
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 14
TRIPS, cùng với các điều tương ứng của Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp.
Điều 211(a)(1) Đạo luật này của Hoa Kỳ nhằm cấm các giao dịch “liên quan đến nhãn
hiệu, tên thương mại hoặc tên kinh doanh” trùng hoặc hầu như tương tự với một nhãn
hiệu, tên thương mại hoặc tên kinh doanh được sử dụng gắn liền với một doanh nghiệp
hoặc tài sản đã bị Chính phủ Cuba tịch thu, trừ trường hợp có sự đồng ý của chủ sở hữu
ban đầu, hoặc người kế thừa nhãn hiệu, tên thương mại hoặc tên kinh doanh đó.” Điều
211(a)(2) quy định rằng toà án bất kỳ của Hoa Kỳ cũng không được phép “công nhận, thi
hành hoặc phê chuẩn theo cách khác yêu cầu đòi quyền bất kỳ” của một “công dân được
chỉ định” trên cơ sở quyền theo luật chung (luật án lệ) hoặc theo Điều 515305 Phần 31,
Bộ Quy chế Hoa Kỳ, theo đó Quy chế về Kiểm soát các tài sản của Cuba đã được ban
hành.
EC đã lập luận rằng điều 211(a) (1) trái với Điều 2.1 Hiệp định TRIPS cùng với
Điều 6quinquies Công ước Pari và Điều 15.1 Hiệp định TRIPS. Lập luận này đã bị Hội
đồng giải quyết tranh chấp của WTO bác bỏ. Tuy nhiên, Hội đồng giải quyết tranh chấp
đã chấp nhận lập luận của EC rằng điều 211(a)(2) không phù hợp với Điều 16.1 và Điều
42 Hiệp định TRIPS, nhưng không trái với Điều 2.1 Hiệp định TRIPS cùng với các Điều
6bis và Điều 8 Công ước Pari và không trái với Điều 4 Hiệp định TRIPS. Hội đồng cũng
phán quyết rằng các tên thương mại không phải là một loại quyền sở hữu trí tuệ được bao
hàm trong Hiệp định TRIPS. Cả hai bên đều đã khiếu nại các phán quyết này.
Hoa Kỳ lập luận rằng giải thích về Điều 211 của Hội đồng giải quyết tranh chấp là
một vấn đề của thực tiễn và do đó không thuộc thẩm quyền phán quyết của Hội đồng giải
quyết tranh chấp vốn được giới hạn ở các vấn đề về luật pháp. Lập luận này đã bị Hội
đồng giải quyết khiếu nại bác bỏ, tiếp theo phán quyết của Hội đồng này về vụ tranh chấp
giữa Hoa Kỳ và Ấn Độ về việc cấp bằng độc quyền sáng chế cho dược phẩm, theo đó
“luật pháp cấp tỉnh cũng có thể tạo thành chứng cứ về việc tuân thủ hay không tuân thủ
các nghĩa vụ quốc tế”30 và do đó Hội đồng giải quyết khiếu nại cũng có quyền xem xét
giải thích của Hội đồng giải quyết tranh chấp về ý nghĩa của Điều 211 đạo luật này của
Hoa Kỳ.31
Vấn đề trong vụ tranh chấp này, theo đó nêu ra các câu hỏi về việc giải thích các
điều ước quốc tế, là các tên thương mại có được bao hàm bởi Hiệp định TRIPS hay
không. Điều 8 Công ước Pari quy định rằng tên thương mại “phải được bảo hộ ở tất cả
các nước thuộc Liên hiệp mà không phải thực hiện nghĩa vụ nộp đơn đăng ký, bất kể tên
thương mại đó có tạo thành một phần của nhãn hiệu hay không”. Hội đồng giải quyết
tranh chấp đã phán quyết rằng tên thương mại không thuộc các loại đối tượng sở hữu trí
tuệ mà Hiệp định TRIPS áp dụng. Hội đồng đã dựa vào Điều 1.2 Hiệp định TRIPS để đưa
ra kết luận, theo đó “Nhằm mục đích của Hiệp định này, thuật ngữ “sở hữu trí tuệ” đề cập

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 15
đến tất cả các phạm trù sở hữu trí tuệ là đối tượng của các Mục từ 1 đến 7 Phần II”. Áp
dụng các nguyên tắc giải thích quy định tại Điều 31 Công ước Viên, Hội đồng đã tuyên
bố rằng “cách giải thích theo đúng nguyên văn của Điều 1.2 là điều này đưa ra một định
nghĩa mang tính loại trừ và điều đó được khẳng định bởi cụm từ “tất cả các phạm trù”,
trong đó từ “tất cả” chỉ ra rằng đây là một danh mục không đầy đủ”.32 Về việc không
xuất hiện đối tượng tên thương mại trong các mục từ 1 đến 7 Phần II Hiệp định TRIPS,
Hội đồng đã xác nhận vấn đề này.
