Phong cách ngh
lun, bút chiến của
Phan Khôi
Nhưng bác học mà rất đỗi bình dân, thông thái mà vẫn dân dã – đó mới là đặc
trưng phong cách của Phan Khôi.
Đặc đim này không phải tự nhiên mà có. Xét ra nó xuất phát từ bản chất tư tưởng
của Phan Khôi. Ông từng dõng dạc tuyên bố:Tôi chlà một viên tiu tướng của đạo
quân bình dân tư tưởng đi trước dẹp đường(44).
Hướng về bình dân, kiên quyết đấu tranh cho quyền dân chủ của con người, của
phụ nữ, Phan Khôi, vì thế, tuy uyên bác mà không thích nói ging cao siêu, rất thông
thái mà lại ghét ngôn ngữ hàn lâm, kinh vin. Ông muốn là một trí thức của bình dân,
nói năng bằng ngôn ngữ của bình dân.
Nh câu i nổi tiếng của một n n Pháp: Cái gì đã hiu được thu đáo thì
din đt ra tất sáng sa, rõ ràng. Nguyên tc pt ngôn của ông , i điều gì
cũngphi tra xét cho pn minh, có chứng cứ rành rành ri sẽ nói(45). n phong
của Phan Ki sáng sủa là vì thế. Nng trong gii trí thức kng phải ai cũng thích
din đt như vậy. Họ cho như thế là tm tng hoá n khoa học. Cho nên shiểu
thu điều mình i phi cộng với tinh thần dân chvà óc bình dân mi thực s cơ
s của phong ch Phan Ki. Trong bài Gii thiu và p bình Thánh kinh o, ông
đã khen ngi n phong của t o này theo tinh thần ấy: Văn chương tht rõ, tht
gn mà li dhiểu nữa, rất hip với i lối bình dân văn học(46).
Văn Phan Ki i chung sáng sủa, dễ hiểu, trước hết vì các ki nim, các
thut ngữ đu được ông định nghĩa rõ ràng. Thuyết chính danh và lun học yêu cu
nvậy: theo tam đon lun thì phi t rõ mạng đề (proposition). Mun xét rõ
mng đphi bin từng danh từ (terme) cho rành rẽ. Vậy bưc đầu lôgích là tế nhận
danh từ, bước này sai là hng hết(47).
Ông thường dùng những ví dụ cụ thể lấy trong đời sống thông thường để định
nghĩa các thuật ngữ, gii tchc quy luật, làm cho các vấn đề trừu tượng trở nên d
hiểu lại không khắc khổ, khô khan.
Chẳng hạn giải tch luậttự đồng” (loi d’identité) của luận lý học, ông lấy cái
căn cước (chứng minh thư) ta vẫn dùng để minh hoạ. Cái thẻ căn cướcdán ảnh và ghi
đặc đim nhân dạng là đồng nhất với người cầm thẻ. Người cầm tht đồng”vi tấm
th(48).
Nói vhai chữ tiết trinh chỉ có từ thời phong kiến Tống nho, ông dẫn ra những
truyền thuyết thời viễn cổ còn theo chế độ mẫu hệ, đàn bà rất tự do, con đẻ ra chỉ biết
mẹ, không biết cha. Như bà Giản Địch nuốt trứng chim đẻ ra ông Khiết, bà Khương
Nguyên đạp dấu chân đẻ ra ông Tắc – “Thánh nhân vô phụ, cảm nhiên nhi sinh(Thánh
nhân khôngcha, cm trời mà sinh ra)(49).
Để giải tch chế độ gia đình phong kiến hết sức bất công, thm chí bất nhân bất
nghĩa đối với phụ nữ, ông kể chuyện thật trong gia đình mình (“Chuyện bà ctôi”). Bà
cố của ông có ng rất lớn, đã gây dng được cả một cơ nghiệp làm vẻ vang cho dòng
họ nhà chồng. Vậy mà chỉ vì chồng chết, cải giá, mà bị xoá sạch mọi quyền lợi, khi chết
không được chôn ở đất công của làng, không được họ nhà chng (cũ) thờ cúng (50).
Ông có nhng cách so sánh ví von vừa làm sáng tvấn đề, vừa có giá trị châm
biếm rất sâu sắc. Thí dụ : Đương thi, giới trí thức Tây học làm văn tiếng Pháp thì rất
nghiêm chỉnh, không dám viết sai các qui tắc văn phạm. Nng khi viết tiếng Việt (ch
quốc ngữ) thì rất tuỳ tiện, rất ẩu, tỏ ra khinh thường tiếng mẹ đẻ, thiếu tự trọng khi viết
tiếng mẹ đẻ. Ông ví vi những anh làm bồi cho Tây: dọn dẹp nhà cửa cho chủ Tây thì
chu đáo, sạch sẽ, nhưng khi về nhà với vợ thì sng lum thuộm, dơ dáy, đúng đầu óc
nô l(51), v.v...
