xã hội)
Số lao động trung bình trong các năm của DNNVV nhìn chung không thay đổi đáng kể, ở
các doanh nghiệp này số nao động trung bình theo năm giảm dần từ năm 2007 lao động trung bình
là 20.1 đến 2013 giảm còn 15.5 như vậy trong vòng 5 năm số lao động trung bình giảm khoảng
23%. Nguồn gốc của sự sụt giảm về lao động là do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, làm
cho doanh nghiệp gặp khó khăn vì vậy họ phải giảm bớt lao động.

HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA
118
(Tính toán của tác giả trên bộ số liệu điều tra của viện Lao động và Xã hội)
Về vốn đầu tư: Vốn đầu tư trong các DNNVV tăng dần từ năm 2007 là 731 triệu đến năm
2011 tăng lên 3.695 triệu, sau đó lại giảm dần từ năm 2011 đến 2015 chỉ còn 103 triệu, sau tác
động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới các doanh nghiệp nhà nước đã có các gói cho vay ưu
đãi, hỗ trợ doanh nghiệp. Vì vậy trong các năm 2009 đến 2011, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư nâng
cao năng lực sản xuất. Tuy nhiên, sau đó, vốn đầu tư có xu hướng giảm dần từ 2011 đến 2015 bởi
năng lực tài chính đối với DNNVV còn hạn chế nên lượng đầu tư của họ cũng có giới hạn và trong
thời gian ngắn.
(Tính toán của tác giả trên bộ số liệu điều tra của viện Lao động và Xã hội)
Về lợi nhuận: Nhìn chung qua các năm lợi nhuận trung bình của DNNVV đều tăng từ
mức 533 triệu vào năm 2007 lên 905 triệu vào năm 2011, đến năm 2013 lợi nhuận có giảm so với
năm 2011 xuống còn 740 triệu, tuy nhiên lại tăng mạnh trở lại vào năm 2015 và đạt mức 105 triệu.
Khối các DNNVV với lợi thế nhỏ về quy mô và dễ thích ứng với những thay đổi trong sản xuất
kinh doanh nên hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thường tốt hơn so với các doanh nghiệp lớn.
Mô hình và các biến số: Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng mô hình số liệu mảng để
phân tích tác động của cơ cấu đầu tư, loại hình DNNVV cũng như ngành nghề sản xuất của doanh
nghiệp đến khả năng phục hồi của doanh nghiệp như sau:
Mô hình 1: Phân tích tác động của yếu tố đầu tư đến khả năng phục hồi của doanh nghiệp
(1)

HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 119
Trong đó, i là chỉ số theo đơn vị chéo( doanh nghiệp) và t là đơn vị thời gian(năm), là các
đặc trưng riêng không quan sát được của doanh nghiệp và là sai số ngẫu nhiên.
là logarit tự nhiên của tỉ số giữa lợi nhuận và vốn biến này được tính trung bình trong
hai năm 2013 và 2015 đây là giai đoạn sau khủng hoảng kinh tế. Trong mô hình này, chúng tôi
chọn tỉ số của lợi nhuận trên vốn làm biến đại diện cho khả năng phục hồi của doanh nghiệp bởi vì
lợi nhuận là mục đích chính của hầu hết các doanh nghiệp. Lợi nhuận cao giúp doanh nghiệp mở
rộng sản xuất, dễ dàng tiếp cận với công nghệ hiện đại và lợi nhuận trên vốn cao thể hiện doanh
nghiệp hoạt động hiệu quả, lợi nhuận và vốn là các biến có sẵn trong bộ số liệu, đơn vị tính của lợi
nhuận và vốn là nghìn đồng.
Labor: là trung bình của đầu tư cho lao động trong hai năm 2009 và 2011, đây là biến đầu tư
cho lao động trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế. Trong khủng hoảng kinh tế, doanh nghiệp cần
đầu tư đổi mới sản phẩm, áp dụng công nghệ vào sản xuất vì vậy đầu tư cho đào tạo lao động là
một yếu tố quan trọng tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Machinery: là trung bình đầu tư cho máy móc và thiết bị trong hai năm 2009 và 2011. Đây
là biến đầu tư cho máy móc thiết bị trong giai đoạng khủng hoảng kinh tế. Để vượt qua khó khăn
của cuộc khủng hoảng kinh tế, doanh nghiệp cần áp dụng công nghệ, nâng cao năng suất và chất
lượng sản phẩm. Do đó, đầu tư vào máy móc thiết bị sẽ tác động đến hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp
Size: Quy mô(Vốn) của doanh nghiệp cũng là một yếu tố ỳ vọng đến khả năng phục hồi của
doanh nghiệp.
Export: là biến giả. Biến này có giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp có xuất khẩu và bằng 0 nếu
doanh nghiệp không có xuất khẩu. Khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra, các thị trường
xuất khẩu truyền thống của Việt Nam bị ảnh hưởng. Do đó, xuất khẩu cũng được xem là yếu tố tác
động lên lợi nhuận và sự phục hồi của doanh nghiệp.
Age: tuổi của doanh nghiệp (kinh nghiệm) cũng được xem là yếu tố tác động đến hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp.
Type: yếu tố loại hình doanh nghiệp được chia làm ba loại: Doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh
nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa.
Sector: yếu tố ngành sản xuất được đưa vào mô hình với kì vọng tác động đến khả năng phục
hồi của doanh nghiệp, chúng tôi chia ngành công nghiệp chế biến chế tạo thành 3 nhóm: nhóm 1
gồm các doanh nghiệp chế biến lương thực và thực phẩm, nhóm 2 gồm các doanh nghiệp dệt may,
in ấn và chế biến gỗ, nhóm 3 gồm các doanh nghiệp thuộc ngành hóa dầu, kim loại và phi kim.
PCI: là chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Trong bài viết này, chúng tôi lựa chọn PCI là chỉ
số hỗ trợ doanh nghiệp, chỉ số này đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành của Việt Nam
về chất lượng điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển của
doanh nghiệp. Vì vậy, biến này sẽ có tác động đến khả năng phục hồi và phát triển của doanh nghiệp.
Các biến số cơ bản được mô tả trong bảng 1.