HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

TÊN ĐỀ TÀI

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ

CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN

Khóa luận tốt nghiệp ngành : LUẬT Người hướng dẫn Sinh viên thực hiện Mã SV Khóa

: THS. NGUYỄN ĐỨC THIỆN : TRỊNH THỊ QUỲNH : 2005LHOC067 : 2020 - 2024 : 2005LHOC

Lớp

HÀ NỘI – 2024

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

TÊN ĐỀ TÀI

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ

CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN

Khóa luận tốt nghiệp ngành : LUẬT Người hướng dẫn Sinh viên thực hiện Mã SV Khóa

: THS. NGUYỄN ĐỨC THIỆN : TRỊNH THỊ QUỲNH : 2005LHOC067 : 2020 - 2024 : 2005LHOC

Lớp

HÀ NỘI – 2024

LỜI CẢM ƠN

Được sự đồng ý thực hiện khóa luận tốt nghiệp do Khoa Nhà Nước Và

Pháp Luật Trường Học Viện Hành Chính Quốc Gia tổ chức, em xin gửi lời cảm

ơn đến Khoa đã tạo điều kiện cho em được thực hiện đề tài Khóa luận tốt

nghiệp. Đây là khoảng thời gian hữu ích giúp em có được kiến thức, kĩ năng,

kinh nghiệm thực tế nghiên cứu về một vấn đề thực tiễn trong xã hội.

Để có thể thực hiện và hoàn thành bài Khóa luận, đầu tiên em xin gửi lời

cảm ơn đến giảng viên ThS. Nguyễn Đức Thiện, người thầy trực tiếp hướng

dẫn đề tài của em. Ngoài ra, em xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy, cô giảng dạy

tại trường Học viện Hành Chính Quốc Gia đã truyền đạt những kiến thức, kĩ

năng để em có thể vận dụng thực hiện đề tài mà em nghiên cứu chuyên sâu và

đúng trọng tâm. Những kiến thức tiếp thu trên ghế nhà trường còn là hành trang

pháp lý vững chắc cho công việc sau này.

Do kiến thức và trải ngiệm nghiên cứu còn ít vậy nên bài khóa luận tốt

nghiệp không thể tránh khỏi những thiếu sót về ý cũng như diễn đạt câu văn.

Vì vậy, những lời góp ý của quý thầy, cô sẽ giúp hoàn thiện bài khóa luận, em

rất mong nhận được những lời chân thành nhất.

Lời cuối cùng, em xin gửi lời tri ân sâu sắc, đồng thời chúc tất cả thầy cô

giảng viên tại Trường Đại học Nội Vụ trước kia nói riêng, nay là Học Viện

Hành Chính Quốc Gia nói chung dồi dào sức khỏe, hạnh phúc.

Em xin chân thành cảm ơn!

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những thuật ngữ và kiến thức trong bài đều do tôi tự

tìm hiểu, nghiên cứu được . Đây là đề tài độc lập dưới sự hướng dẫn của giảng

viên ThS. Nguyễn Đức Thiện. Quá trình nghiên cứu cần phải đưa các dẫn chứng

thực tế nên cần các thông tin, số liệu tuy nhiên những gì có trong bài tất cả đều

có thật, đảm bảo yếu tố khách quan. Trong quá trình nghiên cứu nếu những gì

được viết trong bài có sự gian dối, tôi xin chịu trách nhiệm.

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

HN&GĐ Hôn nhân và gia đình

QHHN Quan hệ hôn nhân

TSC Tài sản chung

BLDS Bộ Luật dân sự

TKHN Thời kỳ hôn nhân

GDDS Giao dịch dân sự

MỤC LỤC

Trang bìa

Lời cảm ơn

Lời cam đoan

Danh mục viết tắt

PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 4

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ...................................... 5

6. Những điểm mới của khóa luận ................................................................. 5

7. Kết cấu khóa luận ........................................................................................ 6

PHẦN II NỘI DUNG ...................................................................................... 7

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG

CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN .................................. 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc chia tài sản chung của vợ chồng

trong thời kỳ hôn nhân ................................................................................... 7

1.1.1. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân.................................................................................................................. 7

1.1.2. Đặc điểm của chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân................................................................................................................ 10

1.1.3. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân................................................................................................................. 11

1.1.4. Ý nghĩa của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân................................................................................................................ 12

1.2. Sơ lược sự hình thành, phát triển của pháp luật hôn nhân và gia đình

Việt Nam về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ... 13

1.3. Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới trong việc xây dựng pháp

luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ............. 18

Tiểu kết chương I .......................................................................................... 25

CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN

NHÂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ............. 26

2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chia tài sản chung của

vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ................................................................. 26

2.1.1. Quyền yêu cầu chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân . 26

2.1.2. Mục đích chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân................................................................................................................ 27

2.1.3. Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân................................................................................................................ 28

2.1.4. Phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân................................................................................................................ 30

2.1.5. Hình thức và nội dung của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong

thời kỳ hôn nhân .............................................................................................. 32

2.1.6. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn

nhân................................................................................................................ 32

2.1.7. Chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong

thời kỳ hô n nhân ............................................................................................. 34

2.1.8. Vô hiệu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân .. 36

2.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về chia tài sản chung của

vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ................................................................. 36

2.2.1. Thực tiễn giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời

kỳ hôn nhân ..................................................................................................... 36

2.2.2. Hạn chế quy định pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ chồng

trong thời kỳ hôn nhân .................................................................................... 41

2.2.3. Ưu điểm của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân................................................................................................................. 43

2.2.4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về việc chia

tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ....................................... 43

2.2.4.1. Hoàn thiện pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong

thời kỳ hôn nhân..............................................................................................43

2.2.4.2. Những lưu ý khi giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng

trong thời kỳ hôn nhân .................................................................................... 46

2.2.4.3. Một số biện pháp nhằm đảm bảo hiệu quả chia tài sản chung

của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân .............................................................. 47

Tiểu kết chương II ......................................................................................... 50

KẾT LUẬN .................................................................................................... 52

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 53

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 57

PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Gia đình – hai từ thiêng liêng cao quý nhất trong cuộc đời con người.

Mỗi chúng ta sinh ra đều có một gia đình lớn là điểm tựa yêu thương, theo

năm tháng khi trưởng thành, đủ chín chắn, trách nhiệm như một sự thật hiển

nhiên nam, nữ vươn đôi cánh đi tìm hạnh phúc riêng, là người chồng, người

vợ hợp pháp cùng tiến tới xây dựng mái ấm gia đình nhỏ. Khi nam, nữ có

mong muốn tiến tới hôn nhân và tạo dựng gia đình sẽ được pháp luật quản lý.

Trong mỗi giai đoạn phát triển tính chất, kết cấu gia đình có thể khác, tuy

nhiên các chức năng cơ bản như chức năng sinh đẻ, chức năng giáo dục, chức

năng kinh tế được xem là những yếu tố cấu thành nên gia đình. Hoạt động

kinh tế đóng vai trò như chiếc chìa khóa đảm bảo sự tồn tại của mỗi gia đình

nói riêng và toàn xã hội nói chung.

Cùng với sự phát triển của xã hội vợ, chồng ngày càng có nhu cầu thực

hiện các hoạt động kinh tế độc lập, khẳng định quyền tự do định đoạt tài sản

riêng. Hơn nữa, những năm gần đây tỷ lệ vợ, chồng ngoại tình ngày càng gia

tăng, như một bước lui và sự chủ động trong việc thừa hưởng tài sản chung

của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân. Từ đó, pháp luật hôn nhân và gia đình

ghi nhận sự chuyển biến nhu cầu xã hội đã đưa ra quy định cụ thể“Chia tài

sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”. Trong sự ghi nhận này quan

hệ tài sản phát sinh, sự điều chỉnh được thực hiện thông qua hai hướng, công

nhận sự thỏa thuận nhưng phải tuân thủ các quy định pháp luật HN&GĐ,

BLDS và các văn bản hướng dẫn thi hành dưới luật. Cách thức giải quyết vụ

việc thứ hai được thực hiện thông qua Tòa án.

1

Từ những lý do nêu trên tôi thấy được sự cấp thiết và cần phải nghiên

cứu chuyên sâu nên chọn chủ đề khóa luận tốt nghiệp như sau: “Pháp luật Việt

Nam về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân’’.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Nhắc đến các vấn đề trong hôn nhân ai cũng có thể nghĩ đến việc duy trì

và phát triển bền vững, xét đến hai yếu tố cơ bản tác động chính là tài sản và

quan hệ nhân thân.

Nhóm các bài viết trên tạp chí

Nghiên cứu “Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân” của tác giả Phùng Trung Tập trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số

10/2012. Bài viết này của tác giả Phùng Trung Tập phân tích các quy định pháp

luật có liên quan chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân căn

cứ vào Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, chỉ ra các bất cập và đề xuất một

số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực chai tài sản chung của

vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Tại công trình này tài sản được tác giả nhắc

đến là động sản như một loại tài sản vợ, chồng phân chia, nhưng còn rất mờ

nhạt. Hơn nữa, văn bản pháp luật bài viết áp dụng hiện hành khi đó sử dụng

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên chưa thể cập nhật hết tình hình giai

đoạn hiện nay, tuy nhiên những gì mà bài viết nghiên cứu, thực nghiệm đã để

lại là những giá trị quý giá.

Bài viết nghiên cứu “Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ, chồng trong

thời kỳ hôn nhân”, do tác giả Ngô Thị Vân và Đặng Lê Phương Uyên trên tạp

chí Khoa học pháp lý, số 6/2019. Bài viết đi sâu nghiên cứu các nội dung về

phạm vi tài sản của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân, tiếp đó chia tài sản chung

trong thời kỳ hôn nhân vì mục đích đầu tư, kinh doanh; Đảm bảo quyền lợi của

người thứ ba khi vợ, chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân vì mục

đích đầu tư, kinh doanh. Khi nghiên cứu cả hai tác giả đều đề xuất các kiến

2

nghị hoàn thiện pháp luật. Bài viết phân tích sâu các vấn đề tổng thể, trong đó

có đề cập đến tài sản là bất động sản.

Nhóm bài viết khóa luận, luận văn

Luận văn Thạc sĩ “Chia tài sản chung vợ, chồng là bất động sản trong

thời kỳ hôn nhân theo thỏa thuận” do ThS.Lương Trọng Kha. Bài viết của tác

giả nghiên cứu vấn đề chia tài sản chung là bất động sản của vợ, chồng trong

thời kỳ hôn nhân theo thỏa thuận, khi thỏa thuận tài sản phải thông qua hình

thức công chứng để xác định nội dung văn bản không bị vô hiệu do vi phạm về

mặt nội dung phân chia. Ngoài ra, còn đề cập đến hình thức chia thứ hai là Tòa

án giải quyết. Qua quá trình nghiên cứu đó tác giả đã thấy những quy định pháp

luật về vấn đề này chưa sâu nên đã chỉ ra những hạn chế, đồng thời đề xuất các

giải pháp hoàn thiện.

Khoá luận tốt nghiệp “Pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ

chồng trong thời kỳ hôn nhân” của tác giả Đặng Lê Phương Uyên năm 2018

tại Trường Đại học Luật TP. HCM. Khóa luận đi phân tích một cách toàn diện

các quy định pháp luật liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ, chồng

trong thời kỳ hôn nhân, và tác giả có sử dụng bất động sản để nghiên cứu các

vấn đề liên quan nêu trên; Tác giả cũng làm rõ các bất cập, tồn tại từ đó đề xuất

các kiến nghị hoàn thiện. Tuy nhiên, vì giới hạn của khóa luận nên thực tiễn

giải quyết các tranh chấp hay yêu cầu về chia tài sản chung là bất động sản của

vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân chưa có điều kiện để phân tích nhiều.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu quy định pháp luật Hôn nhân và gia đình qua các

thời kỳ từ văn bản HN&GĐ 1986, 2000 đến 2014 về chia tài sản chung của vợ

chồng trong thời kỳ hôn nhân, từ đó đánh giá, đưa ra nhận xét về sự thay đổi,

3

tiến bộ giữa các văn bản pháp luật. Tiếp đó, làm sáng tỏ quy đinh pháp luật

HN&GĐ 2014 hiện hành và đi liên hệ các bản án giải quyết vụ việc thực tế của

cấp Tòa án sơ thẩm, phúc thẩm. Cuối cùng, đưa ra các kiến nghị cũng như giải

pháp cụ thể hoàn thiện quy định pháp luật.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được những mục đích nghiên cứu trên vạch ra những nhiệm vụ

định hướng đúng các quy định pháp luật Hôn nhân và gia đình, hệ thống chuẩn

mực các kiến thức từ lý luận cơ sở đến đánh giá thực trạng.

Một là, khái quát cơ sở lý luận về phân chia tài sản chung của vợ, chồng

trong thời kỳ hôn nhân, đồng thời chỉ ra sự thay đổi của Luật Hôn nhân và gia

đình năm 2014 so với những quy định trước.

Hai là, đi sâu phân tích các quy định pháp luật hiện hành như quyền yêu

cầu, lý do, các trường hợp, hình thức và nội dung, hiệu lực, vô hiệu chia tài sản

chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Ba là, giải quyết các kiến nghị đề ra thông qua những giải pháp cụ thể về

chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu

Pháp luật Hôn nhân và gia đình quy định về chia tài sản của vợ chồng

trong thời kỳ hôn nhân theo quy định tại Luật HN&GĐ 2014, Nghị định

126/2014 quy định chi tiết hướng dẫn thi hành luật Hôn nhân và gia đình.

- Phạm vi nghiên cứu

Về phạm vi không gian: Chủ yếu trong phạm vi các quy định pháp luật

về chia TSC trong thời kỳ hôn nhân từ luật HN&GĐ 1986 đến hiện nay. Ngoài

ra sử dụng một số bản án thực tế từ năm 2018-2020.

4

Về phạm vi thời gian: Nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam từ

giai đoạn 1986-2014.

Về phạm vi nội dung: Đề tài tập trung phân tích khái niệm, đặc điểm,

nguyên tắc, ý nghĩa, sơ lược sự hình thành phát triển của Luật HN&GĐ từ năm

1986 đến năm 2014; Tìm hiểu quy định pháp luật HN&GĐ 2014.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu được thực hiện bằng một số phương pháp cụ thể để

làm rõ các nội dung của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân.

- Phương pháp nghiên cứu được dùng để giải quyết cho những nhiệm vụ

nghiên cứu đề xuất là:

Sử dụng phương pháp diễn giải, phương pháp lịch sử,... nghiên cứu một

số vấn đề lý luận chung liên quan đến quy định pháp luật Việt Nam về chia tài

sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Phương pháp tổng hợp, phân tích được sử dụng để xem xét tìm hiểu các

vấn đề giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam quy định quyền yêu

cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Thông qua phương pháp nghiên cứu đưa ra một số vụ án giải quyết thực

tế về việc yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, từ

đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về hôn nhân

và gia đình.

