Phong cách ngh
lun, bút chiến của
Phan Khôi
Tiếng cười châm biếm của Phan Khôi thường được tạo ra bằng thủ pháp sau đây:
nhân một sự kiện nào đó, một tin tức thời sự nào đó, trong nước hay trên thế gii, tóm
bắt được qua báo chí, ông liên tưởng đến một mặt tiêu cực nào đó trong xã hội mình, to
ra một mâu thuẫn nực cười. Liên tưởng càng bất ngờ, tác dụng gây cười càng thú v. Ở
đây, sự hóm hỉnh và đầu óc thông minh có vai trò quyết định.
Thí dụ: Nhân một tờ báo Pháp đưa tin có một người vừa câm, vừa mù, vừa điếc,
anh ta leo thang gác bngã gy tay, bỗng nhiên nói được, thấy được, nghe được, Phan
Khôi bèn viết bài Các ông hội đồng ta mỗi ông nên một cái nhà lầu(32). Nhà lầu thì
mới có thang gác. Các ông leo lên leo xuống có thể ngã. Nhưng nhờ đó, may ra các ông
mới khỏi mù, khim, khỏi điếc. Một liên tưởng quá bất ngờ, tạo nên một đòn đả kích
rất ác đối với các ông nghị gật.
một thông tin:Trung Quốc người ta vừa xuất bản mt cuốn sách tên là Bất
triệt để nghĩa là Không tới nơi. Cuốn sách nói rằng, không thể biết được tới nơi, biết
được triệt để một cái gì hết. Như vũ trụ vô cùng, không thể biết được giới hạn của nó.
Cuốn sách kết lunsnghĩ, sự biết, sự làm, đừng nên yêu cầu tới nơi làm chi”. Phan
Khôi bèn viết bài Không ti nơi(33). Ông liên hệ đến nước mình: “theo cái học thuyết mới
này thì có l Annam ta là đúng lắm. Cái gì chúng ta cũng có mà cái gì cũng không ra cái
gì cả, cái gì cũng không tới nơi”.
Ông đọc o y, thấy có chuyện này: ngưi ta thành lp một hội nghiên cứu
triết học. Hội y đưa ra cái thuyết “Không biết được(Agnosticisme), Phan Khôi n
viết bài Kng biết được(34) để giễu Hội Nam kỳ cu tế nạn n và Nguyn Phan Long,
chủ báo Đuốc nhà Nam. Hi Nam kỳ cứu tế nn dân lạc quyên tin để gửi ra cứu tế
nn dân ngoài Bc. Hội thu của một cơ quan 4000 đồng mà kng thy gửi ra. Hỏi, trả
li: “Không biết được; Còn ông Nguyn Minh Doãn thì n vốn cho báo Đuốc nhà
Nam để kinh doanh. Ông ta hỏi Nguyễn Phan Long lời lỗ ra sao. Trả lời:Không biết
được”. Kết luận: Thế là Việt Nam đã có i học thuyết Kng biết đượcri kng
cn tìm đến cái triết học Agnosticisme bên Tây kia m gì.
Có những liên tưởng chứa đựng ý nghĩa phê phán vừa sâu vừa sắc, đồng thi tạo
ra tiếng cười đầy vị cay đắng, chua chát, cười ra nước mắt: Một thông tin thời sự nóng
hổi cho biết, có một ngưi Tây đánh chết một người Việt Nam. Anh ta khai trước toà
mắc bệnh điên, nên kng biết gì cả. Thế là toà xử trắng án.
Phan Khôi liền viết bài Bệnh điên của người Tây(35), nói rng Tây và ta khác nhau
đủ thứ, điên cũng khác nhau. Người Tây văn minh nên điên cũng văn minh, không như
người ta, điên thì ăn nói bậy bạ, bỏ ăn bỏ ngủ, xé quần xé áo, cởi truồng đi phố, v.v...
Tây điên rất văn minh, cứ y như người khoẻ mạnh bình thường vậy thôi!
Thủ pháp liên tưởng được vận dụng có lẽ bất ngờ nhất, thn tình và thú vị nhất là
ở bài Trong trần ai kẻ mày râu(36).
Nhân chuyện nghề dệt lĩnh phát triển rất ồ ạt (lĩnh là thlụa trơn mát, u đen,
tránh lộ vết bẩn, dùng để may váy hay qun cho phụ nữ ), Phan Khôi liên hmột cách
bất ngờ để giễu đàn ông. Ông cho rằng đàn ông nước ta thành đàn bà hết rồi nên ớc ta
mới tiêu thụ lĩnh nhiều đến vy chứ:Ấy là cái triệu tỏ cho ta biết rằng Annam rầy về
sau skhông còn đàn ông nữa vì bao nhiêu đàn ông hiện thời sẽ biến ra đàn bà hết (...)
