
LUẬN VĂN:
Quá trình hình thành những nhận thức mới
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta là vấn đề lý luận và thực tiễn rất
cơ bản, trọng yếu, liên quan trực tiếp đến đường lối chính trị của Đảng, phương hướng
phát triển của đất nước. Đây là vấn đề trung tâm, cốt lõi trong đường lối cách mạng
nước ta; nó chi phối toàn bộ các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại,
an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng.
Vì vậy, ngay từ khi ra đời cho đến nay, Đảng đều tập trung vào việc xác định
mục tiêu và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đó là những thành tựu lớn trong sự
phát triển tư duy của Đảng và nhân dân ta về xây dựng CNXH. Những thành tựu đó có
ý nghĩa đặc biệt trong điều kiện hiện nay, là một trong những nhân tố quyết định đối
với sự thành công của công cuộc xây dựng CNXH trên đất nước ta. Bởi lẽ:
Thứ nhất, các nước XHCN đang lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện và
nghiêm trọng chưa từng thấy trong lịch sử cả về chính trị, kinh tế, xã hội, cả lý luận về
mô hình CNXH của nhiều đảng. Trước cuộc khủng hoảng đó, nhiều đảng có sự đánh
giá lại về công cuộc xây dựng CNXH, về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đề ra chủ
trương cải tổ, cải cách, đổi mới. Trong quá trình thực hiện chủ trương này, có đảng
trung thành và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tổng kết kinh nghiệm, đề ra
được đường lối cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu, giữ vững thành quả của
CNXH; có đảng xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, đi vào con đường xã hội - dân chủ. ở
một số nước, chế độ XHCN đã bị lật đổ.
Tình hình đó tác động mạnh mẽ đến nước ta. Nếu Đảng ta không vững vàng,
không đủ bản lĩnh, không kịp thời đổi mới, không xác định được và xác định đúng quan
niệm về CNXH và con đường xây dựng CNXH thì cuộc khủng hoảng nói trên sẽ tác
động nguy hiểm đến sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Chúng ta đã vượt
qua cuộc khủng hoảng đó, tiếp tục đứng vững và ngày càng phát triển. Điều đó do
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là Đảng ta đã sáng suốt đề ra
đường lối đổi mới đúng đắn và sự nghiệp đó đã giành được những thành tựu quan
trọng, từng bước hình thành quan niệm về con đường xây dựng CNXH ở nước ta.
Thứ hai,bên cạnh những thành tựu quan trọng đã giành được, công cuộc xây
dựng CNXH của chúng ta cũng gặp không ít khó khăn. Trong những năm 80 của thế kỷ
XX, nước ta đã lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Cuộc khủng hoảng này do nhiều

nguyên nhân, trong đó nguyên nhân sâu xa là trong suốt nhiều năm, chúng ta đã có
những quan niệm đơn giản hoặc không đúng về xây dựng CNXH thể hiện ở những
khuyết điểm sai lầm mà Đảng ta đã tự phê bình trong Đại hội VI. Việc đề ra đường lối
đổi mới, hình thành những quan niệm đúng đắn về CNXH, về con đường xây dựng
CNXH chẳng những tạo điều kiện để đất nước ta từng bước thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, mà còn là cơ sở để chúng ta tiến lên trên con đường xây dựng CNXH.
Những quan niệm đó đã củng cố niềm tin vững chắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
ta đối với con đường đã lựa chọn; mở đường cho toàn Đảng, toàn dân phát huy khả
năng sáng tạo trong tư duy, trong hành động, trong việc đưa những quan điểm đó vào
cuộc sống; góp phần vào việc bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh những quan niệm đó. Tuy
nhiên những điều mà Đảng và nhân dân ta nhận thức đạt tới hôm nay sẽ còn tiếp tục
được bổ sung, phát triển cùng với sự phát triển sau này của thực tiễn của tư duy lý luận.
Quá trình hình thành những nhận thức mới về con đường đi liên CNXH ở nước
ta được phản ánh ngày càng rõ nét qua lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng
Cộng sản Việt Nam từ 1930 đến nay.
Ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên (2/1930), Đảng ta đã khẳng
định mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của cách mạng nước ta là độc lập dân tộc và CNXH.
Cương lĩnh chỉ rõ "Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản". Bổ sung cho Chánh cương vắn tắt của Đảng và Luận cương chính trị của
Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930), Đảng ta cũng chỉ ra rằng "Trong lúc đầu, cuộc
cách mạng Đông Dương sẽ là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền... nhờ giai cấp vô
sản chuyên chánh các nước giúp sức cho mà phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh
đấu thẳng lên con đường XHCN"(1). Tuy nhiên trong giai đoạn cách mạng dân chủ nhân
dân, hoạt động tư duy của Đảng phải tập trung vào việc thực hiện những nhiệm vụ cơ
bản của cuộc cách mạng ấy. Hoạt động tư duy về CNXH và con đường xây dựng
CNXH của Đảng chỉ được tiến hành với quy mô lớn khi nhân dân ta bắt tay vào xây
dựng CNXH, từ 1955 là ở miền Bắc, sau 1975 là trên cả nước. Quá trình đó được hình
thành trên cơ sở khẳng định những cái đúng, cần kế thừa, những cái trước kia đúng,
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, CTQG, H, 1998, tr.93-
94.