6. Những điểm mới của khóa luận

Đề tài khóa luận là một nghiên cứu mới khác biệt so với các bài viết

trước đó. Bài viết nghiên cứu đầy đủ, chính xác một số vấn đề lý luận về chia

tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đưa ra những cơ sở lý luận

chung. Sơ lược sự hình thành, phát triển quy định pháp luật về vấn đề này của

5

các văn bản pháp luật. Tìm hiểu các kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế

giới trong việc xây dựng pháp luật. Giúp người đọc hiểu rõ hơn quyền được

yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, hình thức và nội dung của

việc chia tài sản. Chỉ ra hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung và chấm

dứt hiệu lực như thế nào. Đưa những bản án thực tế Tòa án giải quyết để hướng

tới việc làm rõ các quy định pháp luật quy định như thế nào. Cuối cùng đề xuất

các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chia TSC của vợ, chồng trong thời kỳ hôn

nhân. Tóm lại, đây là những điểm mới mà các nghiên cứu trước đó của một số

tác giả chưa thực hiện.

7. Kết cấu khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của khóa luận bao gồm 2 Chương cơ bản.

Chương i: Một số vấn đề lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng trong

thời kỳ hôn nhân.

Chương ii: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chia tài sản

chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và một số giải pháp hoàn thiện

pháp luật.

6

PHẦN II NỘI DUNG

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG

CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc chia tài sản chung của vợ chồng

trong thời kỳ hôn nhân

1.1.1. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Hôn nhân là cơ sở của gia đình và gia đình là tế bào của xã hội. “Gia đình

tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”[23,tr.88]. Câu nói trên

khẳng định tầm vóc lớn lao của gia đình tác động vào sự cân bằng, ổn định của

xã hội. Những ưu điểm, giá trị tốt đẹp gia đình mang tại Khoản 2 Điều 36 Hiến

Pháp 2013 ghi nhận, quy định “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia

đình”[1,tr.24]. Như vậy Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn chú

trọng và lấy hôn nhân và gia đình là trọng tâm để phát triển các mặt kinh tế,

chính trị, văn hóa, xã hội. “Hôn nhân” là cam kết giữa người nam và người nữ

sau khi kết hôn, dưới sự điều chỉnh của pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt

Nam. Khi có sự cam kết bằng pháp luật nam, nữ trở thành vợ chồng hợp pháp

của nhau tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân từ đó hình

thành “Thời kỳ hôn nhân” .Sau khi thời kỳ hôn nhân hình thành vợ chồng phát

sinh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản.

Thời kỳ hôn nhân được tính từ khi nam, nữ kết hôn và có sự công nhận

pháp luật, giai đoạn thời kỳ đầu của hôn nhân tài sản chung vợ, chồng có được

chủ yếu do tặng cho chung, sau một thời gian vợ, chồng làm ăn, sinh sống số

tài sản chung được phát triển nhiều hơn. Những tài sản này do hai vợ, chồng

quản lý và đồng sở hữu, nhưng phải chịu sự tác động và điều chỉnh của BLDS

2015 và Luật HN&GĐ 2014. Luật quy định vợ, chồng được thực hiện quyền

chiếm hữu, quyền định đoạt, quyền sử dụng tài sản chung theo nguyên tắc tự

7

nguyện, bình đẳng. Dựa vào mối liên hệ xã hội quan hệ tài sản gồm hai nhóm

cơ bản, nhóm liên quan đến quyền sở hữu và nhóm hình thành trong quá trình

lưu chuyển tài sản giữa các chủ thể. Đối với nhóm lưu chuyển thứ hai này sẽ

phù hợp với chế định chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân,

tài sản chung gồm những tài sản vợ, chồng tạo ra trong lao động, hoạt động sản

xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác. Theo quy định pháp luật

vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và

định đoạt tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp

nhất, Khoản 2 Điều 210 Bộ luật Dân sự 2015 quy định. Như vậy, vợ chồng có

quyền thỏa thuận, phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Tuy nhiên, để nắm rõ và đi cụ thể từng khái niệm trong một nội hàm lớn về

chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải tách bạch khái

niệm “Thời kỳ hôn nhân” là gì? Và “Chia tài sản chung của vợ chồng trong

thời kỳ hôn nhân”.

Thời kỳ hôn nhân là thời gian quan hệ vợ chồng tồn tại, bắt đầu từ khi kết

hôn và chấm dứt khi một bên vợ hoặc chồng chết. Trong trường hợp vợ hoặc

chồng xin ly hôn thì thời kỳ hôn nhân chấm dứt trước pháp luật kể từ khi bản

án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Trong thời kỳ hôn nhân có hai quan hệ

phát sinh song song, quan hệ hôn nhân và quan hệ tài sản. Quá trình này tài sản

là công cụ chủ yếu đảm bảo các hoạt động của gia đình và tài sản cũng là yếu

tố dễ phát sinh tranh chấp nhất khi hai bên vợ chồng mâu thuẫn.

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân hiện nay là một

khái niệm mới chưa được nhiều nhà làm luật định nghĩa rõ ràng, nhưng căn cứ

theo quy định pháp luật tại Điều 38, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 vợ, chồng

có quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Để hiểu rõ thế nào là chia

tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đầu tiên phải làm rõ “chia”

là như thế nào, chia theo từ điển Tiếng Việt là “Phân ra, san ra từng phần từ

8

một chỉnh thể”. Vậy hiểu một cách cơ bản chia là phân số tài sản chung của vợ

chồng thành khối tài sản nhỏ hơn, theo yêu cầu. Và từ đây cũng có một số nhà

luật học tiếp cận khái niệm thế nào là “Chia tài sản chung của vợ chồng trong

thời kỳ hôn nhân” được ghi nhận tại các bài khóa luận, luận văn thạc sĩ.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Hồng Vân định nghĩa: “Chia tài sản chung

của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là việc vợ, chồng thỏa thuận hoặc yêu cầu

Tòa án chuyển một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng

cho mỗi bên vợ, chồng dựa trên các căn cứ luật định nhằm đảm bảo quyền và

lợi ích hợp pháp của mỗi bên vợ, chồng dựa trên các căn cứ luật định nhằm

đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên vợ, chồng và người thứ ba có

liên quan mà không làm châm dứt quan hệ giữa vợ và chồng trước pháp

luật”[21].

ThS. Lưu Việt Thắng đưa ra khái niệm như sau: “Chia tài sản chung của

vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là việc vợ, chồng thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa

án chuyển một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng cho

mỗi bên vợ, chồng theo quy đinh của pháp luật, nhằm đảm bảo quyền và lợi

ích hợp pháp của mỗi bên vợ, chồng và người thứ ba có liên quan. Việc chia

tài sản chung này không làm chấm dứt quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng

trước pháp luật”[22].

Những nhận định trên của các tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân và Lưu Việt

Thắng gần như đã tiếp cận một số góc nhìn về chia tài sản chung của vợ, chồng

trong thời kỳ hôn nhân, dưới góc độ này có thể hiểu pháp luật ưu tiên sự thỏa

thuận, tài sản trước khi chia thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ, chồng cân

bằng lợi ích các bên. Hơn nữa việc chia tài sản không làm chấm dứt lợi ích các

bên.

9

Từ những gì tìm hiểu các đầu sách chính thống thì đến nay chưa có một

định nghĩa chính xác, chuyên sâu về chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời

kỳ hôn nhân, nhưng qua những tìm hiểu ở trên đã có một số nhà luật học đưa

ra khái niệm theo ý kiến khách quan. Vậy nên, cũng nhìn nhận từ một số góc

độ tiếp cận tôi xin mạnh dạn đưa ra khái niệm sau: “Chia tài sản chung của vợ

chồng trong thời kỳ hôn nhân là việc vợ chồng thỏa thuận với nhau phần tài

sản cần chia và lập thành văn bản. Văn bản này phải đáp ứng đầy đủ quy định

pháp luật. Và khi tài sản vợ chồng yêu cầu chia không thể thỏa thuận được thì

Tòa án sẽ giải quyết, để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho vợ chồng”.

Đặt ra quy định chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân

sau khi vợ, chồng kết hợp tạo ra khối tài sản chung hợp nhất, thì trong sự ghi

nhận này lại phân khối tài sản ra thành của riêng nhưng điều đáng lưu ý tại đây

quan hệ tài sản có thể thay đổi nhưng quan hệ nhân thân và hôn nhân thực tế

vẫn còn tồn tại. Tài sản chia ra như dòng lưu chuyển tuy tách bạch nhưng không

chấm dứt nghĩa vụ đối với các bên còn lại.

1.1.2. Đặc điểm của chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Thông qua khái niệm, đã có thể hình dung được những quyền và yêu cầu

vợ, chồng cần đáp ứng khi thực hiện hành vi dân sự. Nhưng để hiểu và nắm

đúng bản chất thì thông qua đặc điểm bên ngoài sẽ giúp bộc lộ rõ hơn.

Thỏa thuận, phân chia theo quy định pháp luật.

Khi vợ chồng phân chia số tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì vợ

chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ số tài sản chung. Ghi

nhận sự thỏa thuận thông qua văn bản. Văn bản này phải được công chứng đúng

theo quy định Khoản 1 Điều 2 Luật công chứng 2014. Khi công chứng thì công

chứng viên tại văn phòng phải chứng thực tính xác thực, hợp pháp của hợp

đồng, giao dịch dân sự.

10

Giải quyết khi vợ chồng có nhu cầu phân chia tài sản chung trong thời

kỳ hôn nhân.

Khi vợ chồng cùng nhau thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng

trong thời kỳ hôn nhân nhưng không thể thỏa thuận được chia tài sản như thế

nào thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án sẽ căn cứ yêu cầu của vợ chồng để

đưa ra quyết định, việc Tòa án đồng ý hay không đồng ý phải được lập dưới

hình thức một bản án có hiệu lực pháp luật. Quyết định cuối cùng có hiệu lực

pháp luật phải bằng phán quyết của Tòa án ghi lại đã có sự việc xảy ra và đưa

ra phương án giải quyết căn cứ vào các quy định của BLDS, BLTTDS, Luật

HN&GĐ,...

Đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ tài sản vợ chồng.

Trong tất cả các tranh chấp dân sự, yếu tố cần không được vi phạm đó là

giữ đúng nguyên tắc giải quyết của các bên, ở đây nói đến nguyên tắc vợ, chồng

khi chia tài sản chung trong TKHN phải được đáp ứng đầy đủ quyền, lợi ích

hợp pháp. Ngoài ra song song với quyền là nghĩa vụ vợ, chồng khi được hưởng

tài sản cần thực hiện đúng trách nhiệm với vợ, chồng, con chưa thành niên và

đã thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động để

nuôi sống chính bản thân, đây là những người có nhân thân quan hệ trực tiếp

đối với mối quan hệ tài sản vợ, chồng yêu cầu chia.

1.1.3. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Căn cứ tại Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có thể rút ra được

ba nguyên tắc cơ bản.

- Nguyên tắc 1: Sau khi đăng ký kết hôn vợ, chồng có quyền thỏa thuận

về việc phân chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định

tại Điều 42 Luật HN&GĐ 2014.

11

- Nguyên tắc 2: Việc chia tài sản chung của vợ chồng không được xâm

phạm lợi ích của gia đình.

- Nguyên tắc 3: Nhằm trốn tránh nghĩa vụ, nuôi dưỡng, cấp dưỡng cha

mẹ, con cái; bồi thường thiệt hại, thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản.

1.1.4. Ý nghĩa của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân

Tài sản không tự dưng sinh ra và mất đi, khi đặt tài sản vào trong một

mối quan hệ hay tranh chấp phát sinh, lại mang một ý nghĩa khác nhau. Như

những gì đã phân tích ở trên thời kỳ hôn nhân vợ, chồng tạo ra được số tài sản

nhất định dựa trên công sức đóng góp. Đây là sự phân chia rõ ràng để khẳng

định quyền, nghĩa vụ vợ, chồng đối với tài sản tạo ra trong quá trình xây dựng

hôn nhân.

Một là, phân chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân

nhằm giúp chia số tài sản chung thành từng phần thuộc sở hữu riêng của vợ

chồng ngay cả khi mối quan hệ vợ chồng chưa chấm dứt.

Hai là, khẳng định quyền tự do được lựa chọn mục đích sử dụng tài sản

chung. Tài sản khi chia có thể đem đi đầu tư kinh doanh bất kỳ các loại hình.

Quyền tự do là quyền cơ bản của vợ, chồng trong gia đình, việc được chọn lựa

theo mong muốn của bản thân về loại hình kinh doanh, đầu tư sẽ giúp vợ, chồng

thực hiện hết khả năng, ý tưởng sáng tạo đạt hiệu quả cao hơn trong công việc.

Ba là, mục đích bảo quản tài sản cho gia đình trong một số trường hợp

một bên vợ hoặc chồng đang thực hiện phá tán tài sản của gia đình. Tại sao phải

bảo quản tài sản? Thực hiện hành vi này với ý nghĩa tài sản chung khi có biến

cố xảy đối với vợ, chồng có thể hạn chế mức thiệt hại thấp nhất.

Bốn là, những cặp vợ, chồng trẻ hiện nay có tư tưởng thoáng hơn. Việc

phân chia tài sản như vậy sẽ buộc hai bên phải có trách nhiệm hơn với tài sản

12

tạo ra, tránh ỉ lại vào thu nhập một người, giúp nâng cao sự bình đẳng giữa vợ

và chồng trong gia đình.

Tóm lại, phân chia tài sản không nhằm mục đích cắt đứt quan hệ hôn

nhân, pháp luật sở dĩ đưa ra quy định nhằm đảm bảo quyền lợi cho người phụ

nữ. Ai cũng có thể nhận ra từ trước đến nay phụ nữ thường là phái yếu thế trong

gia đình, người đàn ông thường gắn mác phụ nữ chỉ biết “nội trợ” chuyện kiếm

tiền thuộc về đàn ông. Xã hội bắt đầu xoay chuyển, việc ổn định kinh tế, tạo

thu nhập trong gia đình ngày càng cân bằng. Vị trí giữa vợ và chồng ngang

nhau, chăm sóc con cái, gia đình không chỉ phụ thuộc vào người phụ nữ mà

người đàn ông đã nhận ra vấn đề vun vén gia đình thuộc về trách nhiệm giữa

vợ và chồng. San sẽ cùng nhau tạo nên sự gắn kết, thấu hiểu được nổi vất vả

của người vợ khi đó người chồng sẽ biết cách yêu người phụ nữ đồng hành

cùng trên chặng đường hôn nhân. Từ đó, tạo giá trị trong mối quan hệ hôn nhân

và gia đình, đưa tới sự khác biệt.

1.2. Sơ lược sự hình thành, phát triển của pháp luật hôn nhân và gia đình

Việt Nam về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển khá

sớm, qua các thời kỳ lịch sử quy định pháp luật có sự thay đổi theo nhu cầu

thực tế đặt ra và đánh giá đúng bản chất hiện tại. Việt Nam lần đầu tiên quy

định Luật HN&GĐ vào năm 1959 ghi nhận việc đưa các chế định hôn nhân vợ,

chồng vào trong luật nhằm khẳng định hôn nhân được hình thành từ sự tự

nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng, tiếp nối ra đời do luật

năm1959 chưa bao quát được các yếu tố cần của hôn nhân và các quan hệ tài

sản, nhân thân nên Quốc Hội đã sửa đổi thay thế bằng Luật HN&GĐ 1986, tại

đây pháp luật hình thành quy định “Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời

kỳ hôn nhân”, tiếp nối kế tục là sự ra đời của Luật HN&GĐ 2000. Cho đến

13

hiện nay tại văn bản Luật HN&GĐ 2014 đã xây dựng quy định về chia tài sản

chung của vợ, chồng một cách rõ ràng, mạch lạc hơn.

