Đề bài: Phân tích Vẻ đẹp của bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ<br />
<br />
Nguyễn Công Trứ (17781858) biệt hiệu là Hi Văn, một danh tướng triều Nguyễn, <br />
văn võ toàn tài. về sự nghiệp văn chương, ông để lại khoảng 150 bài thơ, câu đối, bài <br />
"Hàn nho phong vị phú" là một kiệt tác. Với những bài thơ hát nói, Nguyễn Công Trứ có <br />
giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng: "Chí nam nhi", "Chí khí anh hùng", "Nợ tang bồng"... <br />
trong đó, độc đáo nhất là "Bài ca ngất ngưởng".<br />
<br />
Vẻ đẹp của "Bài ca ngất ngưởng" thật đặc sắc và rất thú vị. Đó là vẻ đẹp của một <br />
nhà nho giàu cá tính, dám đem tài năng thi thố với đời, dám hành động cho thoả chí nam <br />
nhi, đồng thời cũng dám hành lạc biểu lộ bản ngã của một khách tài tử.<br />
<br />
Vẻ đẹp của "Bài ca ngất ngưởng" còn là chất thơ, chất nhạc in đậm dấu ấn của một <br />
tao nhân mặc khách, một tài tử mang cốt cách anh hùng.<br />
<br />
Thơ trung đại vốn phi ngã, nhưng "Bài ca ngất ngưởng" đã thể hiện cái tôi một cách <br />
đàng hoàng với tất cả niềm tự hào hiếm thấy.<br />
<br />
Một cách xưng danh thật hào hùng. Trong xã hội phong kiến đã mấy ai dám nói như <br />
Nguyễn Công Trứ?<br />
<br />
"Vũ trụ nội mạc phi phận sự,<br />
<br />
Ông Hi Vân tài bộ đã vào lồng."<br />
<br />
Kẻ nam nhi dám đem "tài bộ " ra thi thố với thiên hạ, làm tròn trách nhiệm với đời.<br />
<br />
Phải ngất ngưởng, phải sống khác người, vì đã có công danh, về cử nghiệp đã đỗ thủ <br />
khoa. Về binh nghiệp đã làm Tham tán. về hoạn lộ đã làm Tổng đốc Đông. Có tài thao <br />
lược mới có thể ngất ngưởng, mới dám sống ngất ngưởng:<br />
<br />
"Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,<br />
<br />
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng".<br />
Có thể hiểu ngất ngưởng vì hơn đời, hơn người, do có "tài bộ".<br />
<br />
Con đường công danh như được trải dài và mở rộng. Ông Hi Văn đang sống lại những <br />
tháng ngày oanh liệt:<br />
<br />
"Lúc bình Tây cờ đại tướng,<br />
<br />
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên".<br />
<br />
Chữ "khi" được điệp lại bốn lần, đan xen với chữ "lúc", đã nêu bật tính thời gian và <br />
con đường công danh của một kẻ sĩ anh hùng được mở ra với bao tự hào, kiêu hãnh. <br />
Giọng thơ mạnh mẽ hào hùng thể hiện cốt cách của một đấng nam nhi tài ba lỗi lạc. Con <br />
người ấy đã sống đẹp hơn bao giờ hết:<br />
<br />
"Đã mang tiếng ở trong trời đất,<br />
<br />
Phải có danh gì với núi sông".<br />
<br />
(Nợ tang bồng)<br />
<br />
Bức chân dung tự hoạ của ông Hi Văn là một trong những vẻ đẹp của "Bài ca ngất <br />
ngưởng" mà ta cảm nhận được.<br />
<br />
Giữa triều đình, ông Hi Văn đã sống hết mình, đem tài bộ ra thi thố với thiên hạ "đã <br />
nên tay ngất ngưởng". Lúc trả áo mũ về trí sĩ, ông Hi Văn lại chơi hết mình: "Đạc ngựa <br />
bò vàng đeo ngất ngưởng". Chiếc mo cau đeo sau đuôi con bò cái như để che miệng thế <br />
gian, như để giễu đời.<br />
<br />
Thật ung dung và thảnh thơi giữa chốn lâm tuyền. Như có một sự hoá thân kì lạ:<br />
<br />
"Kìa núi nọ phau phau mây trắng,<br />
<br />
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.<br />
<br />
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,<br />
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng".<br />
<br />
Nhìn thấy "dạng từ bi" đó của ông Hi Văn, làm sao Bụt chẳng "nực cười" được?<br />
<br />
Mọi chuyện được mất, khen chê bỏ hết ngoài tai, "ông ngất ngưởng" chính là một <br />
khách tài tử, rất thanh cao. Các điệp ngữ (khi, không) làm cho nhịp thơ, điệu thơ, giọng <br />
thơ như nhún nhảy. Cũng là một nét đẹp của ông Hi Văn, cũng là một nét đẹp của "Bài ca <br />
ngất ngưởng":<br />
<br />
"Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,<br />
<br />
Không Phật, không Tiên, không vướng tục".<br />
<br />
Bức chân dung tự hoạ của "ông ngất ngưởng" đã hoàn chỉnh, vừa bề thế, vừa trang <br />
trọng. Sự thuỷ chung về "nghĩa vua tôi" là cái thần của bức chân dung tự hoạ ấy. Sao <br />
không tự hào được?<br />
<br />
"Chẳng Trái, Nhạc cũng phường Hàn, Phú,<br />
<br />
Nghĩa vua tôi cho vẹn dạo sơ chung,<br />
<br />
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!".<br />
<br />
Vẻ đẹp của "Bài ca ngất ngưởng" đâu chỉ có thế. Còn là vẻ đẹp văn chương, vẻ đẹp <br />
của một bài thơ hát nói dôi khổ (hai khổ thơ). Ngôn từ thật biến hoá: khi là "tay ngất <br />
ngưởng" rồi lại "đeo ngất ngưởng lúc trở thành "ông ngất ngưởng" rồi còn cất tiếng hỏi: <br />
’Trong triều ai ngất ngưởng như ông!".<br />
<br />
Câu thơ co duỗi biến hoá: sáu chữ, bảy chữ, tám chữ; sử dụng điệp ngữ thần tình, <br />
giọng thơ du dương, trầm bổng. Chất nhạc cũng làm nên vẻ đẹp của "Bài ca ngất <br />
ngưởng".<br />
<br />
Nguyễn Công Trứ đã làm Dinh điền sứ tổ chức di dân lấn biển, lập nên hai huyện <br />
Kim Sơn (Ninh Bình), Tiền Hải (Thái Bình) đến nay vẫn được nhân dân hai miền quê ấy <br />
thờ cúng, đội ơn sâu.<br />
Nguyễn Công Trứ đã trải qua nhiều thăng trầm trên con đường hoạn lộ, nhưng lúc <br />
nào ông cũng thể hiện một bản lĩnh đáng trọng và tự hào: "Lúc làm đại tướng, ta không <br />
thấy thế làm vinh; lúc làm lính thú, ta cũng không lấy thế làm nhục".<br />
<br />
Nói về vẻ đẹp của "Bài ca ngất ngưởng" là nói về vẻ đẹp của chí anh hùng, chí nam <br />
nhi là nói về vẻ đẹp ung dung thanh cao của một tao nhân mặc khách đã để lại nhiều bài <br />
thơ hát nói nổi tiếng.<br />
<br />
Ngất ngưởng sao mà đẹp vậy!<br />