
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 40
“nguyên đơn có thể được yêu cầu cung cấp thông tin khác cần thiết cho việc xác định
hàng hoá có liên quan”.
Điều 44 cho phép dành cho các cơ quan xét xử quyền “ra lệnh cho một bên chấm
dứt hành vi xâm phạm nhằm, ngoài các mục đích khác, ngăn chặn hàng hoá nhập khẩu
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vào lưu thông trong các kênh thương mại nằm trong lãnh
thổ của mình”
Điều 45.1 quy định rằng các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh “buộc người
xâm phạm phải trả cho chủ thể quyền khoản đền bù thoả đáng để bồi thường cho những
thiệt hại mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đã phải gánh chịu do hành vi xâm phạm của
người thực hiện hành vi xâm phạm quyền khi đã biết hoặc có cơ sở để biết điều đó.”
Nhằm ngăn chặn một cách hữu hiệu hành vi xâm phạm quyền, Điều 46 cho phép
các thành viên quy định thẩm quyền cho các cơ quan xét xử “để ra lệnh, mà không có bồi
thường dưới hình thức bất kỳ, buộc những hàng hoá xâm phạm quyền do các cơ quan đó
phát hiện phải bị xử lý bên ngoài các kênh thương mại theo cách thức tránh gây thiệt hại
bất kỳ cho chủ thể quyền”. Nếu hiến pháp hiện hành có quy định thì hàng hoá xâm phạm
quyền có thể bị tiêu huỷ. Một thẩm quyền bổ sung được quy định cho các cơ quan xét xử
là thẩm quyền “ra lệnh buộc xử lý các vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để
sản xuất hàng hoá xâm phạm quyền bên ngoài các các kênh thương mại theo cách thức
nhằm giảm đến mức tối thiểu nguy cơ tiếp diễn hành vi xâm phạm quyền”. Khi xem xét
các yêu cầu xử lý hoặc tiêu huỷ hàng hoá xâm phạm quyền và phương tiện được sử dụng
để sản xuất hàng hoá xâm phạm quyền, các cơ quan xét xử phải chú ý đến “sự cần thiết
phải có tính tương xứng giữa các biện pháp chế tài và mức độ nghiêm trọng của hành vi
xâm phạm quyền cũng như phải chú ý đến lợi ích của các bên thứ ba.” Đối với hàng hoá
giả mạo nhãn hiệu, Điều 46 quy định rằng “trừ những trường hợp ngoại lệ, việc đơn thuần
loại bỏ nhãn hiệu gắn trên hàng hoá một cách bất hợp pháp không đủ để cho phép hàng
hoá đó được đưa vào lưu thông trong các kênh thương mại”.
Một sự phát triển đặc biệt hữu ích là thẩm quyền được quy định theo Điều 47 “để
ra lệnh buộc người xâm phạm phải thông tin cho chủ thể quyền biết về những người tham
gia vào việc sản xuất và phân phối hàng hoá hoặc dịch vụ xâm phạm quyền và về các
kênh phân phối của những người đó”. Điều 47 khuyến nghị không thực hiện thẩm quyền
này trong trường hợp điều đó là “không tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi
xâm phạm quyền”.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 41
Trong trường hợp “các biện pháp thực thi bị lạm dụng”, Điều 48.1 quy định rằng
các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh buộc bên “đã đưa ra yêu cầu thực hiện các biện
pháp chế tài” phải “bồi thường một cách thoả đáng cho những thiệt hại do sự lạm dụng đó
gây ra” cho bên đã bị áp dụng các biện pháp đó hoặc bị hạn chế một cách sai trái. Điều
48.1 cũng quy định rằng nguyên đơn phải trả cho bị đơn “các khoản chi phí đại diện thích
hợp”.
(b) Các chế tài hình sự
Điều 61 quy định rằng các Thành viên phải quy định các thủ tục và hình phạt hình
sự “để áp dụng ít nhất đối với các trường hợp cố ý giả mạo nhãn hiệu hoặc sao chép lậu
với quy mô thương mại”. Các hình phạt hình sự được liệt kê tại Điều này là: “phạt tù
và/hoặc phạt tiền đủ để ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền, tương ứng với mức phạt
được áp dụng cho các tội phạm có mức độ nghiêm trọng tương đương”. Ngoài ra, trong
những trường hợp thích hợp, Điều 61 quy định về việc “bắt giữ, tịch thu và tiêu huỷ hàng
hoá xâm phạm quyền và vật liệu và các phương tiện bất kỳ chủ yếu được sử dụng để thực
hiện hành vi phạm tội”. Điều 61 cũng quy định các thủ tục và chế tài hình sự được áp
dụng trong các trường hợp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ khác, “đặc biệt là trường hợp
cố ý xâm phạm và xâm phạm với quy mô thương mại”.