Năm 1986 Luật HN&GĐ đưa việc chia tài sản chung của vợ, chồng trong

thời kỳ hôn nhân vào luật. Tại Điều 18 có quy định vợ, chồng được thực hiện

việc CTS nếu đưa ra được lý do. Xét về “lý do” có thể hiểu như là bên vợ hoặc

chồng cho rằng trong quá trình chung sống vợ, chồng có những mâu thuẫn, bất

đồng trong quan điểm sống, tình cảm, hay mong muốn được thực hiện quyền

định đoạt đối với tài sản riêng,...Đây là những lý do chính đáng nhằm mục đích

đạt được mong muốn của vợ, chồmg. Tuy nhiên, tiến hành CTS phải đảm bảo

các điều kiện tại Điều 42 của Luật HN&GĐ 1986, pháp luật ưu tiên sự thỏa

thuận giữa vợ, chồng trước, nhưng việc này phải thông qua Tòa án công nhận

cuối cùng, giá trị của việc công nhận không làm hạn chế đi quyền được hưởng

tài sản do vợ, chồng tạo ra mà là để chứng minh sự thỏa thuận được pháp luật

thừa nhận, nếu có bất kỳ tranh chấp nào xảy ra giữa hai bên sau khi chia sẽ có

căn cứ đối chất. Ngoài trường hợp trên, nếu vợ, chồng không thể cùng nhau

ngồi lại thỏa thuận chia theo nguyện vọng, ý chí tự quyết thì Tòa án sẽ là người

đứng giữa trực tiếp phân định, dựa trên nguyên tắc. Những tài sản trước thời

kỳ hôn nhân là tài sản riêng của vợ, chồng vì vậy khi phân chia số tài sản này

vẫn thuộc sở hữu riêng, không được đặt vào cùng khối tài sản chung để phân

chia. Thêm một nguyên tắc đặt ra, tài sản vợ, chồng chia đôi cần phải đảm bảo

tình hình tài sản như thế nào, hiện nay gia đình có bao nhiêu thành viên, ai phải

cần có sự cấp dưỡng, hỗ trợ của vợ, chồng để đảm bảo sinh hoạt ổn định. Có

một vấn đề rất quan trọng cần chú trọng khi xét đến việc chia tài sản, cần xác

định rõ công sức đóng góp của từng người. Trong quá trình phân chia pháp luật

cũng nêu rõ quy định quyền lợi của người vợ và con chưa đủ 18 tuổi trong gia

đình được ưu tiên hàng đầu, tiếp theo không được làm ảnh hưởng đến hoạt động

sản xuất, kinh doanh.

14

Pháp luật Việt Nam luôn phát triển đi lên sự ra đời của Luật HN&GĐ

2000 là minh chứng Nhà nước ta lấy hôn nhân và gia đình phát triển các mặt

của đời sống xã hội. Tại Điều 29 của luật này có ghi nhận trong khi hôn nhân

vẫn đang tồn tại, nếu bên vợ, chồng muốn sử dụng tài sản chung vào hoạt động

sản xuất, kinh doanh của riêng cá nhân thì có thể đề xuất chia tài sản chung của

vợ, chồng trong TKHN. Ngoài ra, với mong muốn thực hiện nghĩa vụ dân sự

đối với tài sản thì cá nhân có thể tác động trực tiếp lên những đối tượng tài sản

như là tiền, các bất động sản và động sản, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Pháp

luật còn quy định trường hợp yêu cầu nữa là vợ, chồng có thể đưa ra được lý

do chính đáng. Nhưng những gì thỏa thuận phải được ghi lại thông qua dạng

văn bản. Tại Điều 30 Luật HN&GĐ 2000 đưa ra hậu quả chia tài sản, sau khi

tài sản chung đã được chia cho hai vợ, bằng hình thức thỏa thuận hay phán

quyết của Tòa án thì tài sản sau khi tách từ khối chung sẽ thành khối tài sản

riêng, những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã chia sẽ do vợ, chồng sở hữu

riêng, còn đối với tài sản không muốn chia vẫn nằm trong số tài sản chung của

vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân. Thông tư 70/2001/NĐ-CP quy định chi tiết

hướng dẫn thi hành Luật HN&GĐ 2000 Điều 6 có ghi nhận nội dung trong

trường hợp vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân khi lập văn bản

cần đưa ra được lý do chính đáng, ngoài ra những tài sản là bất động sản, động

sản (đất đai, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, thêm vào đó là các

quyền tài sản như quyền sở hữu, quyền định đoạt, quyền sử dụng, trong văn

bản cũng cần nêu rõ những tài sản là hiện vật thì phân chia như thế nào, còn

đối với tài sản có giá trị là tiền, vàng cần thì vợ, hay chồng sẽ được nhận, tuy

nhiên giá trị phân chia dù là tiền hay hiện vật đều phải được chia công bằng.

Hai vợ, chồng tiến hành thỏa thuận cần ghi rõ ngày, tháng, năm, cuối văn bản

phải có chữ ký. Đã đảm bảo các yếu tố trên hoàn thiện văn bản về mặt hình

thức bước cuối cùng xác lập văn bản có giá trị pháp lý cần phải thực hiện công

chứng, chứng thực theo yêu cầu.

15

Đưa ra một so sánh giữa Điều 18 Luật HN&GĐ 1986 và Điều 29 Luật

HN&GĐ 2000, do Luật năm 1986 ra đời trước nên điều luật thể hiện nội dung

mang tính chung chung, tại đây có nêu Tòa án là cơ quan công nhận sự thỏa

thuận của vợ, chồng nhưng không nêu rõ khi vợ, chồng thỏa thuận có cần lập

thành văn bản hay không. Tuy nhiên, tại Điều 29 Luật HN&GD 2000 lại đưa

ra một quy định bao quát về mặt nội dung cũng như hình thức thể hiện văn bản

trong điều này yêu cầu khi thỏa thuận vợ chồng lập thành văn bản. Lập văn bản

ở đây như một dạng hợp đồng của giao dịch dân sự và phải đáp ứng đầy đủ các

điều kiện về thời gian bắt đầu giao dịch có hiệu lực ghi nhận tại Điều 122 Bộ

luật Dân sự 2005 đầu tiên phải đáp ứng về chủ thể tham gia, phải có đủ năng

lực chịu trách nhiệm dân sự, tiếp theo trong văn bản những nội dung được cam

kết, thỏa thuận của hai bên không được trái quy định pháp luật, vi phạm nghiêm

trọng đạo đức xã hội và không có sự ép buộc bên vợ hoặc chồng đưa ra ý kiến

dựa vào ý chí tác động. Về mặt hình thức thể hiện của giao dịch dân sự bằng

nhiều cách khác nhau như lời nói, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thể. Chỉ qua

hơn 10 năm Luật Hôn nhân và gia đình đã xây dựng khá thành công quy định

về “Chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân”.

Như vậy, có thể khẳng định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

được hiểu là chia tài sản chung hợp nhất đây được xem là một GDDS. Để đảm

bảo các yếu tố đó cần tuân thủ các quy định về mặt hình thức và nội dung điều

này được thể hiện rõ hơn tại Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 theo đó

ngoài việc thỏa thuận Tòa án công nhận chia TSC của vợ, chồng ra thì Tòa án

có thể đưa ra phán quyết cuối cùng. Có một vấn đề đặt ra mà cần đi sâu nghiên

cứu ở giai đoạn này, pháp luật luôn tôn trọng sự thỏa thuận của vợ, chồng nhưng

nếu vợ chồng một bên mất năng lực hành vi dân sự thì được giải quyết như thế

nào. Thì cần dựa vào các căn cứ pháp lý và những lập luận về tính chất quan

hệ sở hữu chung hợp nhất giữa vợ và chồng. Khoản 2 Điều 24 Luật HN&GĐ

16

2000 nêu ra bên vợ hoặc chồng có thể đại diện để thực hiện GDDS khi bên còn

lại mất năng lực hành vi dân sự nhưng phải đảm bảo các điều kiện thì mới được

trở thành người giám hộ. Vợ chồng mắc các bệnh tâm thần thì phải được Tòa

án đưa ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự và dựa trên kết quả

của tổ giám định. Còn nếu vợ, chồng hạn chế năng lực hành vi dân sự như vợ

chồng nghiện ma túy, hoặc các chất kích thích đưa đến hành vi phá tán tài sản.

Theo những gì quy định nêu trên thì có một hạn chế đối với việc đưa ra thỏa

thuận vợ, chồng trong TKHN bên vợ, chồng mất năng lực hoặc hạn chế năng

lực sẽ không có quyền thỏa thuận mà trong trường hợp này Tòa án sẽ quyết

định.

Hoàn thiện và kế thừa những quy định trên Luật Hôn nhân và gia đình

2014 tại Điều 38 có đưa ra ba khoản liên quan đến vấn đề “Chia tài sản chung

của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân” quyền được yêu cầu theo thỏa thuận

thông qua văn bản làm căn cứ pháp luật, trường hợp không thỏa thuận thì bản

án giải quyết Tòa án ra phán quyết cuối cùng. Chấm dứt hiệu lực việc chia tài

sản chung là sự tiến bộ vượt bậc. Sự hoàn thiện của pháp luật hôn nhân và gia

đình hiện nay đang hướng tới hơn 26 triệu hộ gia đình, mỗi gia đình lại đóng

một vai trò và mang các chức năng truyền thống, chức năng sinh đẻ nhằm duy

trì nòi giống, chức năng giáo dục phát huy tri thức, chức năng kinh tế tạo ra của

cải, vật chất, chức năng tình cảm lưu giữ các giá trị tinh thần. Nếu biết cách lưu

giữ, bảo tồn, phát triển theo chiều hướng tốt đẹp bốn chức năng trên mới thật

sự tạo nên một gia đình ổn định. Ngược lại không thực hiện, phát huy đầy đủ

các chức năng trên chất lượng gia đình sẽ mất cân đối.

Qua sự so sánh sánh cũng như đánh giá, phân tích các điều luật nêu trên

có thể thấy sự khác biệt rõ rệt giữa văn bản Luật HN&GĐ 2014 so với những

văn bản trước đó được ghi nhận tại Khoản 3 Điều 38.

17

1.3. Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới trong việc xây dựng pháp

luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Trên thế giới có tổng số 6 Châu lục và những Châu lục này nằm ở các vị

trí khác nhau trên trái đất, vì vậy mà chế độ chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội

cũng đã có sự không đồng nhất. Sự khác biệt về vị trí địa lý, khí hậu đã tạo ra

những ngôn ngữ, chữ viết riêng cho người dân ở các quốc gia. Không chỉ vậy

để đảm bảo cuộc sống, giữ gìn trật tự an ninh ở mỗi nước lại xây dựng hệ thống

văn bản quy phạm pháp luật riêng. Trong đó, phải kể đến Châu Âu một trong

những châu lục phát triển khá sớm và gồm các quốc gia thành viên như Áo, Ba

Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp, Ý..., là những nước tiêu biểu đi đầu về

hoạt động kinh tế. Bởi do các nước kể trên đã tham gia vào các cuộc chiến tranh

thế giới thứ nhất, chiến tranh thế giới thứ hai đi xâm chiếm các nước thuộc địa,

nên kinh tế cũng như pháp luật được xây dựng rất chắc. Tiêu biểu phải đề cập

đến Pháp, nói đến Pháp phải nhớ đến ngay một nhà chính trị kiệt xuất, tài ba

Napoleson Bonaoarte-ông là người trực tiếp chỉ đạo cho ra đời BLDS Pháp

1804, trong bộ luật này có quy định các nội dung về tài sản vợ, chồng theo pháp

định và tài sản theo ước định. Ngoài BLDS Pháp, tại khu vực Châu Á, Thái

Lan được ví như “Thiên đường du lịch” vị trí địa lý đắc địa, nền văn hóa và lịch

sử lâu đời đã tạo nên sự phát triển ổn định. Tuy nhiên, để có sự vững mạnh như

ngày hôm nay Thái Lan đã liên tiếp kế tục, cho ra đời các Bộ luật quy định tài

sản vợ, chồng. Đây cũng là hai quốc gia tiêu biểu mà Việt Nam cần học hỏi về

cách phát triển kinh tế cũng như tiếp thu giá trị của điều luật các nước, đặc biệt

trong quan hệ hôn nhân và gia đình.

a) Pháp luật Dân sự Pháp 1804

Ngay sau cuộc cách mạng tư sản Pháp thành công, vị tướng Napoleon

Bonaoarte lên nắm quyền và cho ra đời BLDS Pháp 1804 đầu tiên. Cho đến

nay bộ luật này vẫn tồn tại và chưa có một văn bản pháp luật nào thay thể, bởi

18

nội dung được các nhà làm luật tại đất nước nhìn nhận khá xa. Đến năm 2000

thì nước Pháp có sự thay đổi về chế độ Nghị viện-Tổng thống, trước kia chỉ

bầu một lần nhưng do chính sách quản lý chưa phù hợp nên đã chuyển sang

nhiệm kỳ 5 năm bầu tổng thống một lần. Trong đó ghi nhận quyền lực cao thuộc

về Tổng thống, phân cho Thủ tướng đứng đầu Chính Phủ đảm bảo thi hành

pháp luật trong nước, quyền Lập pháp do Quốc Hội và Thượng viện nắm giữ.

Như vậy, chế độ pháp luật cũng như quản lý các mặt chính trị tại quốc gia Pháp

được phân bổ khá là hợp lý gồmTổng thống và Nghị viện, sau khi có sự thay

đổi về chính trị BLDS Pháp cùng năm 2000 đã tách và phân thành ba quyển,

tại Thiên V quyển thứ ba quy định cụ thể về chế độ tài sản vợ, chồng trong hôn

nhân.

Năm 1804 văn bản có hiệu lực pháp luật cho đến năm 2000, Pháp chia

BLDS thành ba quyển, trong đó Thiên V quyển thứ ba quy định về khế ước hôn

nhân và các chế độ tài sản của vợ chồng trong hôn nhân. Căn cứ vào quy định

thì chế độ tài sản gồm có “chế độ tài sản pháp định” và “chế độ tài sản ước

định”. Pháp luật đưa ra chế độ tài sản cơ bản giúp vợ, chồng có thể tự do lựa

chọn chế độ tài sản phù hợp với điều kiện, kinh tế của gia đình. Chế độ tài sản

pháp định được hiểu như là một giải pháp hữu hiệu thay thế trong trường hợp

vợ, chồng không thể thỏa thuận bằng hôn ước, hoặc vợ, chồng chọn lựa chế độ

tài sản áp dụng đúng với mục đích. Điều 1400 BLDS Pháp quy định: “Chế độ

tài sản chung được xác lập khi không có khế ước hôn nhân hoặc khi vợ chồng

lựa chọn kết hôn theo chế độ tài sản chung” [14]. Tài sản ở đây là khối tài sản

có và khối tài sản nợ. Xác lập tài sản chung vợ, chồng gồm: Tài sản tạo ra trong

thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng có được từ công việc tự thân kiếm được, được thừa

kế tặng cho chung hoặc người khác di tặng có thể là bố, mẹ, ông, bà…, một số

tài sản khác không có minh chứng đó là tài sản riêng.

