Phong cách ngh
lun, bút chiến của
Phan Khôi
Đặt trong hoàn cảnh những cuộc bút chiến trong giai đoạn giao thi, nguyên tắc
trên của Phan Khôi xem ra không phải là không cn thiết. Bởi vì thói quen bao giờ cũng
có sức bảo thủ ghê gớm. Ti quen của tư duy cũng vậy. Nó thấmu vào tình cm của
con người qua bao thế k, thậm chí trở thành “quốc hồn”, thành chất thơ.
Ngoài ra trong tranh luận, người ta thường dễ lẫn ln tình cm riêng đối vi con
người của kẻ tham gia tranh luận, với lý lẽ anh ta phát biu. Điu ấy dễ làm mất tỉnh táo,
mất tinh thần khách quan trong nhận thức chân . Trong bài “Con người và lời nói(16),
Phan Khôi cho rng, trong xã hội ta “ai nấy ít trọng về lời nói mà chchú trọng về con
người”. Điều ấy rất trở ngi cho những cuộc tranh luận học thuật. Ông nói đúng: “Ch
nên lấy lời nói làm cái đối tượng (objet) cho sbiện luận chứ không nên lấy con người
làm đối tượng”.i cho rng đó là một bài học rất quý ca Phan Khôi về văn hoá tranh
luận vẫn còn nguyên giá tr cho đến ngày nay.
Vậy trong nghị lun, bút chiến phải kiên quyết dứt bỏ tình cm và đề cao lý trí. Đề
cao trí tất phải coi trọng luận lý học. Phan Khôi nhắc đi nhắc lại điều đó không biết
mệt mỏi:
Trăm sự ở đời cũng phải cần đến luận lý học; luận lý học cai trị cả mọi sự ở
đời(17).
Phải lấy luận lý học làm nền. Phàm một người đã nắm bút làm văn thì ít nữa
phải biết qua luận lý học(18).
Muốn cho nước ta từ nay về sau có một nền học thuật vững vàng thì thế nào
cũng phải lập cái nền ấy trên lý luận học(19).
Muốn cho thông thì chúng ta viết văn cốt phải đúng theo văn pháp và luận
học(20).
…v.v… và v.v….
Nguyên tắc ca luận lý học trước hết đòi hỏi phi xác định chính xác nội hàm các
khái nim, ý nghĩa các thuật ngữ, các ngôn từ. Cho nên luận lý học có chỗ rất tương hợp
với thuyết chính danh của Khổng Tử: “Danh chẳng chánh thì nói ra chẳng thuận”. Cho
nên Phan Khôi khng định, với thuyết chính danh, Khổng Tlà “Người mở đường cho
luận lý học Á Đông”, “Muốn học luận lý học thì trước hết phải theo cái thuyết chánh
danh của Khổng Tử(21).
Vn dụng thuyết chính danh và lun học, ông kng ngần ngại đứng ra đóng
Vai ng sử trên văn đàn(22), viết hàng loạt i đính cnh những sai phm trong nhn
thc và sử dụng các thuật ngữ, c ngôn từ, cách dùng nh nh của nhiều nhà n, n
báo đương thi. Ông khảo cu để phân biệt ngũ luân” của Khổng Mnh vớiTam
cang” của n nho, Tống nho; ông phê pn Trn Trọng Kim dùng ch Khổng phu
t mà kng hiu nghĩa; ông phân bit n thật, tên tự, tên hiệu khác nhau thế nào
cách sử dụng chúng cũng khác nhau ra sao; ông c định cách nêu n các nhân vt
trong c công trình shọc sao cho khách quan khoa học; ông pn biệt tri thức ph
thông vi tri thức chuyên n, phân biệt nết trinh tiết trinh của người phụ nữ, v.v…
Nhiu ch dùng tưởng như rất tng thường quen thuộc, vậy mà nhPhan Khôi ta
mi hiểu đúng nghĩa. Thí dnhưdanh lam thắng cảnh”. Lam gốc chữ phạn là chùa.
