Đề bài: Phân tích tiếng nói của người phụ nữ thông qua tác phẩm của Hồ Xuân <br />
Hương<br />
Bài làm<br />
Trong lịch sử văn học Việt Nam, thơ Hồ Xuân Hương được coi là một hiện tượng độc <br />
đáo, thơ bà là thành tựu ‘hai lần độc đáo’. Và một trong đó chính là tiếng lòng của một <br />
người phụ nữ viết về phụ nữ, nhất là trong xã hội phong kiến cũ. Chính vì vậy mà trong <br />
hầu hết các tác phẩm của bà chúa thơ Nôm ấy đều nói về thân phận của người<br />
phụ nữ. Rất nhiều bài thơ của bà như Mời trầu, Bánh trôi nước;hay chùm thơ Tự tình đều <br />
cho ta hiểu rõ hơn tâm tư, tình cảm của bà hay chăng cũng chính là tâm tư, tình cảm của <br />
người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ.<br />
Hồ Xuân Hương đã sử dụng rất nhiều những từ ngữ, hình ảnh, sự vật bình thường, giản <br />
dị để đưa vào trong thơ của mình. Nhưng từ đó bà lại sáng tạo nên một phong cách rất Hồ <br />
Xuân Hương mà lại mang đậm phong vị dân tộc. Ví như bài Mời trầu, tuy quả cau miếng <br />
trầu rất quen thuộc, bình dị là thế, vậy mà sau khi vào trong thơ bà lại mang đậm ý nghĩa <br />
sâu sắc. Lời mở đầu rất tự nhiên:<br />
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi<br />
‘Miếng trầu là đầu câu chuyện’, vì thế mà khi mời trầu phải trang trọng, phải dùng <br />
những thứ trầu ngon như trầu quế, trầu phượng hay cũng là trầu cay, trầu ngọt. Ấy thế <br />
mà Xuân Hương lại mời khách bằng ‘trầu hôi’ bằng ‘quả cau nho nhỏ’. Câu thơ cất lên <br />
một cách duyên dáng, ý nhị, nhẹ nhàng, giàu chất nữ tính. Hai chữ ‘nho nhỏ’ cho người <br />
đọc thấy sự bé nhỏ, nhỏ nhoi của nữ sĩ; có gì đó như là một sự khiêm nhường, nép bóng <br />
trong câu thơ. Nhưng đường như mời trầu cũng là một cách để nói về người mời trầu: <br />
một thân phận bình thường, thậm chí nghèo hèn, có phần hẩm hiu: ‘hôi’. Điều đó cho <br />
thấy Xuân Hương rất chân tình. Câu thơ này làm ta nhớ đến những câu ca dao khác của <br />
người xưa:<br />
Ai về vun đất trồng cau,<br />
Cho em xin ké dây trầu một bên.<br />
hay:<br />
Thân em như miếng cau khô<br />
Kẻ thanh tham mỏng người thô tham dày.<br />
Đó đều là những câu ca dao nói về thân phận của người phụ nữ, và trong câu thơ đầu tiên <br />
này, Xuân Hương đã rất hiểu, đồng thời cũng rất tự biết thân phận nhỏ bé của mình. Bà <br />
thực sự nói lèn tiếng nói, hòa chung với tiếng nói của những người phụ nữ trong xã hội <br />
phong kiến. Song dù là nhỏ bé, có khi là tội nghiệp đi chăng nữa thì nữ sĩ vẫn thể hiện <br />
được sự chủ động của mình.<br />
Này của Xuân Hương mới quệt rồi<br />
Phải chịu cảnh khổ sở, nghèo đói, vất vả nhưng biết đứng lên, tự khẳng định phẩm chất, <br />
giá trị của mình cũng là đặc điểm chung của người phụ nữ Việt Nam xưa kia. Trong câu <br />
thơ thứ hai, Xuân Hương đã thể hiện được rất rõ tư thế chủ động của người mời trầu: <br />
thân mật, cởi mở, pha chút hóm hỉnh, tinh nghịch. Hơn hết, điều đặc biệt trong câu thơ <br />
này chính là cách tự xưng tên của Xuân Hương. Đây là một hiện tượng độc đáo, lần đầu <br />