Tại Điều 1401 BLDS Pháp quy định: Tài sản công cộng gồm thu nhập

chung vợ, chồng hoặc riêng, nguồn gốc công việc, khoản tiền hoa lợi, lợi tức

19

phát sinh từ tài sản riêng vợ, chồng tạo ra. Ngoài ra, bộ luật cũng khẳng định

những tài sản vợ, chồng không thể chứng minh là chung hay riêng của vợ,

chồng thì theo quy định pháp luật tài sản dù là động sản hay bất động sản đều

xem là thu nhập chung của vợ, chồng. Những tài sản muốn chấm dứt phải có

căn cứ làm chấm dứt theo quy định của BLDS Pháp trong đó nêu như thế nào

là việc tách riêng tài sản chung giữa vợ và chồng. Điều 1443 BLDS Pháp quy

định tách riêng (chia) tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như

sau:

Nếu xảy ra sự xáo trộn trong công việc làm ăn của vợ, chồng do ý thức

và đạo đức quản lý và duy trì tài sản kém vào việc bảo vệ chế độ tài sản chung

gây ảnh hưởng đến lợi ích của bên vợ hoặc chồng, thì một trong hai bên bị ảnh

hưởng đến lợi ích có thể yêu cầu Tòa án cho tách riêng tài sản. Pháp luật cũng

nêu rõ mọi trường hợp yêu cầu tách riêng tài sản bị vô hiệu. Nắm được tình

hình, đưa tầm nhìn ra xa hơn dự liệu các rủi ro pháp lý xảy ra các nhà làm luật

Pháp đưa ra hai trường: Một là, công việc không điều chỉnh như mong muốn

có thể phát triển theo chiều đi lên hoặc chiều lợi ích đi xuống. Hoặc là xét đến

trường hợp hai, do vợ chồng thiếu đạo đức, thực hiện hành vi phá tán tài sản,

hoặc tự thực hiện giao dịch làm tổn hại tới tài sản chung. Hai trường hợp này

không thể thỏa thuận thông qua văn bản, mà phải do Tòa án quyết định. Điều

này khác với Luật HN&GĐ Việt Nam, Điều 38 Luật HN&GĐ 2014 đưa ra hai

trường hợp giải quyết chia tài sản là tự thỏa thuận và lập văn bản, hoặc do Tòa

án quyết định. Như vậy, so ngang với luật dân sự Pháp góc nhìn pháp luật Việt

Nam có sự “cởi mở” hơn. Ngoài ra, Điều 1443 BLDS Pháp chỉ ra, chia tài sản

chung chỉ có vợ hoặc chồng được đề xuất tách riêng tài sản, người thứ ba không

có quyền yêu cầu.

Như vậy, pháp luật dân sự Pháp qua những phân tích nêu trên, việc chia

tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được nhà nước bảo hộ và

chủ thể pháp luật hướng tới ở đây là vợ, chồng và thương nhân. Pháp luật ghi

20

nhận những quyền trên nhằm hạn chế thấp nhất nhưng tranh chấp phát sinh

trong tương lai. Trước tiên nâng cao ý thức trách nhiệm mỗi bên vợ chồng

không phải tồn tại mỗi quyền mà còn có cả nghĩa vụ song hành. Tiếp nữa sự

dịch chuyển tài sản của vợ chồng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến người thứ ba có

quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nắm được tình hình người thứ ba thanh toán

các khoản nợ, vay…Đây là cơ sở chứng minh rõ nguồn gốc tài sản trong trường

hợp có tranh chấp giữa vợ và chồng và người có liên quan. Điều 1448 có nêu

ra nghĩa vụ mà vợ chồng phải thực hiện. Tài sản được tách riêng vợ, chồng phải

có trách nhiệm đóng góp các chi phí cho việc nuôi dạy con tùy vào khả năng

của hai bên. Nếu hết tài sản sau khi tách riêng tài sản, thì bên còn lại trả hết các

chi phí trên,

Dù việc tách riêng tài sản chung được thực hiện với mục đích gì thì vợ

chồng phải có ý thức thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đóng góp chăm lo cho đời

sống chung của gia đình như chi phí sinh hoạt, chi phí học tập cho con cái, mua

sắm các vật dụng thiết yếu, các nghĩa vụ với người thứ ba…Vợ, chồng sau khi

nhận phần tài sản được chia cho dù số tài sản ít hay nhiều vợ, chồng đều phải

chăm lo cho sự phát triển của con. Bởi vì, gia đình là điểm tựa tinh thần, vật

chất chắp cánh cho những người con nuôi dưỡng ước mơ sau này. Ngoài ra,

BLDS Pháp cũng quy định hậu quả pháp lý của việc tách riêng tài sản này. Chế

độ tài sản chung của vợ chồng chấm dứt khi quyết định Tòa án có hiệu lực và

chuyển sang chế độ tách tài sản riêng, tài sản của người nào sẽ thuộc sở hữu

của người đó. Điều 1449 BLDS Pháp quy định: “Tách riêng tài sản do Tòa án

quyết định có hiệu lực đặt vợ chồng dưới chế độ của các điều 1536”[14]. Đối

với vấn đề tách riêng tài sản, các bên có nghĩa vụ thanh toán khoản nợ cho bên

thứ ba khi việc tách tài sản thành của riêng của vợ, chồng có hiệu lực pháp lý,

khi được Tòa án tuyên bố. Quy định này cũng nhằm bên vợ, chồng không trốn

tránh nghĩa vụ với bên thứ ba.

21

b) Pháp luật Dân sự và Thương mại Thái Lan 1996

Đông Nam Á có 11 nước thành viên, trong số đó có 10 nước trở thành

thuộc địa bị các nước tư bản xâm chiếm, chỉ riêng Thái Lan quốc gia duy nhất

không phải trải qua chế độ thuộc địa. Để có được sự thống nhất không lệ thuộc

đó Thái Lan đã có những hiệp định ký kết với các nước tạo mối quan hệ thương

mại song phương. Các hiệp định Thái Lan tham gia ký kết đã tạo sự thuận lợi

cho quốc gia giao thương, ngoại giao với các nước phương Tây, nên văn hóa

phương Tây là nền văn hóa mở, những nước tư bản này đi đầu về công nghệ,

kĩ thuật việc được học hỏi, tiếp thu từ nền kinh tế lẫn pháp luật các nước sẽ

giúp đất nước Thái Lan phát triển hơn so với các nước trong khu vực. Ngay từ

khi sơ khai, khởi đầu đất nước Thái Lan hình thành phát triển xã hội tư duy

pháp lý của đất nước cũng có phần nghiêng theo xu hướng Phương Tây, đặc

biệt ảnh hưởng bởi pháp luật Châu Âu lục địa. Thế kỉ XIX, Thái Lan thấy được

đất nước lớn mạnh phải xây dựng hệ thống văn bản pháp luật vững chắc nên đã

tiến hành cải cách hệ thống pháp luật và tư pháp. Các nhà làm luật Thái tiếp

thu triết lý pháp luật, tổ chức tòa án và tố tụng của pháp luật Châu Âu xem pháp

luật Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Anh, Ý và Nhật Bản là những mô hình xây dựng pháp

luật trong nước. Lần lượt các BLDS và Thương mại Thái Lan ra đời, đầu tiên

phải kể đến bộ luật năm 1996, hơn một thập kỷ tồn tại những giá trị bộ luật

mang lại trong đời sống người Thái hết sức lớn lao. Đặc biệt quy định về

HN&GĐ ghi nhận từ Điều 1435 đến Điều 1598 Quyển 5 của Bộ luật là những

quy định giúp nhân dân Thái Lan có thể định hình hôn nhân bao quát những

vấn đề như thế nào. Do hệ tư tưởng ảnh hưởng một phần pháp luật Châu Âu

nên quyền sở hữu ở Thái của vợ, chồng cũng điều chỉnh bằng hai phương thức:

Theo hôn ước mà vợ, chồng lập ra trước khi cưới và theo quy định của pháp

luật khi vợ chồng không có hôn ước đó sẽ vô hiệu. TSC quy định gồm có “Sin

Somros” và tài sản riêng “Sin Suan Tua”, tại Điều 1474 BLDS và Thương mại

22

Thái Lan được xác định tài sản bao gồm: Tài sản vợ chồng có được trong thời

kỳ hôn nhân, tài sản thông qua di chúc hoặc tặng cho được ghi nhận là tài sản

chung, hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng, ngoài ra trong trường hợp tài sản có

nguồn gốc nhưng vợ, chồng không chứng minh được tài sản đó thuộc về bên

nào thì cũng được xem là tài sản chung.

Tại các Điều 1488, Điều 1484, Điều 1491, Điều 1598 BLDS Thương

Mại Thái Lan đối với tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia thành bốn mục

cụ thể: Thứ nhất, Một bên vợ, chồng phải có nghĩa vụ riêng với bên thứ ba về

các nghĩa vụ thanh toán, vay nợ,...tuy nhiên những tài sản riêng trước đó không

có hoặc không đủ để hoàn ứng và chi trả thì buộc vợ, chồng phải sử dụng khối

tài sản chung. Thứ hai, trách nhiệm khi vợ, chồng được giao quản lý tài sản

theo “Sin Somros” khi thực hiện nhiệm vụ quản lý tài sản chung theo hình thức

này thì bên vợ, chồng đầu tiên pháp luật quy định bên có hành vi gây thiệt hại

hoặc mất mát tài sản mà không đưa ra được lý do chính đáng, tiếp theo khi vợ

chồng lâm vào tình trạng khó khăn nhưng không giúp đỡ, tiếp đó vợ, chồng

lâm vào tình trạng nợ nần vượt quá giá trị tài sản chung đang có, cuối cùng thực

hiện việc cản trở quản lý tài sản đồng nghĩa với việc vi phạm pháp luật. Thứ

ba, vợ, chồng do làm ăn kinh doanh thua lỗ dẫn đến phải tuyên bố phá sản. Thứ

tư, vợ, chồng bị tuyên mất năng lực hành vi, tuy nhiên xét về các mặt thì bên

còn lại vợ, chồng không được trở thành người giám hộ bởi tranh chấp đang diễn

giữa hai bên, trong trường hợp này bố, mẹ sẽ trở thành người giám hộ cho bên

bị tuyên mất năng lực để cùng thực hiện đồng sở hữu tài sản. Trong trường hợp

xảy ra vấn đề này bên vợ, chồng có thể yêu cầu Tòa án đưa ra quyết định tuyên

bố phần tài sản chung cần chia. Tại Điều 1492 BLDS và Thương Mại Thái Lan

cũng đưa ra được hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung cụ thể như phần

tài sản khi đã tiến hành chia sẽ có sự thay đổi, những tài sản đã được chia cho

bên vợ thì sẽ thuộc tài sản riêng của vợ và ngược lại tài sản chia cho chồng

cũng vậy và những tài sản có được từ tài sản chung sẽ trở thành tài sản riêng

23

của người đó, không ai được xâm phạm vào quyền lợi của hai bên. Và số tài

sản được thừa kế, tặng cho chung khi chia cũng mặc nhiên biến thành tài sản

riêng, ngoài ra những hoa lợi, lợi tức phát sinh cũng được xác nhận của bên

được chia. Khẳng định lại, tài sản chung đã chia trong thời kỳ hôn nhân biến

TSC vợ, chồng có được trong hôn nhân thành tài sản riêng của từng người, từ

chế độ TSC thay thế bằng chế độ biệt sản. Pháp luật Thái Lan đưa ra Điều 1493

quy định sau khi tài sản được chia vợ, chồng cùng nhau đảm bảo trách nhiệm

chi trả các chi tiêu của gia đình theo tỷ lệ tương ứng với số tài sản mà các bên

được nhận. Đây là điểm tương đồng lớn của BLDS và Thương Mại Thái Lan

với BLDS Pháp, khẳng định nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con cái.

So sánh bộ luật giữa hai nước cùng quy định về chế độ chia tài sản chung

của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân một bên đại diện cho khu vực Châu Âu

và một bên đại diện cho khu vực Châu Á, cả hai bộ luật đều mang lại những

giá trị nhận thức cho luật gia các nước. Nói đến BLDS và Thương mại Thái

Lan “Sin Somros” thì khôi phục chế độ tài sản vợ, chồng là điểm mới, Tòa án

sẽ có lệnh hủy bỏ chia tài sản sau khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu và giải

quyết bằng sự công nhận. Theo “Sin Somros” nếu vợ, chồng phản đối yêu cầu

thì Tòa án không được ra quyết định hủy bỏ việc chia, trừ trường hợp “Sin

Somros” tự chấm dứt. Với những tính chất, kết cấu của quy định pháp luật nêu

trên BLDS và Thương mại Thái Lan có nhiều điểm hợp lý hơn so với Việt

Nam, phải kể đến trường hợp chia TSC, hậu quả đối với gia đình và con, tuy

nhiên nhìn nhận khách quan thì pháp luật các nước sử dụng dựa trên điều kiện

kinh tế, xã hội, Thái Lan áp dụng chế độ biệt sản sau khi chia TSC thì Việt Nam

do không phù hợp nên đưa vào luật sẽ tạo ra phép đối nghịch. Xét đến BLDS

Pháp, chế định chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân được

xây dựng từ năm 1804 nhưng các quy định vẫn đáp ứng theo xu hướng của thời

đại.

24

Tiểu kết chương I

Xây dựng một gia đình hạnh phúc không khó, nhưng làm thế nào để vợ,

chồng cầm tay nhau lái con thuyền hôn nhân đến bến bờ hạnh phúc đây là cả

một sự nổ lực, hi sinh của hai bên. Hôn nhân nhân hình thành vợ chồng bắt đầu

phát sinh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân là sự gắn bó,

đoàn kết giữa các thành viên trong gia đình như bố, mẹ, con cái, anh, chị, em,

khi có mối quan hệ liên kết giữa các thành viên trong gia đình lúc này để nuôi

dưỡng các mối quan hệ phải có kinh tế mới đáp ứng được. Vợ, chồng bắt đầu

tiềm kiếm cơ hội, công việc, phát triển hết khả năng tạo ra tài sản là tiền bằng

sức lao động chân chính. Khi có tiền vợ, chồng bắt đầu đem đi mua bán một số

tài sản khác phục vụ cuộc sống như đất đai, nhà, xe cộ và một số tài sản thiết

yếu khác phục vụ đời sống vợ chồng. Khi chung sống và bước vào cuộc hôn

nhân hợp pháp những quyết định mua bán, tặng, cho tài sản cho người thân hay

bạn bè vợ, chồng đều phải thông qua nhau, không được tự ý đưa ra quyết định

bởi số tài sản sau khi kết hôn đã trở thành tài sản chung. Để tạo sự thoải mái và

ghi nhận công sức đóng góp vợ, chồng, pháp luật Hôn nhân và gia đình quy

định vợ, chồng được quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.

Hôn nhân hạnh phúc được nhìn nhận dưới sự thoải mái, độc lập, tự do, tự quyết.