nhưng nay không còn phù hợp phải thay đổi, những gì trước đây không đúng phải kiên
quyết khắc phục.
Trong những năm 1955-1965, hoạt động tư duy về CNXH và con đường tiến
lên CNXH của Đảng được triển khai thể hiện việc Đảng ta xác định nước ta đã bước
vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Chẳng hạn như: Tháng 8-1955, Hội nghị Trung ương
lần thứ 8 xác định "Đường lối củng cố miền Bắc là củng cố và phát triển chế độ dân
chủ nhân dân, tiến dần từng bước vững chắc lên CNXH". Tháng 1-1956, trong văn kiện
về đường lối cách mạng Việt Nam, Bộ Chính trị nhấn mạnh "Từ khi hòa bình lập lại,
miền Bắc nước ta chuyển sang giai đoạn cách mạng XHCN". Hội nghị Trung ương lần
thứ 13 (12-1957) nhận định: "Từ khi hòa bình lập lại, miền Bắc hoàn toàn giải phóng,
ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên CNXH". Năm 1957, Hội nghị các Đảng Cộng
sản và công nhân quốc tế đã khẳng định những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây
dựng CNXH, chủ yếu rút ra từ thực tiễn Liên Xô. Lúc này Đảng ta chưa đề ra đường lối
chung về xây dựng CNXH.
Trong mấy năm đầu sau khi hoàn thành thắng lợi khôi phục kinh tế, trong khi
chưa đề ra đường lối chung, Đảng ta vẫn chỉ đạo xây dựng CNXH, đặt trọng tâm vào
cải tạo XHCN, coi chuyển nhanh nền kinh tế nhiều thành phần sang nền kinh tế XHCN
bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể chiếm ưu thế là điều kiện cơ bản để đẩy
mạnh sự nghiệp xây dựng CNXH. Điều đó thể hiện rõ qua Hội nghị Trung ương lần thứ
14 (11-1958) với việc chủ trương đẩy mạnh công cuộc cải tạo XHCN đối với thành
phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cải tạo XHCN đối với các thành phần
kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Khâu chính là
cải tạo và phát triển nông nghiệp; Hội nghị Trung ương lần thứ 16 (4-1959) thông qua
hai Nghị quyết quan trọng về hợp tác hóa nông nghiệp và về cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh ở miền Bắc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đã xác định đường lối
chung của cách mạng XHCN ở miền Bắc. Sau khi xác định mục tiêu là "đưa miền Bắc
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc
ở miền Bắc và củng cố miền bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện
hòa bình thống nhất nước nhà". Muốn thực hiện được mục tiêu đó, Đại hội đã nêu lên

những biện pháp cơ bản sau: sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch
sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành
phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hóa XHCN bằng cách "ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ"; đẩy mạnh cách mạng XHCN về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật; biến
nước ta thành một nước XHCN có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa
và khoa học tiên tiến.
Với sự chỉ đạo công cuộc xây dựng CNXH từ 1955 của Đảng, nhất là đường lối
chung của cách mạng XHCN ở miền Bắc đề ra ở Đại hội III, từ 1955 đến 1965, miền
Bắc đã đạt được những thành tựu quan trọng như bảo đảm được lương thực, tự giải
quyết được 90% hàng tiêu dùng,... đặc biệt đã trở thành hậu phương vững chắc cho
cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Tuy nhiên cũng nảy sinh nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng CNXH ở
miền Bắc. Nguyên nhân là do có một số sai lầm trong chủ trương về cải tạo XHCN, về
cơ chế quản lý như nhanh chóng biến nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế
XHCN thuần nhất, trong đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể chiếm ưu thế tuyệt
đối...
Từ 1965 đến 1975, miền Bắc tiến hành xây dựng CNXH trong điều kiện cả
nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đảng ta đã dành nhiều trí tuệ,
công sức vào việc lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến; đồng thời quan tâm, lãnh đạo sự
nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Tư duy của Đảng về cách mạng XHCN trong thời kỳ này được thể hiện cả
trong các Nghị quyết của Đảng, cả trong nhiều tác phẩm, bài viết của các đồng chí lãnh
đạo Đảng, cán bộ quản lý, cán bộ khoa học. Những quan niệm về CNXH và con đường
xây dựng CNXH thể hiện ở những nét lớn sau:
+ Phát triển đường lối của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, hình thành nội
dung và tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học - kỹ
thuật là then chốt, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con
người mới.