Danh lamngôi chùa cổ, v.v... Ông giễu ct cách dùng hình nh phi -gích của
nhiều nhà o, chng hạn: “Mục đích bổn báo là soi dọi ngọn đuốc mới mtrong buổi
bình minh (bình minh tcn gì phải soi đuốc!), hay là: “Thân phn tôi ngày nay khác
o nhoa đào trôi theo giọt c(Git nước m sao trôi được hoa đào!), v.v...
Đóng vai ngự sử, tất nhiên tmình phải nêu gương trước hết. Và ông đã tạo cho
những bài nghluận, bút chiến của mình một văn phong khoa học, chính xác, tính duy lý
cao, lập luận mạch lạc sáng sủa, chặt chẽ, bằng chứng rõ ràng, có sức thuyết phục, dù
đặt ra những vn đề ngược chiều với dư luận. Ông xác định ba tiêu chí chun mực của
văn chương : Tín, đạt, mỹ (23). Ngh luận, bút chiến của Phan Khôi nói chung đều đảm
bảo được hai tiêu chuẩn tín đạt. Tín là chân thực, chính xác, đạt là din giải đúng và
rõ ý ca người viết. Phong cách đó của Phan Khôi đã nh hưởng không nhỏ tới hoạt
động văn chương, báo chí đương thời. Cho nên nói đến sự hình thành, hoàn thiện và
phát triển ca thể văn nghị luận ở nước ta, nhất thiết phải kể đến Phan Khôi như một cây
bút có đóng góp quan trọng.
Do tinh thn cực đoan và thái độ quá sùng bái lô-gích hình thức, li tự tin q
mức, Phan Khôi cũng bộc lộ rất rõ nhưc điểm này: thiếu đầu óc biện chứng. Nhà lun
lý học tỏ ra lúng túng, thm chí bất lực khi nhận thức, lý giải những hin tượng phức
tạp, nghĩa là vừa mâu thuẫn vừa thống nhất. Ông chỉ thấy mặt đối lập mà không thấy
yếu tố có thể hoà hợp giữa văn hoá Đông và Tây, giữa cựu học và tân học, giữa truyền
thống và cáchn, giữa văn chương bìnhn và văn chương bác học, giữa nhận thức
trực giác và tư duy khoa học, v.v… Ông đặc biệt tỏ ra lúng túng trước qui luật tinh vi,
phức tạp của tình cm con người. Ông đem qui tắc luậnhọc để phản bác một bài thơ
« khóc cha » của một tác giả nào đó: “Đương khi cha chết mà làm thơ khóc cha là hai sự
trái ngược không dung nhau, luận lý học không cho phép như vậy(24). Ông lập luận: t
gắn với nhạc, nhạc để vui, cha chết sao lại vui! Nói chung lĩnh vực phức tạp của nghệ
thuật không thích hợp với lối suy nghĩ có phần giản đơn, máy móc của nhà lun lý học.
Ông không thy có chỗ khác biệt, đồng thời có chỗ hoà hợp giữa lý trí và tình cm
trong sáng tạo thơ ca, nên đồng nhất nữ tính với tài năng nghệ thuật. Ông cho
rằng Tờng can hànhCung oán ngâm nếu đàn bà làm thì s hay hơn Lý Bạch và
Nguyễn Gia Thiều…(25). Ông ng tỏ ra bất lực khi đề cập đến quy luật của ái tình. V
vấn đề này, ông Tú Khôi đành phải t nhận là người thủ cựu hơn ai hết:Tôi bình sinh,
cái gì thì tôi khuynh hướng về mới, duy có ái tình thì tôi thủ cựu rất mực. Tôi hết sức
phản đối cái thuyết “luyến ái tự do”, tôi cho là đem ái tình ra dùng tầm bậy. Tôi nhận
cái chơn ái tình duy có chỗ vợ chồng mà thôi”. Ai cmặc,tôi vẫn sống một cách êm
đềm trong cái thú ái tình cũ rích của tôi(26).