Chẳng người nào còn có khía có góc na, láng trơn hết thẩy (...) không còn ai tinh khiết
nữa, người nào cũng không khỏi dơ dáy làm cho mình cần phải dùng đồ đen mà che đậy
cho nó khuất lấp đi. Than ôi!”.
Không thể kể hết các kiểu liên tưởng để gây cười của Phan Khôi trong hàng trăm
bài viết của ông để phê phán những thói xấu của con người, những nhược đim của dân
tộc, những bt công trong xã hi thực dân phong kiến. Ông đã góp phần vào sự phát
triển của loại văn châm biếm, trào phúng trong nn văn học ớc ta mà ông thấy
còn “hà khắc quá, chưa biết coi trọng văn khôi hài. Trong bài Cái địa vị khôi hài trên
đàn văn học(37), ông cho rng, khôi hài là thể hiệncái tư tưởng tự do”,cái khí phách
độc lập, “Ai có tài thông minh tuyệt thế thì mới nói được chuyện giễu có duyên hay
làm được bài văn bông lơn có duyên”, k nói chơi không biết, nói thiệt không
haylà “ngu đần”.
Ông nói đúng. Ta hiểu vì sao nhng tài năng khôi hài, những y bút trào phúng
xưa và nay vẫn hiếm.
4. Bác hc mà bình dân, thông thái mà dân dã
Trong bài giới thiệu tiểu sử Phan Khôi(38), Phạm Xn Thạch đánh giá, với các bài
viết của mình, Phan Khôi đã để lại một bách khoa thư về văn hoá”. Đó là một nhận
định chính xác.
Phan Khôi vừa là một nhà Hán học uyên tm, vừa chịu khó học tiếng Pháp, miệt
mài học hỏi qua sách, báo trong nước, ngoài nước. Ông tìm hiu, bàn bạc cái gì
cũngxét cho đến nơi, tìm chứng cứ ở sự thật(39) nên đã tích luỹ được mt vốn tri thức
rất rộng, bao gồm đ cả Đông Tây kim cổ: lịch sử xã hội, văn hoá, văn học các nước, từ
Việt Nam, Trung Quốc đến Nhật Bản, Pháp, Nga, Thổ N Kỳ...; các loạin giáo: Phật,
Gia-tô, Tin lành, Hồi giáo, Cao đài...; các loại học thuyết: Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử,
Mặc Tử, Trình Tử, Chu Tử, cho đến Găng-đi, Lê-nin, Tôn Văn...; cả phép suy lý ba
đoạn (chữ dùng của Phan Khôi N.Đ.M) của Hégel, luận lý ca Aristote, rồi triết lý duy
m, duy vật...; ông từng dịch Kinh Thánh của đạo Gia-tô, dịch cả thơ Tầu, thơ Pháp, t
Nga... Ông khảo cứu cả lịch sử của dân Do Thái vi những cuộc di cư nơi này nơi khác
nh ng của họ trên khắp thế giới(40); ông rất am hiểu nghệ thuật dân gian, từ thần
thoi, truyền thuyết ca Tầu, của ta, tới phong dao, tục ngữ của người Vit. Ông tìm
hiểu lịch sử chữ quốc ngữ, nghiên cứu tường tậnmẹotiếng Lang-sa và muốn áp dụng
vào tiếng ta vì về văn pháp mỗi ớc chỉ khác nhau một ít, hđã thông văn nước
ngoài thì cũng có thể suy ra làm thông văn nước mình(41). Ông giảng giải rành rọt về
các nguyên lý của luận lý học, các phép quy nạp, din dịch của tư duy khoa học... Ông
đọc cả sách thuốc Đông y (Y thoại tùng biên” của Vũ Thượng Chi), biết cả các cách
khám bnh của các thày lang ta lang Tây, đọc cả sách vềTrí khôn của loài sâu
b(42) và khảo cứu cả tục nhuộm ng đen của người Việt(43), v.v... Ông là một trong s
người viết phê bình văn học đầu tiên c ta, lại từng đóng vai ngự sử trên văn đàn
đểdọn vườn”,“đãi sạncho sách, báo đương thời, nên cái cũng phải đọc, thượng
vàng hạ cám, từ sách của Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Huỳnh Thúc Kháng... đến các
bài báo của nhữngy bút non nớt còn viết sai ngữ pháp, chính tả, v.v...