Có những cách ví von vừa chính xác vừa sinh động, lại rất vui. Chng hạn, văn
phê bình là thvăn rất mới ở nước ta, ông ví như cô dâu mới về nhà chồng. Giới thiu
tập sách phê bình văn học đầu tiên ở nước ta là cuốn Phê bình Cảo luận của Thiếu
Sơn, ông mở đầu rất vui:Mạnh dạn mà bước ra đi! Ai nấy đương ước ao thấy mặt; đắc
ý hòng chết, còn làm hạnh nữa! Sau mấy lời nói trửng với cô dâu bên trong cửa đó, ra
tới trung đường, người dẫn dâu đứng thiệt chững, cúi đầu trước mặt công chúng, nói
lớn lên rằng: Thưa hai họ, dâu ra mừng họ đây!(52).
Đọc Phan Khôi, thấy không có sự phân biệt giữa bậc học giả, nhà trí thức vi bình
dân.
Ông hay dùng thành ngữ, tục ngữ rất quen thuộc với n gian:cơm vua ngày
trời”,nhbậy phun càn, “có ghẻ thì né ruồi”, “ông ăn chả,ăn nem”, “no ăn mất
ngon, giận nói mất khôn, “nói chơi không biết, nói thiệt không hay”,già chơi trống
bỏi”, “hùm chết để da, người ta chết để tiếng”, v.v…
Ông dùng khẩu ngữ một cách rất phóng túng, thoải mái : vốn rất ghét li viết rắc
rối, tù mù, khiểu, ông viếtđọc mà thấy những chỗ ấy, làm cho tôi tc đà muốn
chết(Bàn vviệc dịch sách Phật)(53); Trong bài Đồ đàn ông voi , ông viết: Chưa
nữ quyền mà còn như vậy thay, huống chi một mai có nữ quyền thì đám thị mẹt còn
lộng cho đến đâu nữa, ở xứ này có mốc xì chi là cái nquyền đâu(54); Trong
bài Muốn làm dân Annam, ông pha ctiếng Tây bồi:Thôi tnay mình hãy nghe lời ông
bạn Lang sa kia mà an phận làm Xí-toà-dên (Citoyen nói theo gingy bồi, −
N.Đ.M)Annam chơi cũng sung sướng chán(Muốn làm dân Annam)(55), v.v
Ông lẩy Kiều rất vui:Ấy ngu xuẩn hay không ngu xuẩn, hãy để cho người ta nói
hết đã ! CNguyễn Du đã bảo rằng: Dễ cho thưa hết một lời đã nao(Annam ta
vốn bị người Tàu cai tr)(56).
Ông nhi Kiu rất tếu:Việc đời đã tắt lửa lò, còn rê cây quạt mà mò gi
than” (Quyền lợi của kẻ già)(57).
Ông còn nghĩ ra những cách diễn đạt rất nghịch. Thí d, đàn bà chửa ông gọi
là “trung hưng khúc giữa(Con mình và con người)(58).
Cách ăn nói như thế đã phá tan sngăn cách giữa văn và đời. Người viết cứ như
trò chuyn trực tiếp với độc giả bằng một thứ ngôn ngữ tự nhiên, gin dị, vui v và thân
mật. Ông nói đúng:Lập nghiêm ai dám lại gần (…) cứ giữ mực khăn đen áo rộng quá
thì nhiều khi làm cho kẻ đọc mình phải chán (Cái địa vị khôi hài trong đàn văn
học) (59).
*
Phan Khôi tuy là một nhà tư tưởng, mt nhà văn hoá lớn, nhưng cho đến nay ca
được giới nghiên cu quan m đúng mc. Một phn vì cái án Nhân văn khiến người ta
phải né tránh, một phần vì ông chủ yếu là một nhà báo (ông có làm thơ, viết truyện
nhưng ít và không nổi lắm), mà gii nghiên cứu của ta lâu nay trọng nhà văn, thích viết
về nhà văn hơn là về nhà báo.
Thực ra, sự nghiệp ca ông tuy chủ yếu không phi sáng tác văn chương, nhưng
hàng trăm i nghị luận, bút chiến của ông vi mt phongch mạnh mẽ, đầy ấn tượng
trong giai đoạn giao thời, đã tạo tiền đề tư tưởng cần thiết cho các cuộc cách tân hiện đại
hoá ca văn học Vit Nam nửa đầu thế kXX, như xu hướng tiu thuyết Tự lc văn
đoàn và phong tràothơ mi… Ông nói đúng,Muốn duy tân cải cách thì phải bắt từ
học thuật tư tưởng mà duy tân cải cách trước(60). Ông cũng là một trong những người
khai sinh ra thvăn phê bình văn học ở c ta, một thể văn không thể thiếu vắng trong
một nền văn học thật sự hiện đại