
Phòng ngừa bệnh tim mạch

Bệnh tim mạch là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ. Hằng
năm theo những thống kê tại Mỹ có 500.000 phụ nữ tử vong do bệnh
tim mạch. Tức là cứ một phút lại có một phụ nữ qua đời vì bệnh tim
mạch. Việc hiểu biết nguy cơ của bản thân trong mỗi phụ nữ có thể giúp
cho phụ nữ có cuộc sống khỏe mạnh và dài lâu. Có lối sống lành mạnh,
dùng thuốc một cách thích hợp và đúng đắn sẽ giúp cho phụ nữ có thể
phòng tránh và điều trị được những bệnh tim mạch, làm giảm khả năng
nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu não. Đánh giá nguy cơ của bản
thân
Nguy cơ tim mạch ai cũng có nhưng yếu tố nguy cơ khác nhau ở mức độ
nhiều hay ít, cao hay thấp. Đánh giá được yếu tố nguy cơ của bản thân sẽ
giúp chúng ta có biện pháp tốt nhất để dự phòng được bệnh tim mạch. Hiện
nay, có nhiều cách phân loại đánh giá yếu tố nguy cơ nhưng đánh giá của
Framingham được sử dụng rộng rãi nhất trong đánh giá các nguy cơ tim
mạch. Dựa trên bảng tính điểm đánh giá nguy cơ mà ta có thể ước tính nguy
cơ nhồi máu cơ tim và tai biến mạch não trong 10 năm tiếp theo. Qua tính
điểm ở từng người, ta có thể tự phân loại bản thân là có nguy cơ cao, trung
bình hay thấp.

Nếu bạn thực sự đã có bệnh tim mạch như tai biến mạch não, bệnh mạch
ngoại vi, phình động mạch chủ bụng, đái tháo đường, hoặc bệnh thận mạn
tính nghĩa là bạn đã có nguy cơ cao mà không cần phải cộng điểm nguy cơ.
Thay đổi lối sống
Thay đổi lối sống, có cuộc sống lành mạnh là một cách tốt để làm hạ thấp
yếu tố nguy cơ.
Thay đổi lối sống bao gồm:
• Tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày.
• Bắt đầu chương trình hồi phục tim mạch nếu trước đó bạn nằm viện do
bệnh tim hay vừa trải qua một can thiệp tim mạch.
• Ăn chế độ ăn kiêng, nghĩa là ăn nhiều rau quả, ngũ cốc, ăn những thực
phẩm không có chất béo hoặc ít chất béo, ăn cá, đậu và những thức ăn
protein có hàm lượng chất béo hòa tan thấp (như thịt gia cầm, thịt nạc,
protein thực vật). Ăn ít những thức ăn có axít béo.
• Duy trì cân nặng ở mức bình thường (BMI từ 18 đến 25; chỉ số BMI được
tính bằng bình phương cân nặng chia cho chiều cao). Nếu bạn muốn giảm
cân, bạn nên theo một chương trình giảm cân.

• Một vấn đề ít gặp ở phụ nữ Việt Nam, nhưng trong vài năm gần đây có xu
hướng gia tăng, nhất là phụ nữ thành thị là hút thuốc lá. Bạn nên ngừng hút
thuốc lá nếu đang hút, tránh việc tái hút thuốc và tránh hút thuốc lá bị động
(cạnh những người hút thuốc lá).
Điều chỉnh những yếu tố nguy cơ
• Huyết áp: Huyết áp lý tưởng là mức huyết áp xung quanh 120/80mmHg.
Nếu huyết áp cao hơn chút ít so với mức này, bạn cần phải thay đổi lối sống,
có lối sống lành mạnh. Nếu huyết áp lớn hơn 140/90 mmgHg (hoặc huyết áp
lớn hơn 130/80mmHg khi kèm theo tiểu đường), bạn nên sử dụng thuốc.
Các thuốc tăng huyết áp phải được bác sĩ chỉ định dùng.
• Mức cholesterol: Chúng ta nên biết mức cholesterol của mình. Mức
cholesterol bình thường lý tưởng là dưới 200mg/dl. Mức LDL cholesterol
(cholesterol xấu) lý tưởng dưới 100mg/dl. Mức HDL cholesterol (cholesterol
tốt) lý tưởng cao hơn 50mg/dl và tryglycerid (một loại chất béo khác trong
máu) lý tưởng thấp hơn 150mg/dl.
• Tiểu đường: Theo một số thống kê của Viện nội tiết, số phụ nữ mắc tiểu
đường khoảng 14% số phụ nữ. Tăng cân quá mức là nguy cơ dẫn tới tiểu
đường týp II (đái tháo đường mắc phải). Nếu chúng ta không điều trị tiểu

đường có thể dẫn tới nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch não. Chế độ ăn, tập
thể dục và dùng thuốc là những biện pháp để khống chế đường huyết về mức
bình thường. Để theo dõi đường huyết lâu dài chúng ta nên làm thêm HbA1c
và duy trì ở mức dưới 7%.
Điều trị thuốc cho những bệnh nhân có nguy cơ cao
Đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao, sử dụng thuốc điều trị có thể làm
giảm tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch. Các thuốc hay được sử dụng là:
• Thuốc ức chế men chuyển: Các thuốc ức chế men chuyển có tác dụng rõ
ràng trong giảm huyết áp, điều trị suy tim, ngăn ngừa tai biến mạch máu
não. Tác dụng phụ hay gặp của thuốc là ho, khi ho ta có thể chuyển sang các
thuốc ức chế thụ thể angiotensin.
• Thuốc chống ngưng kết tiểu cầu (aspirin): Aspirin liều thấp nên được sử
dụng cho những bệnh nhân nữ có bệnh mạch vành. Tuy nhiên, bệnh nhân có
bệnh gan, thận, loét dạ dày, nguy cơ chảy máu không nên dùng một cách
thường xuyên và phải có chỉ định của bác sĩ.
• Chẹn bêta: Thuốc nên được sử dụng cho những bệnh nhân có nhồi máu cơ
tim, cơn đau thắt ngực.