tiên xuất hiện trong văn học thành văn để biểu thị ‘cái tôi’ rất Xuân Hương – một điều <br />
mà trong xã hội cũ, những người phụ nữ chưa dám làm.<br />
Nhưng Hồ Xuân Hương đã thay họ, cất cao tiếng nói đòi quyền bình đẳng. Câu thơ cho ta <br />
thấy rõ cá tính ngang tàng của bà. Tuy nhiên, ở câu thứ ba thì giọng điệu câu thơ lại lắng <br />
xuống:<br />
Có phải duyên nhau thì thắm lại.<br />
Lại trở về với sự liền dịu, duyên dáng vốn có của một người phụ nữ Á Đỏng, Xuân <br />
Hương khát vọng về một tình yêu, một sự hạnh phúc, chung thủy. Câu thơ không chỉ để <br />
nói về sắc thắm của trầu, sự hòa quyện của trầu cau, vôi; mà hơn thế, nó là lời nhắn nhủ <br />
tha thiết, một lời nguyện cầu: nếu có duyên thì thắm lại, nếu không thì cũng đừng bội <br />
bạc:<br />
Đừng xanh như lá, bạc như vôi<br />
Câu thơ là sự kết hợp của hai thành ngữ ‘xanh như lá’ và ‘bạc như vôi’. Ta bắt gặp lại <br />
một Xuân Hương đầy cá tính, kiêu hãnh, ngẩng cao đầu. Bà nêu bật lên một hiện trạng <br />
của xã hội là sự bội bạc, dửng dưng, vô tình của con người dẫn đến những người phụ nữ <br />
phải rơi vào cảnh bất hạnh vì bị bội tình. Câu thơ là lời răn đe với tất cả những kẻ bạc <br />
tình. Đây là lời cảnh báo chung cho xã hội đa thê, trọng nam khinh nữ ấy. Xuân Hương đã <br />
thay lời cho hàng nghìn, hàng triệu người phụ nữ lúc bấy giờ, trong đó có cả chính bà. <br />
Tinh duyên của người phụ nữ luôn bấp bênh, vô định. Bản. thân Hồ Xuân Hương, chứ <br />
không phải ai khác, có lẽ hiểu rõ điều này hơn ai hết vì bà cũng phải hai lần làm lẽ, đau <br />
đớn mà thốt lên rằng:<br />
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,<br />
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng.<br />
Và sắc thắm chỉ tồn tại trong mơ ước, trong khát vọng mà thôi còn cuộc đời thì đầy rẫy <br />
sự bạc bẽo. Có thể nói rằng, Xuân Hương đã rất hiểu tấm lòng của những người phụ nữ. <br />
Bài thơ là tiếng lòng của bà, tiếng lòng của tất cả phụ nữ trong xã hội xưa.<br />
Nhưng sự đồng cảm ấy không phải chỉ có trong bài Mời trầu, Bánh trôi nước cũng là một <br />
bài thơ nói lên tiếng lòng đó. Một lần nữa, thân phận bé nhỏ của người phụ nữ lại được <br />
nói đến:<br />
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,<br />
Bảy nổi ba chìm với nước non.<br />
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,<br />
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.<br />
Bài thơ nói về chiếc bánh trôi nhưng thực ra ý nghĩa sâu xa của nó lại chính nói về người <br />
phụ nữ. Hai chữ ‘thân em’ cất lên thật đáng thương, nhưng đó cũng là sự tự khẳng định <br />
giá trị của mình. Ngoài lớp nghĩa nói về chiếc bánh màu trắng, hình tròn thì còn nói về <br />
hình dáng cũng như phẩm chất của người phụ nữ: xinh đẹp, thủy chung, chăm chỉ… <br />
Nhưng những người đẹp nết như thế luôn phải chịu cảnh éo le, vất vả ‘bảy nổi ba chìm’, <br />
sống phụ thuộc vào người đàn ông, người chồng trong gia đình, sung sướng hay khổ sở <br />