25

CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN

NHÂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chia tài sản chung của

vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

2.1.1. Quyền yêu cầu chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Theo từ điển luật học “quyền” được hiểu là những điều mà pháp luật

công nhận và bảo đảm thực hiện đối với các cá nhân, tổ chức. Nói cách khác

quyền là cái mà cá nhân, tổ chức được hưởng, được làm, được đòi hỏi và không

ai được ngăn cản, hạn chế. Quyền như định nghĩa trên được hiểu theo hàm ý

rộng, quyền được bảo hộ trong Hiến Pháp 2013 tại Khoản 1 Điều 14 ghi nhận

“Ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền

công dân về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo

vệ, đảm bảo theo Hiến pháp và pháp luật”. Như vậy, theo như Hiến Pháp ở

nước Việt Nam giá trị quyền con người được đề cao, nuôi dưỡng lấy sự phát

triển con người là mũi nhọn nhằm đẩy mạnh các hoạt động chính trị, kinh tế,

văn hóa, xã hội. Trong sự nhận thức cao về quyền con người cần chú trọng đến

lĩnh vực hôn nhân và gia đình, bởi hoạt động kinh tế mà gia đình tạo ra như

ngọn lửa thắp sáng đất nước, hình thành hôn nhân mới tạo nên một gia đình.

Trong một gia đình phải có sự kết nối giữa vợ, chồng khi đó những mối quan

hệ xoay quanh bắt đầu phát sinh, hiểu một cách cơ bản sẽ có hai mối quan hệ

luôn song song tồn tại nếu hôn nhân chưa chấm dứt là quan hệ nhân thân và

quan hệ tài sản.

Quan hệ tài sản vợ, chồng được ghi nhận cụ thể tại Luật Hôn nhân và gia

đình 2014, từ đó thấy được khi xảy ra tranh chấp vợ, chồng yếu tố vật chất hay

còn gọi là tài sản sẽ phát sinh đầu tiên. Điều 38 ghi nhận quyền yêu cầu chia tài

26

sản của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân, tại Khoản 1 khẳng định quyền được

thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung thuộc về vợ, chồng. Tài

sản chung là gì? Thì theo điều 105 BLDS 2015 quy định ( Tài sản được hiểu là

vật, tiền, giấy tờ có giá, tài sản o gồm cả bất động sản và động sản). Tuy nhiên,

để tài sản trở thành TSC phải đăng ký theo quy định tại Điều 34 nếu tài sản là

đất đai cần đăng ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong trường hợp một

số tài sản chỉ đứng tên vợ hoặc chồng thì quyền được yêu cầu đăng ký cấp đổi

lại giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất được thực hiện bởi cơ

quan nhà nước có thẩm quyền nhằm xác định tên cả vợ, chồng được đứng vào

tài sản chung vấn đề này quy định cụ thể tại Điều 12 Nghị định 126/2014/NĐ-

CP.

2.1.2. Mục đích chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Điều 29 Luật HN&GĐ 2000 nêu rõ khi hôn nhân vẫn tồn tại nếu đưa ra

được lý do chính đáng vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung. Theo đó

vợ, chồng có thể thỏa thuận chia tài sản để đầu tư kinh doanh, thực hiện nghĩa

vụ dân sự, những tài sản này được tạo ra do vợ chồng thu nhập do lao động,

các hoạt động sản xuất khác, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu

nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân. Ngoài điều kiện đảm bảo trên thì

loại trừ đi khoản 1 Điều 40 Luật HN&GĐ 2014 trong trường hợp khi tài sản đã

được chia đều cho vợ chồng là hoa lợi, lợi tức từ số tài sản chung đã chia sẽ

thành tài sản riêng của vợ chồng và ngoài ra còn có một số thỏa thuận khác.

Phần tài sản hai bên cam kết không chia thì vẫn là TSC.

- Chia tài sản để hạn chế hành vi phá tán tài sản.

Để hạn chế hành vi phá tán tài sản giữa vợ chồng nhằm mục đích vợ hoặc

chồng không thể thực hiện hành vi cất giấu tài sản bằng cách để ở nhiều địa

điểm hoặc chia, giao tài sản cho nhiều người khác nhau. Phá tán tài sản nhằm

27

trốn tránh việc vợ chồng thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa vụ phải thực

hiện đối với bên thụ hưởng. Đây là một lý do rất cơ bản để vợ chồng có thể

thực hiện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

- Giảm thiểu rủi ro kinh doanh đối với gia đình.

Kinh tế gia đình đóng vai trò quan trọng duy trì cuộc sống hôn nhân. Bởi

nếu không có đủ tiền bạc hôn nhân sẽ trở nên thiếu sức sống, không đảm bảo

chất lượng. Nhằm cải thiện, phục vụ nhu cầu sống vợ, chồng bắt đầu hình thành

các hoạt động kinh doanh như đầu tư cổ phiếu, buôn bán bất động sản, chứng

khoán, gửi tiết kiệm ngân hàng, vàng và ngoại tệ, tham gia bảo hiểm nhân thọ

những hình thức đầu tư trên có rất nhiều rủi ro.

- Mâu thuẫn tình cảm vợ, chồng do không tìm được tiếng nói chung.

Khi nam nữ xác lập quan hệ hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, tiến bộ, trở

thành vợ chồng hợp pháp của nhau lúc này, vợ chồng chung nhau chia sẻ phần

trách nhiệm về con cái, tiền bạc, đất đai,...đối nội, đối ngoại hai bên. Khi đó,

cuộc hôn nhân trở nên bộn bề, lo toan, áp lực. Mâu thuẫn giữa hai bên bắt đầu

hình thành, vợ chồng đưa ra giải pháp vẫn giữ quan hệ vợ, chồng không được

ly hôn để có tổ ấm quay về sau những giờ làm việc vất vả nhưng hai bên thỏa

thuận với nhau việc chia khối tài sản chung hai người tạo dựng để có thể tự do

sử dụng vào cuộc sống một cách chủ động không cần thông qua ý kiến vợ hoặc

chồng.

2.1.3. Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân

Vợ chồng đều có quyền đề xuất chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

nhưng việc chia phải có nguyên tắc và dựa trên những cơ sở nhất định. Và khi

giữa vợ chồng không đạt được mục đích thỏa thuận thì Tóa án sẽ đưa ra bản án

28

giải quyết những vấn đề tài sản cần chia. Từ đó, hình thành các trường hợp chia

tài sản chung.

Trường hợp chia tài sản theo thỏa thuận.

Khi áp dụng chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận thì vợ chồng cần

đáp ứng theo quy định Điều 15 Nghị định 126/2014/NĐ-CP. Đối với thỏa thuận

chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải được lập thành văn bản. Văn

bản phải đáp ứng quy trình công chứng theo quy định Điều 40 Luật Công chứng

2014. Hồ sơ yêu cầu công chứng cần chuẩn bị phải có phiếu yêu cầu công

chứng, trong phiếu có đầy đủ các thông tin cá nhân gồm họ tên, địa chỉ, nội

dung thỏa thuận công chứng, danh mục các giấy tờ kèm theo (giấy chứng minh

nhân dân, CCCD, sổ hộ khẩu, hộ chiếu có giá trị sử dụng, giấy chứng nhận

đăng ký kết hôn, tên tổ chức công chứng…; Dự thảo hợp đồng, giao dịch. Tổ

chức hành nghề công chứng khi tiếp nhận hồ sơ phải giải quyết cho người dân

không quá 02 ngày và nếu văn bản quá dài thì không quá 10 ngày làm việc.

Trên là những điều kiện cần khi vợ chồng yêu cầu công chứng văn bản thỏa

thuận pháp luật HN&GĐ, tuy nhiên pháp luật cũng nêu không phải trong mọi

trường hợp đều phải công chứng.

Tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 39 Luật HN&GĐ 2014 quy định thời điểm

thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực khi vợ, chồng thỏa thuận

chia tài sản chung thì thời điểm có hiệu lực là ngày được ghi trong văn bản và

nếu văn bản không ghi rõ ngày hai bên thỏa thuận có thể lấy ngày lập văn bản

làm căn cứ có hiệu lực của thỏa thuận. Ngoài ra, trong thỏa thuận vợ chồng về

chia tài sản chung theo quy định pháp luật cần tuân thủ một số hình thức nhất

định và hiệu lực văn bản được tính từ khi tuân thủ các hình thức pháp luật hiện

hành.

Trường hợp yêu cầu Tòa án giải quyết.

29

Hai bên vợ chồng không thể thỏa thuận với nhau về cách giải quyết tài

sản chung chia trong thời kỳ hôn nhân thì Tòa án đưa ra bản án giải quyết yêu

cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng căn cứ quy định tại

Điều 59 Luật HN&GĐ 2014. Tài sản vợ chồng theo luật định thì khi việc giải

quyết tài sản phải do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì theo

yêu cầu của một trong hai bên hoặc cả hai bên Tòa án sẽ giải quyết dựa trên

nguyên tắc chia đôi nhưng sẽ căn cứ vào một số các yếu tố về hoàn cảnh gia

đình, công sức đóng góp giữa vợ chồng vào việc tạo lập tài sản chung để duy

trì cuộc sống của gia đình. Bảo vệ lợi ích của các bên khi đang sử dụng tài sản

vào hoạt động sản xuất, kinh doanh được hiểu theo Điểm c Khoản 4 Thông tư

liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP. Việc chia tài sản chung

vợ, chồng tuyệt đối phải đảm bảo việc thực hiện kinh doanh vẫn diễn ra bình

thường, tuy nhiên nếu bên vợ hoặc chồng nhận phần kinh doanh thì phải thanh

toán phần giá trị tài sản chênh lệch cho bên còn lại. Khi bảo vệ lợi ích chính

đáng của hai bên vợ, chồng trong sản xuất, kinh doanh và các hoạt động nghề

nghiệp khác thì pháp luật có nêu rõ dù lâm vào tình trạng xấu đều không được

xâm phạm vào điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên,

con đã thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự [12]. Tài sản do vợ chồng

tạo ra có thể chia bằng hiện vật hoặc bằng tiền nếu bên này nhận tài sản thì phải

bồi hoàn số tiền lại cho bên kia bằng với giá trị của tài sản. Khẳng định Tòa án

đưa ra bản án có hiệu lực pháp luật giải quyết những yêu cầu tài sản vợ, chồng

đều phải nhìn nhận ở một góc độ thực tế đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp

cho vợ chồng.

2.1.4. Phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

a) Chia một phần tài sản chung

30

Theo cách hiểu chung nhất, phạm vi tài sản chung được chia (một phần

hay toàn bộ) sẽ do vợ chồng quyết định dựa trên nhu cầu, hoàn cảnh thực tế gia

đình. Nếu hai bên xác định tài sản đó chỉ cần chia một phần nhỏ để vợ hoặc

chồng tự mình quyết định mục đích sử dụng đối với tài sản được chia thì có thể

thỏa thuận thông qua văn bản.

Ngoài ra, trường hợp không thể thỏa thuận yêu cầu Tòa án chia tài sản

chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Khi đó áp dụng nguyên tắc giải

quyết tài sản tại Điều 59 Luật HN&GĐ 2014 và Thông tư liên tịch số

01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP.

b) Chia toàn bộ tài sản chung

Chia toàn bộ tài sản chung sẽ biến số tài sản đang từ sở hữu chung hợp

nhất thành tài sản riêng từng người chiếm hữu. Theo cách chia toàn bộ tài sản

chung vợ chồng có thể thỏa thuận chia đôi cho phù hợp.

Nguyên tắc chia đối với tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân quy định tại Khoản 2 Điều 59 Luật HN&GĐ 2014. Tài sản vợ, chồng chia

đôi dựa trên các yếu tố sau: Xét về mặt hoàn cảnh gia đình vợ, chồng khi chia

hai người có đang thực hiện nuôi dưỡng, chăm sóc, con cái hay bố mẹ già; Căn

cứ vào công sức đóng góp khi kết hôn bên vợ hay chồng có vốn trước đó từ

việc kinh doanh sau đó đem tiền đầu tư, mua đất, mua nhà, sử dụng đóng góp

duy trì phát triển sự hình thành khối tàn sản chung sau hôn nhân, đây là một

trong những nguyên tắc quan trọng nhất nếu việc chia TSC không thể thỏa

thuận. Cho dù vợ chồng lao động tạo ra ít hay nhiều tiền thì đều được xem là

thu nhập hợp lệ; Dù chia TSC theo hình thức như thế nào thì bảo vệ lợi ích

chính đáng của mỗi bên trong kinh doanh, sản xuất cần tuân thủ vì không có

hoạt động kinh tế sẽ không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Nhìn chung khi

chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là chia đôi và để đảm

31

bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thì khi giải quyết Tòa án cần căn cứ

vào Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP.

2.1.5. Hình thức và nội dung của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong

thời kỳ hôn nhân

Để văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân đảm bảo đầy đủ quy định về mặt hình thức và nội dung văn bản cần có

những yêu cầu sau:

Về hình thức: Thỏa thuận phân chia được lập thành văn bản. Văn bản

đúng quy định về thể thức trình bày. Đặc biệt, nếu vợ chồng có yêu cầu công

chứng phải đáp ứng theo quy định Luật Công chứng 2014.

Về nội dung: Tài sản chung vợ, chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất có

thể phân chia tuy nhiên nội dung phân chia tài sản sẽ vô hiệu theo Điều 42 Luật

HN&GĐ 2014. Gây ảnh hưởng lợi ích gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp con

chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có

khả năng lao động và không có tài sản riêng tự nuôi thân. Ngoài ra, trong nội

dung thỏa thuận thể hiện mục đích nhằm trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi

dưỡng, bồi thường thiệt hại, thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản, nghĩa

vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức, nghĩa vụ nộp thuế, nghĩa vụ tài chính khác đối

với Nhà nước; Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định Bộ luật dân sự và quy

định pháp luật có liên quan.

Như vậy, thể thức và nội dung văn bản là yếu tố rất quan trọng để văn

bản được cơ quan nhà nước cũng như tổ chức hành nghề công chứng xác thực

yêu cầu của vợ, chồng. Nếu văn bản vô hiệu về mặt nội dung như pháp luật

HN&GĐ quy định thì sẽ bị trả lại văn bản cũng như yêu cầu khởi kiện.

2.1.6. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

32

Hình thành quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ, chồng trong

thời kỳ hôn nhân thì đi song hành với đó là hậu quả pháp lý kèm theo, những

hậu quả pháp lý được quy định cụ thể tại Điều 40 Luật HN&GĐ 2014 và tại

Điều 14 Nghị định 126/2014/NĐ-CP.

Tài sản được chia trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài

sản vợ chồng theo quy định.

Chế độ tài sản vợ chồng được hiểu là quyền và nghĩa vụ bình đẳng với

nhau của vợ chồng đối với tài sản chung và riêng không phân biệt giữa lao động

trong gia đình và lao động thu nhập. Thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong

thời kỳ hôn nhân gồm có tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng sổ số; Tài sản vợ

chồng được xác lập với vật vô chủ, vật bị chôn giấu,...; Một số thu nhập hợp

pháp khác theo quy định của pháp luật.

Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ thời điểm chia tài sản chung của vợ chồng

có hiệu lực thì những gì phát sinh từ tài sản sau khi chia được xem là tài sản

riêng của vợ chồng.

Theo Điều 10 Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định hoa lợi phát sinh từ

tài sản riêng của vợ, chồng là những vật tự nhiên mà vợ chồng có được từ tài

sản riêng; Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng là những khoản lợi

mà vợ, chồng thu được từ việc khai thác tài sản riêng. Điều 33 Luật HN&GĐ

2014 cũng có quy định về tài sản chung của vợ chồng thì theo những gì diễn

giải của điều luật trên có thể hiểu hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của

mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng (trừ trường

hợp có thỏa thuận khác).