(c) Các biện pháp kiểm soát biên giới
Một sự đổi mới quan trọng của Hiệp định TRIPS là việc các thành viên WTO phải
quy định và thi hành các biện pháp kiểm soát biên giới để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Trên cơ sở mối quan ngại về hoạt động thương mại hàng giả mạo và hàng sao chép lậu đã
thúc đẩy sự quan tâm của GATT đến vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ, có lẽ mọi người đều
cho rằng các kiến trúc sư soạn thảo Hiệp định TRIPS sẽ trông cậy vào sự hỗ trợ của các
cơ quan hải quan để ngăn chặn hoạt động thương mại này. Mục 4 Phần III thiết lập một
cơ chế đình chỉ việc đưa vào lưu thông hàng hoá bị nghi ngờ là giả mạo nhãn hiệu hoặc
hàng hoá sao chép lậu. Việc đình chỉ thông quan có thể được thực hiện trên cơ sở đơn yêu
cầu của chủ thể quyền hoặc do các cơ quan kiểm soát biên giới chủ động thực hiện.
Điều 51 yêu cầu các Thành viên phải
ban hành và thực hiện các thủ tục cho phép chủ thể quyền, khi có những căn cứ
hợp lý để nghi ngờ rằng việc nhập khẩu các hàng hoá mang nhãn hiệu giả mạo
hoặc hàng hoá sao chép lậu có thể xảy ra, được đệ đơn cho các cơ quan hành chính

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 42
hoặc cơ quan xét xử có thẩm quyền yêu cầu các cơ quan hải quan đình chỉ thông
quan để ngăn chặn hàng hoá đó vào lưu thông tự do.
Theo như chú thích của quy định này, thuật ngữ “hàng hoá giả mạo nhãn hiệu”
được định nghĩa là “hàng hoá bất kỳ, kể cả bao bì, mang nhãn hiệu trùng với nhãn hiệu đã
được đăng ký hợp pháp cho hàng hoá đó hoặc không thể phân biệt với nhãn hiệu đó về
những khía cạnh cơ bản, mà không được phép và do vậy xâm phạm quyền của chủ sở hữu
nhãn hiệu đó theo luật của nước nhập khẩu”. Thuật ngữ “hàng hóa sao chép lậu” được
định nghĩa là “hàng hoá bất kỳ là bản sao được làm ra mà không có sự đồng ý của người
nắm giữ quyền hoặc người được phép của người nắm giữ quyền ở nước sản xuất, và hàng
hoá đó được làm ra trực tiếp hoặc gián tiếp từ một sản phẩm mà việc làm ra bản sao sản
phẩm đó cấu thành hành vi xâm phạm quyền tác giả hoặc quyền liên quan theo luật của
nước nhập khẩu.”
Ngoài việc đình chỉ thông quan hàng hoá bị nghi ngờ giả mạo nhãn hiệu hoặc hàng
hoá sao chép lậu, Điều 51 còn quy định rằng biện pháp đình chỉ thông quan cũng có thể
được áp dụng đối với hành vi xâm phạm các quyền sở hữu trí tuệ khác.
Một sự đổi mới đặc biệt hữu ích trong quy định về kiểm soát biên giới là thẩm
quyền được trao theo Điều 57 cho phép các Thành viên quy định cho các cơ quan có thẩm
quyền, đối với vụ việc được phán quyết thuận theo yêu cầu của chủ thể quyền, quyền
thông báo cho chủ thể quyền biết về “tên và địa chỉ của người gửi hàng, người nhập khẩu
và người nhập khẩu theo uỷ thác và về số lượng của hàng hoá đó”. Điều này sẽ hỗ trợ một
cách rõ ràng cho chủ thể quyền trong việc tiếp tục điều tra để phát hiện ra những người
khác có liên quan đến hàng giả mạo và hàng sao chép lậu.
Điều 58 dự tính rằng các Thành viên có thể cho phép các cơ quan có thẩm quyền
chủ động hành động trong việc đình chỉ thông quan hàng hoá nếu họ có được những
chứng cứ hiển nhiên về sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trong những tình huống như
vậy, Điều này cho phép các cơ quan có thẩm quyền được “yêu cầu chủ thể quyền cung
cấp những thông tin có thể giúp họ thực hiện quyền lực đó”
Thi hành các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS
Hiệp định TRIPS buộc các Nước thành viên phải ban hành pháp luật về sở hữu trí
tuệ tuân thủ các tiêu chuẩn tối thiểu được quy định trong Hiệp định. Vì Hiệp định liên
quan đến một số tiêu chuẩn được đề cập trong các điều ước về sở hữu trí tuệ đã tồn tại từ
trước, ví dụ Công ước Pari, Công ước Berne và Công ước Rome, do vậy vấn đề thi hành

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 43
các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS không phải là vấn đề quá khó khăn đối với hầu hết
các nước. Sau đây là những lĩnh vực mà có thể yêu cầu phải có quy định pháp luật mới để
điều chỉnh.