Hội đồng giải quyết khiếu nại không nhất trí với Hội đồng giải quyết tranh chấp về
vấn đề này. Hội đồng lưu ý rằng Điều 8 Công ước Pari chỉ liên quan đến tên thương mại
đã được nhập vào Hiệp định TRIPS theo quy định tại Điều 2.1. Hội đồng giải quyết khiếu
nại đã dẫn chiếu đến tuyên bố trước đó của mình trong vụ US-Gasoline, rằng
Một trong số những hệ quả của “quy tắc giải thích chung” trong Công ước Viên là
việc giải thích phải đưa ra nghĩa và hiệu lực cho tất cả các điều khoản của một
điều ước. Người giải thích không được tự do đưa ra một cách giải thích có thể dẫn
đến kết cục là làm cho cả các điều khoản hoặc các đoạn văn của một điều ước trở
nên thừa hoặc vô nghĩa.33
Hội đồng giải quyết khiếu nại cho rằng giải thích của Hội đồng giải quyết tranh chấp có
thể có nghĩa rằng việc đưa Điều 8 Công ước Pari vào Hiệp định TRIPS là vô nghĩa. Hội
đồng giải quyết khiếu nại cũng đã bác bỏ giải thích của Hội đồng giải quyết tranh chấp về
lịch sử đàm phán Hiệp định TRIPS. Cụ thể, Hội đồng đã phản bác những tài liệu mà Hội
đồng giải quyết tranh chấp đã dựa vào để giải thích là không có sự đề cập đến tên thương
mại.34
Hội đồng giải quyết khiếu nại đã đưa ra một trong số những kết luận là điều 211
đạo luật của Hoa Kỳ không phù hợp với Điều 2.1 Hiệp định TRIPS, cũng như Điều 8 của
Công ước Paris.
1 Nguyên tắc về việc các điều ước quốc tế phải được thi hành một cách thiện chí.
2 T. Cottier, ‘Dispute Settlement in the World Trade Organization: Characteristics
and Structural Implications for the European Union’ (1998) 35 Common Market Law Rev.
325.
3 UNDP, Human Rights and Human Development, New York, UNDP, 2000, 83-88.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 16
4 Xem UN Commission on Human Rights, Sub-Commission on Prevention of
Discrimination and Protection of Minorities, ‘Draft UN Declaration on the Rights
of Indigenous Peoples’ (1995) 34 ILM 541.
5 WTO, Báo cáo của Hội đồng giải quyết tranh chấp, WT/DS50/R, 5 tháng 9 năm
1997, đoạn 7.18.
6 Trong cùng tài liệu nêu trên .
7 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 7.24.
8 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 7.27.
9 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 7.29.
10 Ví dụ, Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại của WTO về vụ “Thuế của Hoa
Kỳ áp dụng cho dầu lửa và một số chất được nhập khẩu” ngày 17 tháng 6 năm
1987, BISD/34S/1, đoạn 5.2.2.
11 Báo cáo của Hội đồng giải quyết tranh chấp của WTOWT/DS50/R, 5/9/1997, đoạn
7.30.
12 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 742.
13 Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại của WTO về ‘Việc bảo hộ patent của
Ấn Độ đối với dược phẩm và sản phẩm hoá nông”, 1997, đoạn 34-42.
14 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 45.
15 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 46.
16 Trong cùng tài liệu nêu trên
17 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 55.
18 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 57.
19 Báo cáo của Hội đồng giải quyết tranh chấp, WT/DS170/R, 5/5/2000, đoạn 7.1.
20 Báo cáo của Cơ quan giải quyết khiếu nại, WT/DS170/170/AB/R, 17/9/2000, đoạn
53.
21 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 59-60.
22 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 72.
23 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 73.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 17
24 Báo cáo của Uỷ ban Tư pháp Hạ viện, Tiểu ban Toà án, và
Báo cáo của Hạ viện về vấn đề sở hữu trí tuệ số 94-1733, 94th Cong 2nd Sess. 75
(1976) được trích dẫn cùng tài liệu nêu trên, đoạn 2.5.
25 Báo cáo của Ban bồi thẩm WT/DS160/R, 15/06/2000, đoạn 6.43.
26 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 6.53
27 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 6.55.
28 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 6.60-6.66.
29 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 6.265.