Tài sản có được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ chồng nếu không

xác định được đó là thu nhập do lao động, và các hoạt động khác thì thuộc sở

hữu chung của vợ chồng.

33

Khoản 3 Điều 33 quy định khi vợ, chồng không thể đưa ra được căn cứ

để chứng minh tài sản mà vợ chồng đang tranh chấp là chung hay riêng thì tài

sản đó được coi là TSC của vợ và chồng. Một số tài sản vợ, chồng có được là

vàng hay tiền trước khi kết hôn nhưng sau khi kết hôn số tiền, vàng đó bán đi

đem mua tài sản khác là xe máy, đất đai, cổ phiếu,...lúc chia vợ, chồng không

đưa ra được bằng chứng nguồn gốc số tiền có từ thời điểm nào thì Tòa án không

thể xác minh được tài sản có trong thời kỳ hôn nhân hay giai đoạn trước đó.

Cho nên, khi tiến hành phân chia việc xác định rõ nguồn gốc tài sản của hai

bên.

Thỏa thuận phân chia không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng

với bên thứ ba.

Bên thứ ba không phải là người trực tiếp tạo ra tài sản nhưng có mối

quan hệ liên quan đối với vợ, chồng. Chế độ tài sản vợ, chồng thỏa thuận được

áp dụng khi xác lập, thực hiện giao dịch có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho

người thứ ba biết về những thông tin liên quan, nếu vợ chồng vi phạm nghĩa vụ

thì bên thứ ba quy định tại (Bộ luật Dân sự 2015). Sự ràng buộc với bên thứ ba

là do vợ, chồng khi làm ăn, kinh doanh, mua bán đã vay, mượn tài sản là tiền

hoặc một số vật có giá trị ngang tiền mà chưa thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán

và trả nợ luôn cho bên thứ ba, thì khi đó vợ chồng vẫn phải hoàn thành nghĩa

vụ tră nợ.

2.1.7. Chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong

thời kỳ hôn nhân

Việc chấm dứt hiệu lực chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ

hôn nhân quy định cụ thể tại Điều 41 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:

Quyền thỏa thuận chấm dứt hiệu lực.

34

Pháp luật cho phép sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ

hôn nhân thì vợ chồng có quyền thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài

sản chung. Thực hiện thỏa thuận phải được lập thành văn bản theo quy định tại

Khoản 2 Điều 38 khi thỏa thuận chấm dứt có hiệu lực thì việc xác định tài sản

chung và riêng được thực hiện như sau: Tài sản chung gồm những gì hai vợ

chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được thừa kế hoặc tặng cho mà vợ

chồng thỏa thuận là tài sản chung, quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được khi

kết hôn. Để đảm bảo nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung cùng chăm

sóc, xây dựng, vun vén gia đình hạnh phúc. Đối với tài sản riêng tài sản này

được hiểu là những tài sản vợ chồng có trước khi hôn nhân, những tài sản được

thừa kế, tặng cho riêng vợ hoặc chồng. Ngoài ra, những tài sản theo quy định

tại Khoản 2 Điều 43 Luật HN&GĐ 2014 tài sản hình thành từ những tài sản

riêng của vợ chồng cũng là tài sản riêng, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản

riêng trong thời kỳ hôn nhân.

Quyền, nghĩa vụ tài sản phát sinh trước thời điểm chấm dứt hiệu lực.

Sau khi vợ chồng đưa ra quyết định chấm dứt hiệu lực chia tài sản chung

của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân những tài sản phát sinh trước thời điểm

chấm dứt việc chia tài sản chung vẫn có hiệu lực của pháp luật, trừ những

trường hợp hai vợ chồng đưa ra thỏa thuận khác.

Công nhận chấm dứt hiệu lực của Tòa án.

Việc tuyên bố chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân

do Tòa án ra quyết định có hiệu lực cuối cùng. Vì vậy, việc công nhận chấm

dứt hiệu lực pháp luật về chia tài sản chung cũng phải do Tòa án cấp có thẩm

quyền đưa ra quyết định, khi đó mới có căn cứ xác định thời điểm chấm dứt

hiệu lực xảy ra khi nào. Để khi hôn nhân tan vỡ vợ, chồng yêu cầu tòa án giải

quyết về phần chia tài sản của vợ chồng sau khi ly hôn cũng có cơ sở chia tài

sản đúng quy định pháp luật.

35

2.1.8. Vô hiệu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Tại Điều 42 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định hai trường hợp

việc chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân sẽ vô hiệu khi vi phạm nội dung cấm

sau:

Thứ nhất, văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời

kỳ hôn nhân gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình, quyền, lợi

ích hợp pháp của các con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành

vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi chình

bản thân.

Thứ hai, văn bản thỏa thuận của vợ, chồng nhằm trốn tránh thực hiện các

nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; nghĩa vụ thanh

toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản; nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức; nghĩa

vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước. Ngoài ra, còn trốn

tránh một số nghĩa vụ khác về tài sản của BLDS và quy định của pháp luật có

liên quan.

Như vậy, trong những trường hợp vi phạm điều cấm trong quá trình chia

tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đã nêu trên vợ, chồng sẽ

không được thực hiện việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, nếu vi

phạm sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật.

2.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về chia tài sản chung của

vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

2.2.1. Thực tiễn giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời

kỳ hôn nhân

Bảng 1.1: Bản án yêu cầu giải quyết chia tài sản chung của vợ, chồng

trong thời kỳ hôn nhân.

36

Số Tên Ngày Cấp xét xử

TT

1 Bản án 20/2018/HNGĐ-ST 27/09/2018 Sơ Thẩm

2 Bản án 07/2018/HNGĐ-PT 11/01/2018 Phúc Thẩm

3 Bản án 21/2020/HNGĐ-PT 31/07/2020 Phúc Thẩm

4 Bản án 08/2019/HNGĐ-PT 07/03/2019 Phúc Thẩm

a) Bản án 1

Nguyên đơn: Ông Quách Văn C, sinh năm 1962; Bị đơn: Bà Lữ Thị Kim

D, sinh năm 1965.

Tóm tắt và đánh giá bản án: Ông C và bà D xác lập hôn nhân thực tế vào

năm 1982, và đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn C. Quá trình chung sống ông

D và bà C có tạo lập được tài sản chung là 700.000.000 đồng, số tiền làm ra vợ

chồng gửi tiết kiệm tại ngân hàng C, đứng tên số tài khoản 21891xxxxx của bà

D. Và ngay tại bản án trong quá trình làm ăn sinh sống ông C và bà D có vay

số tiền 30.000USD của bà Lữ Thị Kiều T để mua căn nhà phục vụ cho hoạt

động kinh doanh. Tuy nhiên, số tiền bà T cho vay cũng khá lâu và chưa thấy

ông C và bà D chủ động trả nên ngày 25/7/2016 bà T khởi kiện lên Tòa án nhân

dân tỉnh Trà Vinh, yêu cầu vợ, chồng ông C, bà D trả số tiền nợ 30.000 USD.

Sau khi tiếp nhận đơn Tóa án đã áp dụng biện pháp khẩn cấp cho phong tỏa số

tài khoản ngân hàng của bà D. Bản án sơ thẩm số 03/2017/DS-ST đã đồng ý

một phần yêu cầu khởi kiện của bà T và buộc bà D trả số tiền nợ 30.000USD

37

cho bà T. Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện bị đơn

và chia đều mỗi người 350.000.000 đồng. Sau khi xem xét, nghiên cứu hồ sơ,

tài liệu của các nguyên đơn dân sự cung cấp thì Tòa án không chấp nhận đơn

khởi kiện của ông C.

b) Bản án 2

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1950; Bị đơn: Ông Nguyễn

Văn R, sinh năm 1950.

Tóm tắt nội dung và đánh giá vụ án: Bà Đ và ông R xuất phát từ tình cảm

đơn thuần nam, nữ, sau một thời gian tìm hiểu thì năm 1969 hai người quyết

định kết hôn và đăng ký tại UBND xã T năm 1996. Cưới nhau xong thì hai vợ

chồng sống cùng mẹ ruột ông R đến năm 1987 tại ấp T, khi chung sống do bà

Đ và ông R chủ động chăm sóc, phụng dưỡng mẹ nên được mẹ chồng tặng cho

chung hai vợ, chồng các thửa đất 2831,2839 và 2840, tờ bản đồ số 1. Thửa đất

số 3585, tờ bản đồ số 1, tổng S=1.645.8m2 là tài sản riêng của ông R, được mẹ

đẻ khi còn sống cho ông vào năm 2011-2012. Đến năm 2014, ông đi kê khai số

tài sản của ông đang có và được Phòng tài nguyên và môi trường cấp giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần đất được cho riêng ông R đem bán cho bà

M một phần đã sang tên, còn một phần ông bán cho bà T2 và ông P, khi bán

ông chưa kịp làm thủ tục chuyển nhượng cho ông bà T2 và P vì bà Đ tranh

chấp. Năm 1997 các thửa đất được cho trước đó ông R đã có giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất do ông thay mặt chủ hộ đứng tên. Thời gian chung sống do

có nhiều bất đồng, mâu thuẫn nên ông R hay xuống tay đánh đập bà Đ, do

không chịu được cảnh khổ cực như vậy nên bà Đ đã sang ở với các con. Hai

vợ, chồng đã ly thân từ năm 1987. Trong đơn khởi kiện nguyên đơn gửi Tòa án

có nêu thửa đất 3585 là tài sản chung của bà và ông R do được tặng cho chung

thực tế bà không quản lý, tại đơn bà yều cầu chia cho bà S822,9m2 thửa đất

38

trên, những phần đất còn lại ông R đã bán cho bà M và bà T2 thì bà Đ không

cần chia cho bà.

Sau khi nhận đơn và thụ lý đơn khởi kiện, Tòa đã tiến hành cho hai bên

hòa giải bị đơn không đồng ý chia tài sản theo yêu cầu của nguyên đơn vì ông

bảo đây là tài sản mẹ đẻ ông cho riêng ông. Qua quá trình tiếp nhận một thời

gian do thấy những gì mà nguyên đơn dân sự cung cấp tài liệu cũng như chứng

cứ kèm theo chứng minh phần đất thuộc về bà Đ thì cấp Tòa án sơ thẩm thấy

chưa hợp lý nên tuyên xử bác yêu cầu khởi kiện của bà Đ và đình chỉ yêu cầu

khởi tố của ông R. Nhận được kết quả xét xử vụ án sơ thẩm bà Đ thấy những

lý lẽ của tòa án chưa thật sự thuyết phục vì vậy, ngày 10/10/2017 bà Đ kháng

cáo nội dung bản án lên cấp phúc thẩm giải quyết. Tuy nhiên những tài liệu bà

Đ cung cấp cho Tòa án cấp phúc thẩm, chưa thể chứng minh phần đất đó là mẹ

ông cho chung hai vợ, chồng nên tại phiên tòa thẩm phán tuyên bố không chấp

nhận yêu cầu kháng cáo của bà Đ và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

c) Bản án 3

Nguyên đơn: Chị Phan Thị Tr, sinh năm 1981; Bị đơn: Anh Ngũ Hồng H

sinh năm 1964.

Tóm tắt nội dung và đánh giá bản án: Chị Tr và anh H kết hôn với nhau ngày

9/4/2012, đăng ký kết hôn tại UBND xã D. Khi về chung một nhà chung sống

được một thời gian ngắn hai bên đã phát sinh những mâu thuẫn và vợ, chồng

ly thân từ tháng 01/2016. Trong TKHN vợ chồng có gây dựng được một số tài

sản phục vụ cho cuộc sống hôn nhân là (01 căn nhà cấp 4 xây năm 2012, hai

thửa đất số 1371, số 789), tổng giá trị tài sản vợ, chồng có là 1.042.600.000

đồng. Quá trình làm ăn gây dựng tài sản, ngày 01/2/2012 anh H có vay của anh

Th số tiền 650.000.000 đồng để vợ, chồng mua đất và sau một thời gian thì anh

H đã đem 200.000.000 đồng trả cho anh Th và còn nợ lại 450.000.000 đồng.

39

Được một thời gian sau anh H lại tiếp tục sang vay 400.000.000 đồng, tổng số

tiền anh H vay anh Th là 850.000.000 đồng.

Tại đơn khởi kiện chị Tr có nêu sau khi ly thân anh H không cho chị vào

nhà và còn khóa trái cửa, nên chị viết đơn mong tòa án chia TSC trong TKHN

số tài sản anh, chị làm ra để hai mẹ con ổn định cuộc sống, trong đơn chị có

đưa ý kiến chia cho chị phần đất thửa đất số 1371, còn cho anh H thửa đất 901

và tài sản trên đất có giá trị nhiều hơn. Cuối cùng, tại phiên tòa sơ thẩm tuyên

chia có chị Tr sử dụng thửa 1371 và thửa 789, giao anh H thửa số 901. Sau khi

nhận được quyết định của Tòa án anh H thấy hợp lý nên anh đã làm đơn kháng

cáo gửi lên Tòa án phúc thẩm. Cấp phúc thẩm đã đồng ý một phần nội dung

đơn kháng cáo của anh H và đã mở phiên tòa xét xử lại.

d) Bản án 4

Nguyên đơn: Nguyễn Thị M (Nguyễn Thị L), sinh năm 1943; Bị đơn: Phạm

Văn C, sinh năm 1941.

Tóm tắt nội dung và đánh giá vụ án: Cụ M với cụ C sống chung với nhau từ

năm 1963, hai người ở thời kỳ này đã tạo lập hôn nhân thực tế được pháp luật

công nhận. Quá trình chung sống vợ, chồng tạo lập được tài sản chung là 03

phần đất thuộc thửa 356 tại xã T gồm những tài sản (cụ M được cha,mẹ là cụ

Q, cụ L thừa kế 4.000m2; Cụ C và M mua 4.203m2 và có căn nhà trị giá

200.000.000 đồng; hai cụ M và C mua 4.000m2 cặp lộ 864. Sau thời gian chung

sống cụ M làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án chia đôi tài sản. Bị đơn, ông C có

nêu về những phần đất hai vợ, chồng làm ra và được thừa kế phần đất 4.000m2

là đất do mẹ vợ của cụ C cầm cố cho cụ C1, còn phần đất 2.000m2 khi gả con

gái đã được bên nhà chồng cho 1.000m2 đất, sau đó cụ C, M đã bán đất đi và

góp tiền mua thêm 4.000m2. Còn căn nhà hai vợ, chồng mua cụ C không đồng

ý chia ½ giá trị như cụ M yêu cầu, cụ C muốn chia cho cụ M 1/3 diện tích đất

và căn nhà. Sau một thời gian tiếp nhận đơn khởi kiện, thì ngày 11/10/2018 Tòa

40

án Tiền Giang mở phiên xét xử sơ thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện

của cụ M, chia cho cụ M diện tích 1.300,6m2. Cụ C và bà L được nhận tổng

10.699,9m2. Tuy nhiên, khi tiếp nhận quyết định sơ thẩm của Tòa án do chưa

thấy phần tài sản được chia đảm bảo quyền lợi được hưởng nên cụ M đã làm

đơn kháng cáo lên Tòa án cấp phúc thẩm yêu cầu giải quyết, tại đây căn cứ vào

những tài liệu nguyên đơn dân sự cung cấp Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận

đơn khởi kiện của cụ M và hủy đi một số quyết định mà cấp sơ thẩm đã xét xử.