3. Hứng thú hài hước, châm biếm
Phan Khôi tự bạch: “Tôi sẵn có cái tánh hay bông đùa, mà lâu nay lại khuynh
hướng về cái lạc thiên chnghĩa (optimisme), thỉnh thoảng dù viết về điều trang nghiêm
cũng “ trộm phép” mà “hí hước chút chơi”(27). Đây là một tâm hồn rất trẻ. Ông tuyên
b: Thanh niên là vthần của tôi thờ(28). Có nhiều bài viết của ông chỉ thuần tuý là k
chuyện vui. Chng hạn như bài Đoàn bò i Gòn – Hà Nội(29). Nhân thy có phong trào
đua xe đạp, thi đi bộ, nhiu người nhờ thế mà nổi danh, ông đề nghị thi bò chụm hai
chân hai tay bò tSài Gòn ra Hà Nội, một môn thể thao mới đáo để sẽ nổi danh
cùng”. Hoặc như i Mang nng đẻ đau(30): Hội bảo trợ nhân quyền gởi đơn lên Thượng
đế xin giải quyết cho một bất ng: đàn bà đã mang nng lại phải đẻ đau, trong khi đàn
ông ch hưởng cái sướng mà không chịu chungi khổ. Thượng đế bèn ra lnh: đàn bà
đẻ, đàn ông đau. Lệnh truyền ra thấy nguy quá. Một bà nọ đẻ, chồng kng thấy đau mà
ông hàng m lại đau... Bài Cả nhà đều hay thơ(31) cũng chỉ là một chuyện vui. Mở đầu
câu chuyện, ông viết: “Nói chuyện đời nay mãi cũng chán: chẳng những Thông
Reo (một bút danh của Phan Khôi N.Đ.M) chán mà độc giả có lẽ cũng chán. Vậy hôm
nay tôi xin nói một chuyện đời xưa để cống hiến các bạn gọi là “đổi bữa cho vui.
Một tâm hồn trẻ trung, thích vui đùa như thế, kết hợp với một đầu óc phê phán rất
sắc sảo, đã tạo ra ở Phan Khôi một hứng thú châm biếm giễu cợt như một nét phong
cách cơ bản của văn nghị luận, bút chiến Phan Khôi. Ông viết một loạt bài gọi là tiu
phm hay hài đàm với tiếng cười đả kích vừa hoạt bát hin đại học được của phương
Tây, vừa sâu sắc mang cái thâm thuý của một nhà nho.
Tiếng cười châm biếm của Phan Khôi thường được tạo ra bằng thủ pháp sau đây:
nhân một sự kiện nào đó, một tin tức thời sự nào đó, trong nước hay trên thế giới, tóm
bắt được qua báo chí, ông liên tưởng đến một mặt tiêu cực nào đó trong xã hội mình, to
ra mt mâu thuẫn nực cười. Liên tưởng càng bất ngờ, tác dụng gây cười càng thú v.
đây, sự hóm hỉnh và đầu óc thông minh có vai trò quyết định.
Thí dụ: Nhân một tờ báo Pháp đưa tin có một người vừa câm, vừa mù, vừa điếc,
anh ta leo thang gác bngã gy tay, bỗng nhiên nói được, thấy được, nghe được, Phan
Khôi bèn viết bài Các ông hội đồng ta mỗi ông nên một cái nhà lầu(32). Nhà lầu thì
mới có thang gác. Các ông leo lên leo xuống có thể ngã. Nhưng nhờ đó, may ra các ông
mới khỏi mù, khi m, khỏi điếc. Một liên tưởng quá bất ngờ, tạo nên một đòn đả kích
rất ác đối với các ông nghị gật.