30 Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại WT/DS50/AB/R, được thông qua ngày
16/01/1998, đoạn 65.
31 Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại WT/DS176/AB/R, được thông qua
ngày 2/01/2002, đoạn 105.
32 Báo cáo của Ban bồi thẩm WT/DS/176/R, 6/8/2001, đoạn 8.26.
33 Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại, United States-Standards for
Reformulated and Conventional Gasoline, WT/DS2/AB/R, thông qua ngày
01/11/1996, đoạn 106.
34 Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại trong tài liệu nêu trên, đoạn 339.
2. Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp năm 1883
Lịch sử
Trong suốt cuối thế kỷ 19, trước khi có sự ra đời của các công ước quốc tế trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp, việc bảo hộ các quyền sở hữu công nghiệp tại các quốc gia
khác nhau trên thế giới là khó khăn vì luật pháp tại các nước này rất đa dạng. Hơn nữa,
đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế phải được nộp đồng thời tại tất cả các quốc gia
nhằm tránh hệ quả là việc công bố tại một quốc gia sẽ làm mất tính mới của sáng chế đó
tại các quốc gia khác. Những vấn đề thực tiễn này đã thúc đẩy mong muốn khắc phục
được các trở ngại đó.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 18
Trong nửa cuối thế kỷ 19, sự phát triển của công nghệ theo xu hướng quốc tế hoá
và sự tăng trưởng của thương mại quốc tế khiến cho việc hài hoà hoá pháp luật về sở hữu
công nghiệp về cả lĩnh vực nhãn hiệu và sáng chế trở nên cấp thiết.
Khi Chính phủ hai nước Áo-Hungary mời các quốc gia khác tham dự một triển lãm
quốc tế về sáng chế được tổ chức tại Viên năm 1873 thì một thực tế đã cản trở sự tham dự
này là nhiều khách mời nước ngoài không sẵn sàng trưng bày các sáng chế của họ tại triển
lãm đó do chưa có sự bảo hộ pháp lý thoả đáng đối với các sáng chế được mang đến triển
lãm đó.
Điều này dẫn đến hai xu hướng: thứ nhất, một luật đặc biệt của Áo bảo đảm sự bảo
hộ tạm thời cho sáng chế, nhãn hiệu, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp của tất cả những
người nước ngoài tham gia triển lãm đó. Thứ hai, Hội nghị Viên về cải cách chế độ bảo
hộ sáng chế đã được nhóm họp trong cùng năm đó, năm 1973. Hội nghị đã soạn thảo một
số nguyên tắc là cơ sở cần có của một hệ thống sáng chế hữu ích và có hiệu quả và cũng
đã thúc giục các chính phủ “phải tạo ra một thoả thuận sơ bộ quốc tế về bảo hộ sáng chế
càng sớm càng tốt.”
Tiếp theo Hội nghị Viên, một Hội nghị quốc tế về sở hữu công nghiệp đã được
nhóm họp tại Pari năm 1878. Kết quả chính của hội nghị này là một quyết định rằng một
trong số các chính phủ được yêu cầu phải triệu tập một hội nghị ngoại giao quốc tế “với
nhiệm vụ là xác định cơ sở của một hệ thống pháp luật thống nhất” trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp.
Sau hội nghị đó, bản dự thảo cuối cùng đề xuất thành lập một “hiệp hội” quốc tế về
bảo hộ sở hữu công nghiệp đã được chuẩn bị tại Pháp và đã được Chính phủ Pháp gửi tới
nhiều quốc gia khác cùng với lời mời tham dự Hội nghị quốc tế vào năm 1880 tại Pari.
Hội nghị quốc tế đó đã thông qua một bản dự thảo công ước mà về cơ bản bao gồm
những quy định chủ yếu của Công ước Pari ngày nay.
Năm 1883, một Hội nghị ngoại giao mới được nhóm họp tại Pari, kết thúc bằng
việc ký kết và thông qua lần cuối cùng Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp.
Công ước Pari đã được 11 quốc gia tham gia ký kết: Bỉ, Bra-xin, El Sanvado, Pháp,
Guatemala, Italia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Secbia, Tây Ban Nha và Thuỵ Sĩ. Khi Công ước
có hiệu lực vào ngày 7 tháng 7 năm 1884 thì Vương quốc Anh, Tuynidi và Ecuado cũng
đã tham gia Công ước, khiến số lượng thành viên ban đầu tăng lên thành 14. Chỉ trong
vòng một phần tư đầu thế kỷ 20 và đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới thứ II, số lượng
thành viên của Công ước Pari đã tăng lên đáng kể.

