
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐỌA TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
ĐOÀN THỊ HẢI YẾN
PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ THEO HÌNH THỨC
ĐỐI TÁC CÔNG TƯ Ở VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 9380107
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Nguyễn Văn Tuyến
2. TS. Võ Đình Toàn
HÀ NỘI – 2020

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, các nước trên thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng đều gặp phải rất nhiều khó khăn
trong việc bảo đảm nguồn thu của ngân sách nhà nước nhằm đáp ứng
nhu cầu tài trợ cho các hoạt động của nhà nước cũng như tài trợ cho
việc xây dựng, kiến thiết hệ thống kết cấu hạ tầng. Để giảm gánh nặng
cho ngân sách nhà nước, tăng cường nguồn lực đầu tư cho xây dựng kết
cấu hạ tầng, một trong những biện pháp được áp dụng đó là thiết lập mối
quan hệ đối tác giữa nhà nước và tư nhân, hay còn được gọi là đầu tư
theo hình thức đối tác công tư (Public Private Partnerships sau đây xin
viết tắt là PPP).
Ở Việt Nam, quan hệ đối tác giữa Nhà nước và tư nhân trong
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đã được triển khai thực hiện từ
những năm 1994 thông qua các dự án về năng lượng và viễn thông
theo các mô hình đầu tư BOT, BT, BTO. Tuy nhiên, việc áp dụng các
mô hình này dường như chỉ có tính chất thử nghiệm và về lý thuyết
thì các mô hình đầu tư BOT, BT hay BTO trong những năm trước
đây cũng chưa phản ánh đúng bản chất của mô hình đầu tư theo hợp
đồng đối tác công tư. Chính vì vậy, bắt đầu từ năm 2011, với sự ra
đời của Quyết định số 71/QĐ-TTg ngày 9/11/2010 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức
đối tác công tư, cơ chế đầu tư theo mô hình đối tác công tư mới bắt
đầu được triển khai thực hiện ở Việt Nam. Xét về bản chất, BOT
chính là một trong các hình thức PPP nhưng chính sự tồn tại đồng
thời của nhiều văn bản pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh quan hệ
đối tác công tư đã gây ra nhiều khó khăn cho quá trình áp dụng và
triển khai trên thực tiễn. Trong bối cảnh đó, Nghị định số
15/2015/NĐ-CP được ban hành, sau đó là Nghị định số 63/2018/NĐ-
CP để đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật trong việc điều

2
chỉnh quan hệ đối tác công tư. Tuy nhiên, do đây là một lĩnh vực còn
khá mới ở Việt Nam, thực tiễn áp dụng chưa nhiều nên pháp luật điều
chỉnh quan hệ này còn nhiều bất cập. Vì thế, việc tìm kiếm một cơ
chế đối thoại, đối tác thực sự hiệu quả giữa Nhà nước và nhà đầu tư
tư nhân ở Việt Nam vẫn là vấn đề nan giải, cần được tiếp tục nghiên
cứu, tìm hiểu và có giải pháp tháo gỡ.
Từ thực tiễn nói trên, nghiên cứu sinh quyết định lựa chọn đề
tài: “Pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt
Nam” để nghiên cứu và làm luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài luận án là nhằm làm sáng tỏ
các vấn đề lý luận pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư
ở Việt Nam; trên cơ sở đó đưa ra các đề xuất về việc xây dựng mô
hình pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu lý luận về đầu tư theo hình thức đối tác
công tư và pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về đầu tư
theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, nghiên cứu so sánh pháp luật về đầu tư theo hình thức
đối tác công tư ở Việt Nam với các nước trên thế giới.
Thứ tư, đề xuất các các phương hướng để xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm lý luận, các
học thuyết về đầu tư theo hình thức đối tác công tư và lý thuyết điều
chỉnh pháp luật đối với quan hệ đầu tư theo hình thức đối tác công tư;
các quy định pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư của
một số nước trên thế giới và Việt Nam; thực tiễn thực hiện pháp luật
về đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam.

3
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các vấn đề sau
đây:
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Về phương diện lý thuyết, tác
giả tập trung làm rõ bản chất của quan hệ đầu tư theo hình thức đối
tác công tư (với tính chất đặc thù là một quan hệ bất cân xứng giữa
các bên tham gia – đối tác công và đối tác tư); chỉ rõ cách thức điều
chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ đầu tư theo hình thức đối tác
công tư (trong đó làm rõ cơ chế lựa chọn nhà đầu tư và cơ chế thanh
toán, đối trừ tài chính, công nợ cho nhà đầu tư). Về khía cạnh thực
tiễn, tác giả tập trung đánh giá thực trạng pháp luật về đầu tư theo
hình thức đối tác công tư ở Việt Nam, chỉ ra những hạn chế, bất cập
của lĩnh vực pháp luật này và từ đó đưa ra các đề xuất nhằm hoàn
thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam.
- Về phạm vi thời gian và không gian nghiên cứu:
Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu các quy định của
pháp luật hiện hành về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
Về không gian: Luận án nghiên cứu các quy định của pháp luật
thực định về đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử. Trên cơ sở nền tảng đó tác giả sử dụng
các phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học xã hội, bao gồm:
Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp phân tích logic quy phạm.
5. Những đóng góp mới của luận án
Là một công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, có hệ
thống, toàn diện về pháp luật đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở
Việt Nam, luận án có những đóng góp mới chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, luận án nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề
lý luận về đầu tư theo hình thức đối tác công tư và pháp luật về đầu
tư theo hình thức đối tác công tư. Luận án phân tích về khái niệm,

4
đặc điểm và nội dung của hình thức đầu tư này.
Thứ hai, luận án đã chỉ rõ bản chất của quan hệ đầu tư theo
hình thức đối tác công tư vốn dĩ là một quan hệ có tính chất bất cân
xứng giữa các bên tham gia (Nhà nước và Tư nhân), trong đó các bên
xác lập quan hệ hợp tác dựa trên việc ký kết hợp đồng dự án để đạt
được những mục tiêu mà mỗi bên theo đuổi.
Thứ ba, luận án đã chỉ ra vai trò, chức năng, nhiệm vụ cũng
như những ưu thế của các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư này. Sự
tham gia của nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và các nhà đầu tư tư nhân thông qua hợp đồng sẽ phát huy thế
mạnh của mỗi bên góp phần thực hiện thành công dự án PPP.
Thứ tư, luận án làm rõ nhà đầu tư trong các dự án PPP là tổ
chức và chỉ ra các tiêu chí để lựa chọn được nhà đầu tư có năng lực
thực hiện dự án. Luận án cũng đã chứng minh được nếu như quy định
doanh nghiệp nhà nước được tham gia với tư cách là nhà đầu tư trong
các dự án PPP là không phù hợp với bản chất của quan hệ đầu tư theo
hình thức PPP.
Thứ năm, luận án đã chứng minh được những hạn chế trong
các quy định pháp luật về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư còn có những
bất cập như thế nào và cần phải chuyển đổi qua hình thức đấu thầu
qua mạng để bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quá trình lựa
chọn nhà đầu tư.
Thứ sáu, luận án đã chứng minh được việc quyết toán công
trình dự án theo quy định pháp luật hiện nay đối với dự án PPP là
không phù hợp với hình thức đầu tư này và cần phải thay đối theo
hướng .
Thứ bảy, luận án đã chứng minh việc cần bổ sung các quy định
nhằm bảo đảm sự hỗ trợ của nhà nước cho các dự án PPP thì mới có
thể thu hút được sự tham gia của các nhà đầu tư, qua đó góp phần
chia sẻ rủi ro giữa nhà nước và nhà đầu tư.