Nhãn hiệu
Các yêu cầu của Hiệp định TRIPS thường sẽ đòi hỏi các nước thành viên phải mở
rộng việc kiểm tra khả năng được đăng ký của nhãn hiệu, chấp nhận chế độ kiểm tra của
Hiệp định TRIPS về “có khả năng phân biệt” bổ sung cho khả năng tự phân biệt. Với một
số nước, định nghĩa về dấu hiệu có khả năng đăng ký của Hiệp định TRIPS là một lĩnh
vực then chốt của việc sửa đổi pháp luật trong nước vì đã có sự thừa nhận rộng rãi rằng
thị trường đã mở rộng đến mức định nghĩa trước đây về “nhãn hiệu” không thể hiện đầy
đủ phạm vi các dấu hiệu phân biệt được sử dụng trong thương mại. Hiệp định TRIPS đã
đưa ra một điểm phân biệt rất hữu ích giữa bản thân một nhãn hiệu với các dấu hiệu hoặc
sự kết hợp của các dấu hiệu có thể tạo thành một nhãn hiệu. Hiệp định TRIPS cũng chứa
đựng một tiêu chí hữu ích về khả năng nhìn thấy được bằng mắt thường đối với các dấu
hiệu có khả năng đăng ký mà có thể bao gồm các khía cạnh của bao bì, hình dạng sản
phẩm, màu sắc, âm thanh hoặc mùi vị.
Hiệp định TRIPS tiếp tục áp dụng các tiêu chuẩn cụ thể cho việc bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng được quy định tại Công ước Pari và làm rõ cũng như bổ sung các quy định này, cụ
thể là
o bằng việc mở rộng việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng cho các dịch vụ,
o bằng việc quy định rằng bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng áp dụng cho các hành vi sử
dụng liên quan đến các hàng hoá hoặc dịch vụ không liên quan đến hàng hoá hoặc
dịch vụ đã đăng ký, với điều kiện việc sử dụng nhãn hiệu như vậy có thể biểu thị
một mối quan hệ với chủ sở hữu nhãn hiệu và lợi ích của chủ sở hữu có thể bị thiệt
hại.
o bằng việc yêu cầu rằng trong quá trình xác định một nhãn hiệu có nổi tiếng hay
không, phải tính đến sự biết đến nhãn hiệu của bộ phận công chúng có liên quan,
trong đó có việc biết đến nhãn hiệu do kết quả của hoạt động quảng cáo nhãn hiệu.
Sáng chế
Đối với hầu hết các nước phát triển, các nghĩa vụ liên quan đến sáng chế của Hiệp
định TRIPS chủ yếu đòi hỏi:

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 44
o kéo dài thời hạn bảo hộ sáng chế chuẩn lên 20 năm
o chuyển nghĩa vụ chứng minh trong các vụ xâm phạm độc quyền đối với sáng chế
về quy trình, với điều kiện toà án phải tính đến các lợi ích hợp pháp của bị đơn
trong việc bảo vệ bí mật kinh doanh và bí mật sản xuất
o áp dụng các quy định của Điều 31 về li-xăng cưỡng bức, đặc biệt yêu cầu đối với
toà án trong việc xác định người nộp đơn yêu cầu cấp li-xăng cưỡng bức đã nỗ lực
trong một thời hạn hợp lý để được chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế cho phép
khai thác sáng chế với những điều khoản và điều kiện hợp lý.
Đối với một số nước đang phát triển, việc mở rộng phạm vi bảo hộ tới các quy trình
cũng như các sản phẩm đòi hỏi những thay đổi đáng kể về luật pháp.
Bằng độc quyền sáng chế, Quyền đối với giống cây trồng và sáng chế về công nghệ
sinh học
Điều 27.3(b) Hiệp định TRIPS yêu cầu rằng “các Thành viên phải bảo hộ giống
cây trồng hoặc theo bằng độc quyền sáng chế hoặc theo một hệ thống riêng hữu hiệu hoặc
theo hệ thống kết hợp cả hai”. Điều này cũng quy định rằng “các quy định của khoản này
phải được rà soát lại sau 4 năm kể từ ngày Hiệp định WTO bắt đầu có hiệu lực”. Theo sự
rà soát được bắt đầu vào năm 1999, đã có một sự tranh cãi sôi nổi về nội dung của các hệ
thống riêng có thể tuân thủ Điều 27.3(b).
Vì không có quy định nào của Hiệp định TRIPS dẫn chiếu đến Công ước quốc tế
về bảo hộ giống cây trồng mới (Công ước UPOV), cần cân nhắc đến sự chậm trễ trong
việc thiết lập một hệ thống riêng. Hơn nữa, các yếu tố then chốt cho việc phát triển hệ
thống riêng là không rõ ràng hoặc không được xác định. Trước hết, có thể có nhiều cách
thức xác định thuật ngữ giống cây trồng. Để được bảo hộ theo hệ thống quyền của nhà tạo
giống cây trồng truyền thống (PBR), giống cây trồng phải đáp ứng tiêu chuẩn về tính
khác biệt, tính đồng nhất và tính ổn định (DUS). Có ý kiến đề xuất rằng “tính đồng nhất”
và “tính ổn định” có thể được thay thế bằng tiêu chuẩn về khả năng nhận dạng, cho phép
gộp các quần thể cây trồng mà không đồng nhất hơn, nhờ vậy quan tâm được đến lợi ích
của các cộng đồng bản địa. Phạm vi bảo hộ có thể chỉ giới hạn ở các bộ phận nhân giống
của cây hoặc có thể được mở rộng để bao gồm cả các vật liệu thu hoạch.