Tóm lại, các bản án trên đã phản ánh thực tế diễn ra việc áp dụng pháp

luật của Tòa án trong giải quyết các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Qua

những gì nguyên đơn và bị đơn trình bày Tòa án các cấp xét xử bám sát vào nội

dung trình bày vụ việc đưa ra bản án cuối cùng giải quyết yêu cầu của các bên

về chia tài sản chung của vợ chồng trong TKHN. Việc Tòa án giải quyết nhiều

vụ án nêu trên cũng phản ánh được thực tế nhu cầu cần chia tài sản chung của

vợ chồng trong hôn nhân ngày càng nhiều và tăng cao, đòi hỏi Nhà nước, các

cấp Đảng cần chú trọng hoàn thiện các quy định pháp luật nói chung và luật

Hôn nhân và gia đình nói riêng.

2.2.2. Hạn chế quy định pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ chồng

trong thời kỳ hôn nhân

Xét ở góc độ quan hệ pháp luật hay quan hệ xã hội, gia đình đều có một

sự kết nối nhất định, trong gia đình được điều chỉnh không thể tách bạch hoàn

toàn về phương diện xử lý các tranh chấp. Luật HN&GĐ 2014 đã thừa nhận

chế độ tài sản vợ chồng đa nguồn và đa hướng. Việc xác lập nền tảng Luật này

cũng có quy định về trường hợp có thể xảy ra trong đời sống vợ chồng-trường

hợp vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ

hôn nhân để tài sản khi chia trở thành tài sản riêng của vợ, chồng. Đây là một

sự tiến bộ vượt bậc đáp ứng nhu cầu xã hội, hiện đại, văn minh, trong đó đề cao

41

lợi ích chung của gia đình và giải phóng được người phụ nữ. Tuy nhiên, vấn đề

quy định này vẫn tồn tại một số bất cập.

Một là, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 chưa xét tới những đặc thù của

hợp đồng chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, cũng như

tính hệ thống pháp lý trong những tranh chấp hợp đồng. Hiện nay, khi nói tới

hiệu lực hợp đồng chỉ mới đề cập đến điều kiện, thời điểm có hiệu lực của hợp

đồng và hợp đồng vô hiệu, mà hạn chế nói tới nội dung hiệu lực hợp đồng. Về

nguyên tắc, hợp đồng chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

chỉ có hiệu lực khi hôn nhân có hiệu lực, như vậy hợp đồng trong thời kỳ hôn

nhân có hiệu lực phụ thuộc. Hợp đồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn

nhân thiếu sự gắn kết với các quy định về hợp đồng trong BLDS 2015, làm

thiếu đi tính hệ thống trong văn bản quy phạm pháp luật, hơn nữa Luật HN&GĐ

thiếu nhiều quy định liên quan tới sự vô hiệu của hợp đồng, nội dung hiệu lực

hợp đồng.

Hai là, thiếu sót việc xây dựng chế định ly thân làm ảnh hưởng trực tiếp

đến chế định hợp đồng trong thời kỳ hôn nhân không được quy định cụ thể tại

Luật HN&GĐ. Cũng chính vì vậy mà mục đích tồn tại của hợp đồng chia tài

sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân còn nhiều hạn chế. Thỏa thuận

CTS có thể hiểu là một giao dịch dân sự, các bên khi được trao quyền phải thực

hiện các nghĩa vụ còn lại sau khi phần tài sản giao dịch thuộc về bản thân.

Ba là, pháp luật Hôn nhân và gia đình cụ thể tại Tại Điều 38 và Nghị

định 126/2014/NĐ-CP chưa phân biệt rõ ràng thỏa thuận chia tài sản chung của

vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân với thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng

khi ly hôn. Hai giai đoạn này có sự khác nhau tuy nhiên, việc chưa làm rõ ý chí

thể hiện chia tài sản trong khi thời kỳ hôn nhân chưa chấm dứt như thế nào cho

phù hợp thì pháp luật chưa nêu được, không tách bạch ra khi áp dụng. Khi tiến

42

tới ly hôn là vợ, chồng xác định chấm dứt các mối quan hệ hình thành trong

thời kỳ hôn nhân.

Pháp luật tồn tại và đưa vào thực tế áp dụng khi đó mới bộc lộ ra nhiều

hạn chế, thiếu sót. Nhà nước giao quyền lập pháp cho Quốc hội, thay mặt nhà

nước xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật từ lớn đến bé như Hiến Pháp,

Luật, Nghị định, Nghị quyết, Thông tư, Thông tư liên tịch. Tuy nhiên, góc độ

tiếp cận và nhìn nhận thực tế chưa sâu tại Luật HN&GĐ 2014 bản chất đã nhìn

ra đúng những gì mối quan hệ hôn nhân và gia đình cần nhưng ban hành chưa

khép kín, lồng nội dung chưa sát như một vấn đề chưa sâu cần nhìn nhận và

hoàn thiện “Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân”. Quy định này được

ban hành trước đó khá lâu, tuy nhiên đất nước phát triển theo xu hướng đi lên

hôn nhân cần nhiều thứ hơn để vợ, chồng hạnh phúc và khẳng định quyền tự

do.

2.2.3. Ưu điểm của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân

Từ khi đưa quy định pháp luật về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn

nhân năm 1986 đến nay bên cạnh những hạn chế thì vẫn có một số ưu điểm

nhất định. Luật hôn nhân gia đình đã phát triển rất nhanh từ văn bản 1986 còn

sơ khai, đến nay văn bản 2014 quy định đầy đủ, thông qua những vụ việc đã

giải quyết thực tế của Tòa án và có một điểm mới đáng ghi nhận việc tự thỏa

thuận chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân đã góp phần làm

giảm áp lực và số vụ việc giải quyết của các cấp Tòa án.

2.2.4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về việc

chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

2.2.4.1. Hoàn thiện pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời

kỳ hôn nhân

43

Việt Nam định hướng xây dựng nên kinh tế thị trường, xã hội đã có

những thay đổi đòi hỏi chế độ hôn sản thích hợp thừa nhận chế độ tài sản chung,

tài sản riêng vợ, chồng. Bản thân các quan hệ gia đình thay đổi rất nhiều tác

động trực tiếp đến xã hội làm ảnh hưởng tới lĩnh vực hôn nhân và gia đình.

Trong cuốn sách nói về khát vọng Việt Nam đến năm 2035 biên soạn bởi Ngân

hàng Thế giới và Bộ kế hoạch-Đầu tư xác định: “Một xã hội hiện đại, sáng tạo

dân chủ với vai trò làm động lực thúc đẩy phát triển trong tương lai”[24]. Việc

hoàn thiện pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

sẽ nhằm củng cố cho một xã hội hiện đại là thật sự cần thiết.

Một là, cần gắn gia đình với xã hội và sự phát triển xã hội bằng sự ổn

định, định hướng pháp lý phải nghiên cứu thấu đáo về mặt pháp lý, bằng biện

pháp đảm bảo để không ảnh hưởng đến sự ổn định của gia đình. Hệ thống pháp

luật phải chú ý đến đặc thù, định hướng mối liên hệ giữa luật chung và luật

chuyên ngành xây dựng các quy định trên nền tảng chung nhưng đảm bảo tính

đặc thù của hợp đồng chia TSC của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Hợp đồng

được xác định là chế định của Luật Hôn nhân và gia đình, tuy nhiên, đó không

phải là một ngành luật độc lập nền tảng là Bộ luật dân sự, vì vậy khi hoàn thiện

pháp luật về hợp đồng chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

không được trái BLDS 2015, Luật Doanh Nghiệp 2020. Tại Điều 38 Luật

HN&GĐ 2014 không sử dụng thuật ngữ “hợp đồng chia TSC của vợ chồng

trong TKHN” mà chỉ khẳng định vợ chồng có quyền thỏa thuận. Thỏa thuận ở

đây được xem như là hợp đồng bởi nó là sự thống nhất ý chí giữa các bên nhằm

phát sinh, thay đổi chấm dứt QHTS ở một mức độ nào đó của vợ, chồng cũng

như những người có liên quan (nếu có). Vậy nên, kiến nghị bổ sung định nghĩa

hợp đồng trong TKHN là phù hợp. Khi định nghĩa này được bổ sung thì pháp

luật cũng phải quy định đặc điểm của loại hợp đồng.

44

Hai là, Việt Nam chưa đưa ra được một khái niệm cụ thể như thế nào là

ly thân, do vậy, pháp luật không thừa nhận vợ, chồng ly thân và trong thời gian

“ly thân” theo thực tế diễn ra của một số cặp vợ chồng vẫn được coi là thời kỳ

hôn nhân. Tại dự thảo Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi) trình Quốc Hội đã

đề xuất một quy định về ly thân được hiểu là không làm chấm dứt quan hệ hôn

nhân, về mặt pháp lý họ vẫn là vợ chồng đây là giải pháp cần thiết để giải quyết

xung đột trong thời kỳ hôn nhân, đây là khoảng thời gian cần thiết để vợ chồng

suy nghĩ về quyết định với hy vọng cứu vãn được cuộc sống hôn nhân. Để đảm

bảo tính minh bạch vợ, chồng khi tham gia quan hệ xã hội và thuận lợi hợp

pháp cho công tác giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa vợ chồng, Tòa án là

cơ quan phù hợp nhất thực hiện công nhận ly thân. Quyền ly thân, gắn liền với

vợ chồng vậy nên quyền yêu cầu ly thân thuộc về vợ, chồng. Như vậy, đưa ra

khái niệm ly thân đầy đủ đây là giai đoạn giao giữa ly hôn, quy định này sẽ đảm

bảo tài sản nếu vợ, chồng chia trong thời kỳ hôn nhân phù hợp công sức đóng

góp của vợ, chồng.

Ba là, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đưa ra quy định chia tài sản chung

của vợ chồng trong TKHN chưa tách bạch được nguyên tắc giải quyết tài sản

của vợ chồng khi ly hôn và nguyên tắc phân chia tài sản vợ, chồng trong thời

kỳ hôn nhân cụ thể tại Điều 59 Luật HN&GĐ 2014. Quy định này đang còn

mang tính chất chung, bởi chế định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

là một chế định có ý nghĩa mang tính tự do và chủ động cho vợ, chồng trong

việc tổ chức cuộc sống gia đình. Thông qua, thỏa thuận và các nguyên tắc rõ

ràng, chính xác trong việc định khối tài sản chung-riêng mà còn giúp xây dựng

nguyên tắc xác định quyền sở hữu đối với tài sản hình thành trong tương lai.

Việc chia tài sản hình thành trong hôn nhân này sẽ tác động đến gia đình và chủ

thể thứ ba. Vậy nên, bổ sung thêm một quy định cụ thể về nguyên tắc chia tài

sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ tạo nên sự cởi mở và vừa

45

tạo nên khuôn khổ hợp lý là điều vô cùng cần thiết, góp phần vào nhận thức

của vợ, chồng trong vấn đề phân định tài sản chung trong hôn nhân.

2.2.4.2. Những lưu ý khi giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng trong thời

kỳ hôn nhân

Quá trình giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân không tránh khỏi những vấn đề khó khăn trong việc xác định đúng tài sản

đó là chung hay riêng, bên vợ hay chồng được đề xuất chia trước. Đây là những

gì cần lưu ý cũng như rút kinh nghiệm khi tiếp cận giải quyết yêu cầu của công

dân.

Xác định đúng các loại tài sản chung của vợ, chồng

Tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được quy định cụ

thể tại Điều 33, Luật HN&GĐ 2014 đây là cơ sở xác định tài sản chung là

những gì vợ chồng tạo lập được sau khi kết hôn, ngoài ra còn có tài sản được

thừa kế, tặng cho riêng như đất đai, xe cộ,...Điều 43 Luật HN&GĐ 2014 quy

định tài sản riêng là số tài sản vợ chồng tạo ra trước khi kết hôn, tài sản được

thừa kế tặng cho riêng và các tài sản được chia riêng theo Điều 38, 39 và Điều

40.

Yêu cầu chia tài sản chung của vợ, chồng khi nào thì phù hợp

Vợ, chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

thông qua hai trường hợp là thỏa thuận và yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với

trường hợp thỏa thuận phân chia phải được lập thành văn bản bắt buộc phải

công chứng theo quy định pháp luật cần đảm bảo đầy đủ các giấy tờ tùy thân

và các phiếu, đơn đúng quy trình Luật Công chứng 2014. Bên giải quyết thỏa

thuận phải tuân thủ đúng ngày trả văn bản cho vợ, chồng. Còn đối với trường

hợp không thể thỏa thuận mà cần đến Tòa án ban hành bản án cuối cùng giải

46

quyết yêu cầu phân chia của vợ, chồng thì Tòa án phải căn cứ đúng quy định

pháp luật phân chia tài sản phù hợp.

Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung

Thời điểm có hiệu lực của văn bản thỏa thuận hay quyết định Tòa án về

chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là căn cứ xác định tài

sản sau khi đã chia sẽ mặc định trở thành tài sản riêng của vợ, chồng trong khi

vẫn duy trì quan hệ hôn nhân. Vì vậy, việc xác định đúng hiệu lực là rất quan

trọng.

2.2.4.3. Một số biện pháp nhằm đảm bảo hiệu quả chia tài sản chung của vợ

chồng trong thời kỳ hôn nhân

Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đã có tác động không nhỏ đến đời

sống xã hội, con người. Độ tiếp cận khoa học, công nghệ của người dân càng

tăng cao, vì vậy kinh tế đất nước ngày càng thịnh vượng. Kinh tế phát triển hơn,

tư duy con người cao lên điều này kéo theo pháp luật cần hoàn thiện để điều

chỉnh các mối quan hệ xã hội cho phù hợp. Khi đất nước đổi mới Nhà nước

cần chú trọng lĩnh vực hôn nhân và gia đình, các quyền cơ bản của vợ, chồng

trong mối quan hệ hôn nhân (quyền kết hôn, quyền yêu cầu thỏa thuận chia tài

sản chung của vợ, chồng, quyền khởi kiện ly hôn, quyền được Tòa án xem xét

sự công bằng, bình đẳng trong chế định phân chia tài sản,...) việc pháp luật ghi

nhận đã thật sự tân tiến với sự phát triển chung. Pháp luật đã nhìn nhận và đánh

giá đúng bản chất hôn nhân và gia đình có một tầm quan trọng đối với sự đi lên

của đất nước.

Thứ nhất: Hoàn thiện quy định về phương thức chia tài sản chung của

vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, pháp luật hôn nhân và gia đình đề cao sự tự

nguyện thỏa thuận giữa vợ, chồng về khối tài sản chung. Tuy nhiên tại Điều 38

Luật HN&GĐ 2014 chưa thể phân định cụ thể chia một phần tài sản và toàn

47

bộ. Vì vậy, pháp luật cũng cần có quy định rõ ràng để đảm bảo quá trình giải

quyết việc phân chia tài sản chung vợ, chồng được triển khai nhanh. Cho nên,

dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình tiếp theo cần chỉ rõ thế nào là chia một phần

tài sản chung và như thế nào là chia toàn bộ tài sản chung. Quy định này vẫn

mang tính chất chung và chiếu sang nghị định hướng dẫn thi hành Luật

HN&GĐ 2014 cũng không quy đinh rõ ràng trên.