đều phải gánh chịu, không được lên tiếng. Hiểu rất rõ được điều này và cũng không ít lần <br />
bà đã lên tiếng đả kích, đòi lại quyền bình đẳng cho người phụ nữ là thế. Bởi Xuân <br />
Hương hiểu được, luôn thương cảm với họ. Bà đã dõng dạc khẳng định tấm lòng thủy <br />
chung đức tính cao đẹp, đáng quý của người phụ nữ. Dù thế nào thì<br />
phụ nữ Việt Nam luôn giữ trọn đức tính của mình. đường nhu' Xuân Hương đã thấu hiếu <br />
đến tận cùng nỗi đau của người phụ nữ.<br />
Nỗi đau ấy càng được thể hiện rõ hơn qua chùm thơ Tự tình. Tự tình với chính bản thân <br />
song qua đó cũng để viết thêm về nỗi đau của nhiều người phụ nữ khác cũng phải chịu <br />
như bà:<br />
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn.<br />
Trơ cái hồng nhan với nước non.<br />
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh<br />
'Ánh trăng bóng xế khuyết chưa tròn.<br />
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại.<br />
Mảnh tình san sẻ tí con con.<br />
Một mình đối diện với chính mình trong đêm khuya, chỉ có tiếng ‘trống canh dồn’ làm bật <br />
lên cái tĩnh trơ trọi, lẻ loi. Thời gian cứ trôi đi, kéo theo sự mất mát của tuổi trẻ. Từ ‘trơ’ <br />
được sử dụng bằng phép đảo ngữ, tạo âm hưởng kéo dài, gợi ta nghĩ đến con người trong <br />
sự bẽ bàng vì bị bỏ rơi. Có nhan sắc, tài năng nhưng lại phải chịu cảnh cô đơn, lẻ bóng, <br />
thật không có gì cay đắng, tủi hổ và tội nghiệp hơn, một ‘hồng nhan bạc phận’. Để mình <br />
so với nước non càng làm bật lên sự ‘nhỏ bé’. Đã nhiều lần, Hồ Xuân Hương nhắc đến <br />
ba chữ ‘với nước non’ trong tác phẩm của mình.<br />
Nín đi kẻo thẹn với nước non.<br />
(Dỗ người đàn bà khóc chồng)<br />
Xuân Hương muốn tìm quên trong chén rượu giải sầu nhưng bà không thể thoát ra được. <br />
Đó là chén rượu đắng chát, ‘say lại tỉnh’ gợi về sự luẩn quẩn, không lối thoát, sự bế tắc <br />
không giải tỏa nỗi. Vầng trăng ở đây là vầng trăng của tâm trạng, luôn khuyết không <br />
được tròn đầy, phải chăng cũng chính như cuộc đời bất hạnh của Xuân Hương, khép lại <br />
bài thơ là một nỗi niềm đã được tác giả gọi tên, không phải là nỗi đau bị ruồng rẫy: ‘Năm <br />
canh vắng bóng’ lần nương vách quê, cũng không phải là nỗi truân chuyên đọa đày buộc <br />
Kiều:<br />
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.<br />
Đó là nỗi niềm, nỗi đau ngán ngẩm về cảnh lẽ mọn. Mỗi mùa xuân trở lại là mỗi lần kéo <br />
mất đi tuổi trẻ, tuổi thanh xuân. Và đây cũng chính là cảnh mà rất nhiều người phụ nữ <br />
phải gánh chịu, đánh mất tuổi trẻ.<br />
Có ai đã từng thốt lên rằng. ‘Tỏi đọc bài thơ của Xuân Hương một thế kỷ rưỡi sau khi <br />
nàng viết mà vẫn thấy vị mặn chát của nước mắt của một khối tình. Vì sao lại như vậy? <br />
Vì Hồ Xuân Hương đã viết lên tiếng lòng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, <br />
mà đó luôn là những gì cay đắng, xót xa’. Nói Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ <br />
chắc cũng không có gì là quá.<br />