Thứ hai: Hoàn thiện quy định pháp luật về chấm dứt hiệu lực của việc

chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đào tạo đội ngũ cán

bộ, công chức, viên chức thực hiện nhiệm vụ công chứng văn bản thỏa thuận

chuyên nghiệp. Pháp luật quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của

vợ chồng có thể công chứng, chứng thực hoặc không công chứng, tuy nhiên

nếu bên vợ hoặc chồng yêu cầu để có cơ quan pháp lý chứng nhận cho sự thỏa

thuận của vợ, chồng. Quá trình tiếp nhận giải quyết những văn bản thỏa thuận

đòi hỏi đội ngũ cán bộ và các đơn vị tư nhân hành nghề công chứng phải có

kiến thức chuyên môn, chuyên nghiệp, tránh tình trạng lề mề, làm khó người

dân đến giải quyết. Văn bản khi tiến hành công chứng xong phải trả đúng ngày

quy định của pháp luật.

Thứ ba: Đảm bảo thực hiện hiệu quả trong thực tiễn giải quyết vụ việc

của các cấp xét xử Tòa án. Chú trọng việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật

đúng với nội dung vụ án, Tòa án chịu trách nhiệm thực hiện quyền tư pháp là

quyền bảo vệ pháp luật, thông qua Tòa án các văn bản pháp luật được áp dụng

xét xử về hôn nhân và gia đình được sử dụng vào các vụ án thực tế, đảm bảo

quyền và lợi ích hợp giữa vợ và chồng. Khi có đơn yêu cầu khởi kiện trường

hợp cấp sơ thẩm giải quyết vụ án chưa phù hợp với yêu cầu của nguyên đơn về

việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, khi có đơn

kháng cáo lên cấp phúc thẩm. Cấp phúc thẩm cần tiến hành nghiên cứu lại hồ

sơ vụ án, đảm bảo những quyền lợi của bên khởi kiện được giải quyết dựa trên

48

tình thần trách nhiệm của các cơ quan thực thi pháp luật công khai, minh bạch,

đúng chức trách.

Thứ tư: Phát huy tính tích cực trong công tác kiểm tra, thanh tra giám

sát hoạt động giải quyết yều cầu thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ,

chồng trong thời kỳ hôn nhân hiệu quả cần có sự tham gia của Nhà nước. Để

quá trình giải quyết yêu cầu của vợ, chồng được giải quyết nhanh chóng, không

nhũng nhiễu, hạch sách tiến hành kiểm tra công tác thực hiện thuộc về trách

nhiệm của cơ quan thanh tra. Qua công tác này mới phát hiện pháp luật đã đi

vào cuộc sống như thế nào, để mặt tích cực thì giữ lại, mặt hạn chế thì cải thiện

sau.

Như vậy, những giải pháp đưa ra trên đây không làm mất đi giá trị

nguyên bản của Điều luật nghiên cứu, mà làm cho pháp luật HN&GĐ hoàn

thiện hơn.

49

Tiểu kết chương II

Công nhận quyền con người, quyền công dân đảm bảo cho người dân có

cuộc sống ổn đinh, ấm no, hạnh phúc. Pháp luật Việt Nam nhìn nhận đất nước

phát triển phần lớn dựa vào công sức đóng góp của nhân dân dưới sự lãnh đạo

của Đảng và Nhà nước, trong sự đóng góp đó phải kể đến cá nhân, tổ chức, gia

đình,.…những chủ thể tạo nên các giá trị nhất định cho xã hội. Gắn kết gia đình

bảo đảm quyền lợi, phần lớn phụ thuộc vào chính sách pháp luật. Chú trọng đổi

mới pháp luật, kế thừa các giá trị tiến bộ của văn bản pháp luật trước đó tạo sự

hợp hiến, hợp pháp của các văn bản sửa đổi sau này là nhiệm vụ cấp thiết. Nền

tảng pháp luật đổi mới đó phải ghi nhận một chế định “Chia tài sản chung của

vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”. Hôn nhân là điểm kết thúc cho tình yêu đôi

lứa nhưng là điểm khởi đầu cho một cuộc sống hạnh phúc. Như vậy, mục 2.1

đã khái quát đầy đủ nội dung quy định pháp luật, từ quyền được yêu cầu, lý do

phương thức thực hiện, các trường hợp tồn tại, thời điểm bắt đầu có hiệu lực

khi thỏa thuận, hậu quả xảy ra, chấm dứt hiệu lực.

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng

toàn dân và Nhà nước. Mục 2.2 kết thúc chỉ ra được những vụ án thực tế Tòa

án đã giải quyết được về vấn đề chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ

hôn nhân. Thiết nghĩ vấn đề chia tài sản chỉ được giải quyết khi vợ chồng đưa

ra quyết định ly hôn, nhưng hiện nay dưới sự bao quát thực tế pháp luật đã đưa

ra chế tài giải quyết chia tài sản chung ngay trong mối quan hệ hôn nhận chưa

chấm dứt. Đây là góc nhìn tân tiến, cởi mở, chia tài sản trong giai đoạn này

không làm mất đi hạnh phúc gia đình mà còn làm tăng sự tin tưởng lẫn nhau.

Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật cũng như việc pháp luật HN&GĐ quy định

vẫn chưa thật sự rõ ràng nên bộc lộ một số hạn chế nhất định, dễ dẫn tới việc

nhầm lẫn khi sử dụng luật. Từ những thiếu sót, khe hở nhằm mục đích thượng

tôn pháp luật, các kiến nghị giải pháp lần lượt ra đời đóng góp ý kiến vào việc

50

xây dựng quan hệ xã hội lành mạnh. Pháp huy hết chức trách, nhiệm vụ giao

phó của các cấp Đảng ủy, Nhà nước ta hiện nay.

51

KẾT LUẬN

Hôn nhân và gia đình thuật ngữ nghe gần gũi, êm đềm trong cuộc sống

mỗi con người, “hôn nhân” được ví như khởi đầu một hành trình tốt đẹp. Hiện

nay, nhận thức về hôn nhân và các mối quan hệ hình thành khi nam, nữ kết hôn

đã có sự thay đổi, trước kia ông, bà ta gắn hôn nhân là cùng nhau quản lý tài

sản làm ra, tìm cách chăm sóc, nuôi dưỡng bố, mẹ, con cái,.... tạo dựng mái ấm

gia đình đầy sự ấm áp, yêu thương bao hi sinh vất vả của vợ, chồng cùng cầm

tay nhau đi qua. Nhưng đất nước phát triển thế giới quan của vợ, chồng có cách

nhìn khác đi, góc nhìn này không làm biến chất hạnh phúc gia đình mà đã tạo

ra sự cởi mở, tự do trong hôn nhân. Sự thay đổi này cần lưu tâm đến chế độ tài

sản, tài sản được xem là thước đo vật chất nuôi sống người thân trong gia đình

và còn là giá trị tinh thần rất lớn. Vậy nên, pháp luật Hôn nhân và gia đình luôn

lấy vấn đề tài sản để phát triển các quy định xoay quanh, bởi hôn nhân tác động

trực tiếp lên hai mối quan hệ cơ bản, quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản, sự

điều chỉnh này giống như trái đất xoay quanh mặt trời, tồn tại song song không

tách rời. Ghi nhận trong văn bản quy phạm pháp luật HN&GĐ 2014 có quy

định rất hay mà các nhà làm luật đã nghiên cứu từ sự hình thành của các văn

bản trước đó đến nay đó là “Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn

nhân”, pháp luật đưa ra quy định này đã dựa trên thực tế nhu cầu cấp thiết của

các cặp vợ, chồng. Chia ở đây là chia sự tự do và định đoạt tài sản vợ, chồng

làm ra. Cuối cùng, chúng ta có thể khẳng định hôn nhân là mầm móng của hạnh

phúc, xây dựng và củng cố một gia đình độc lập sẽ tạo nên nhận thức lớn cho

mỗi thành viên, vợ, chồng là những viên gạch đầu tiên tạo ra ngọn lửa trao yêu

thương cho những người thân sinh và những đứa con thơ.

52

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. VĂN BẢN PHÁP LUẬT

I. Văn bản pháp luật Việt Nam

1. Quốc hội (2013) Hiến pháp 2013.

2. Quốc hội (2005) Bộ luật dân sự, Hà Nội.

3. Quốc hội (2015) Bộ luật dân sự, Hà Nội.

4. Quốc hội (1959) Luật Hôn nhân và gia đình 1959, Hà Nội.

5. Quốc hội (1986) Luật Hôn nhân và gia đình 1986, Hà Nội.

6. Quốc hội (2000) Luật Hôn nhân và gia đình 2000, Hà Nội.

7. Quốc hội (2014) Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Hà Nội.

8. Quốc Hội (2020) Luật Doanh Nghiệp 2020. Hà Nội.

9. Quốc hội (2014) Luật Công chứng 2014, Hà Nội.

10. Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2001 quy định chi

tiết thi hành luật hôn nhân và gia đình.

11. Nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và

gia đình.

12. Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP

hướng dẫn thi hành quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

II. Văn bản pháp luật Pháp

13. Hiến pháp của Cộng hòa Pháp 1958.

14. Bộ luật Dân sự Pháp 1804.

III. Văn bản pháp luật Thái Lan

15. Hiến pháp Thái Lan 2017.

53

16. Bộ luật Dân sự và Thương Mại Thái Lan 1996, NXB Chính Trị Quốc

Gia, Hà Nội.

B. CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC

IV. Các tài liệu Tiếng việt

17. Nguyễn Thị Hồng Vân, người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Lan, Chia

tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân-Một số vấn đề lý luận và

thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

18. Th.S. Nguyễn Thị Hưng, Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời

kỳ hôn nhân và thực tiễn thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng trên địa

bàn tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

19. Lương Trọng Kha, Chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ

hôn nhân là Bất động sản, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành luật Dân sự và Tố

tụng Dân sự, Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh.

20. Nguyễn Thị Hạnh, người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Thu Vân, Chia

tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam-Thực tiễn áp dụng và

hướng hoàn thiện, Luân văn Thạc sĩ ngành Luật Dân sự, Khoa luật Đại học

Quốc Gia Hà Nội.

21. Luận văn thạc sĩ luật học, “Chia tài sản chung của vợ chồng trong

thời kỳ hôn nhân – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tác giả Nguyễn Thị

Hồng Vân.

22. Luận văn thạc sĩ luật học, “Chia tài sản chung của vợ chồng trong

thời kỳ hôn nhân và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà

Nội”, Tác giả Lưu Việt Thắng.

23. Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, NXB Công an nhân

dân Hà Nội_2017,tr.88.

54

24. Ngân hàng thế giới & Bộ Kế Hoạch-Đầu tư (2016), Việt Nam 2035-

Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ-Báo cáo tổng quan,

Nxb.Hồng Đức, Hà Nội.

V. Website

25. Đoàn Thị Ngọc Hải (2015). Cơ sở lý luận, thực tiễn của chế độ tài

sản vợ chồng-một số vấn đề cần trao đổi, Bộ Tư Pháp, Cơ sở lý luận, thực tiễn

của chế độ tài sản của vợ chồng – một số vấn đề cần trao đổi (moj.gov.vn), truy

cập ngày 20/04/2024.

26. PGS.TS. Phùng Trung Tập (2012), Việc chia tài sản chung của vợ

chồng Trong thời kỳ hôn nhân, Nghiên cứu lập pháp-Viện nghiên cứu lập pháp

thuộc ủy ban thường vụ Quốc Hội, Việc chia tài sản chung của vợ chồng Trong

thời kỳ hôn nhân (lapphap.vn), truy cập ngày 23/04/2014.

27. ThS. Đoàn Thị Phương Diệp (2008), Nguyên tắc suy đoán tài sản

chung trong luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam và Luật Dân sự Pháp, Thông

tin pháp luật Dân sự, Nguyên tắc suy đoán tài sản chung trong luật hôn nhân và

gia đình việt nam và luật dân sự pháp - thông tin pháp luật dân sự

(phapluatdansu.edu.vn), truy cập ngày 24/04/2024.

28. Trần Thanh Luân (2019) (Lớp CH16LDS_TV5_2, Trường đại học

Trà Vinh), Pháp luật của một số nước về chia tài sản chung của vợ chồng trong

thời kỳ hôn nhân, Tạp chí Công Thương điện tử. Cơ quan thông tin lý luận của

Bộ Công Thương. Pháp luật của một số nước về chia tài sản chung của vợ

chồng trong thời kỳ hôn nhân (tapchicongthuong.vn), truy cập ngày

24/04/2024.

29. Huỳnh Văn Thông (2023), Tìm hiểu quy định của pháp luật về phân

chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, Cổng thông tin Đảng

bộ Tỉnh Ninh Thuận, https://truongchinhtri.binhthuan.dcs.vn/Tin-

55

tuc/post/221319/tim-hieu-quy-dinh-cua-phap-luat-ve-phan-chia-tai-san-

chung-cua-vo-chong-trong-thoi-ky-hon-nhan, truy cập ngày 23/04/2024.

30. Nguyễn Thị Thu Trang (2023), Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn

nhân qua luật hôn nhân và gia đình các thời kỳ, Viện Kiểm Sát nhân dân tỉnh

Bắc Ninh, https://vksbacninh.gov.vn/kiem-sat-vien-viet/nghien-cuu-trao-

doi/chia-tai-san-chung-trong-thoi-ky-hon-nhan-qua-luat-hon-nhan-va-gia-

dinh-cac-thoi-ky-21817.html, truy cập ngày 23/04/2024.

31. Đặng Lê Phương Uyên (2019), Hậu quả về quan hệ tài sản của vợ

chồng khi chia tài sản chung, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử cơ quan của Tòa

án nhân dân Tối cao, https://tapchitoaan.vn/hau-qua-ve-quan-he-tai-san-cua-

vo-chong-khi-chia-tai-san-chung, truy cập ngày 25/04/2024.

56

PHỤ LỤC

1. Bán 08/2019/HNGĐ-PT Ngày 07/03/2019 về tranh chấp chia tài sản chung

của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-

an/ban-an-082019hngdpt-ngay-07032019-ve-tranh-chap-chia-tai-san-

chung-trong-thoi-ky-hon-nhan-80195.

2. Bản án 20/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về yêu cầu chia tài sản chung

của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. https://thuvienphapluat.vn/banan/tin-

tuc/05-ban-an-ve-chia-tai-san-chung-trong-thoi-ky-hon-nhan-5644.

3. Bản án 07/2018/HN-PT ngày 11/01/2018 về yêu cầu chia tài sản chung của

vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. https://thuvienphapluat.vn/banan/tin-

tuc/05-ban-an-ve-chia-tai-san-chung-trong-thoi-ky-hon-nhan-5644.

4. Bản án 21/2020/HNGĐ-PT ngày 31/07/2020 về chia tài sản chung trong

thời kỳ hôn nhân. https://thuvienphapluat.vn/banan/tin-tuc/05-ban-an-ve-

chia-tai-san-chung-trong-thoi-ky-hon-nhan-5644.

57