TP CHÍ Y HC VIT NAM TP 474 - THÁNG 1 - S 2 - 2019
107
men răng giai đoạn này rất dễ nhầm với răng
lành.
Tóm lại:
Qua các kết quả nghiên cứu
chúng tôi tìm hiểu so nh được cho thấy tỷ
lệ sâu răng trẻ em nước ta đang mức cao
chiều hướng tăng lên, tương đương với một
số nước châu Á nhưng so với các nước phát
triển, đặc biệt Hoa Kỳ thì đây tỷ lệ sâu răng
thấp hơn, số lượng trẻ được điều trị cao hơn
4.3. Một số thói quen vệ sinh răng miệng
trẻ: Vthói quen vệ sinh răng miệng, kết quả
tại Biểu đồ 3.21 cho thấy đa số học sinh có thói
quen súc miệng sau khi ăn (48,0%) và một phần
lớn số học sinh thói quen chải răng (30,8%),
số còn lại (21,2%) thói quen dùng m. Trẻ
cũng thói quen chải răng 2 lần một ngày vào
thời điểm buổi sáng tối (78,6%) chủ yếu
nhưng vẫn còn 22,1% học sinh chải ng 1 lần
trong ngày 0,2% không chải răng. Thời gian
chải răng phần lớn trong vòng 2 phút (47,5%)
chỉ 14,2% học sinh chải răng đúng kỹ
thuật, 47,5% học sinh chải ng không đủ thời
gian. 38,3% số trẻ thay bàn chải từ 3 lần trở
lên trong năm trong đó vẫn 2,7% số trẻ
không thay bàn chải lần nào (Bảng 3.5). Chải
răng biện pháp VSRM được nhiu nghiên cu
chng minh, nghiên cu ca Trương Mạnh Dũng
và cs (2011) v các yếu t liên quan đến thực
trạng bệnh răng miệng của trẻ em Việt Nam cho
thấy số trẻ chải răng ngày 3 lần chỉ chiếm 5,5%,
đa số tr chi ng vẫn chưa đ thời gian để
th làm sch toàn bộ hai hàm răng, thói quen ăn
vặt của tr chiếm t lệ cao (67,5%) [7].
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn sâu răng vĩnh viễn
giai đoạn sớm học sinh 7-8 tuổi mức cao;
kiến thức, thái độ thực hành chăm sóc răng
miệng của học sinh còn kém.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Peterson P.E (2003). Continuous improvement
of oral health in the 21st century the approach of
the WHO Global Oral Health Programme,
The
World Oral Health Report
, 3-24.
2. Trần Văn Trường cs (2002).
Điều tra sức
khỏe răng miệng toàn quốc
, Nhà xut bản Y học,
Hà Nội, 41-42.
3. Department of Health and Human Services
(2000). Healthy People 2010, vol II. 2nd ed. Washington,
DC: U.S.
Government Printing Office
, 2111- 2115.
4. Mạnh Tuấn (2013).
Nghiên cứu dự phòng
sâu răng bằng Gel fluor
, Luận án Tiến y học,
Trường Đại học Y Hà Nội.
5. Mạnh Tuấn, Phạm Thị Thu Hiền, Nguyn
Kỳ Nhân và cs (2011). Khảo sát thực trạng bệnh
sâu răng các yếu tố ảnh hưởng tới sự cân bằng
sâu răng trên trẻ 7-8 tuổi tại Quảng Bình năm
2011,
Tạp chí Y học thực hành
, (793), 81-85.
6. Dye BA, Thornton-Evans G, Li X, Iafolla TJ.
(2015). Dental caries and sealant prevalence in
children and adolescents in the United States,
20112012. NCHS data brief, 191.
7. Trương Mạnh Dũng, Mạnh Tuấn (2011).
Thực trạng bệnh răng miệng một số yếu tố liên
quan trẻ 4-8 tuổi tại 5 tỉnh thành của Việt Nam
năm 2010.
Tạp chí Y học thực hành
, 793, 91-96.
MỨC ĐỘ STRESS VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN STRESS Ở CÁC
BÀ MẸ CÓ CON NẰM TẠI PHÒNG CÁCH LY CỦA KHOA SƠ SINH
Hà Mạnh Tuấn*
TÓM TẮT28
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ các bà mẹ có con nằm tại
phòng cách ly khoa sinh bị stress các yếu tố
liên quan đến tình trạng stress của các mẹ.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt
ngang mô tả. Các bà mẹ có con nằm tại phòng cách ly
của khoa sinh đủ tiêu chuẩn chọn mẫu sẽ được
phỏng vấn bằng bảng câu hỏi. Bảng câu hỏi gồm 2
phần; phần 1 các thông tin liên quan đến mẹ,
gia đình con; phần 2 gồm 21 câu hỏi đánh giá về
tình trạng stress của các mẹ theo thang đo DASS
21. Các số liệu thống được xử bằng phầm mềm
Stata 12.0. Kết quả nghiên cứu:150 bà mẹ thỏa
*Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Chịu trách nhiệm chính: Hà Mạnh Tuấn
Email: hamanhtuan@ump.edu.vn
Ngày nhận bài: 16.11.2018
Ngày phản biện khoa học: 16.12.2018
Ngày duyệt bài: 25.12.2018
tiêu chuẩn được khảo sát. Tỷ lệ các mẹ bị stress
75,3%, trong đó mức độ nhẹ 12,0%; trung bình
16,7%; nặng: 26,6%; rất nặng: 20,0%. Chưa ghi
nhận các đặc điểm của mẹ con liên quan ý
nghĩa thống đến tình trạng stress của người mẹ,
tuy nhiên sự tăng tỷ lệ stress ở nhóm các bà mẹ
thu nhập thấp, ly hôn, nghề nghiệp tự do, sống
ngoài thành phố Hồ Chí Minh, và số con ≥ 3 trên 10%
so với bà mẹ ở nhóm tương ứng. Yếu tố cách ly mẹ và
con yếu tố chính gây ra stress người mẹ. Kết
luận: Stress người mẹ con nằm phòng cách ly
một tình trạng khá phổ biến, yếu tố chính gây
ra stress sự cách ly giữa mẹ con. Các yếu tố
khác về kinh tế, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, số
con trong gia đình thể góp phần đối với stress. Cần
tăng cường stham gia của người mẹ vào trong quá
trình chăm sóc trẻ khi trẻ bị cách ly biện pháp quan
trọng để cải thiện tình trạng stress người mẹ kết
qảu điều trị ở trẻ bệnh.
Từ ka: stress; phòng cách ly; trẻ sinh; m
vietnam medical journal n02 - JANUARY - 2019
108
SUMMARY
STRESS AND FACTORS RELATED TO STRESS IN
THE MOTHERS WITH NEONATE STAYING IN
ISOLATION ROOM OF NEONATAL DEPARTMENT
Objective: To identify the proportion of mothers
suffering stress who have neonates staying in the
isolation rooms of the Neonatal Department and
factors related to mothers' stress status. Methods: A
descriptive cross-sectional study. Mothers with
children staying in the isolation room of the Neonatal
Department eligible for enrollment would be
interviewed with questionnaires. The questionnaire
consists of 2 parts; Part 1 contains data about
mothers, families and children; Part 2 contains 21
questions of DASS 21 assessing the stress situation of
mothers. Data were processed by Stata software 12.0.
Results: 150 mothers met the criteria to be surveyed.
The rate of stressed mothers was 75.3%, of which the
rate of mild severity was 12.0%, the rate of moderate
severity was 16.7%, the rate of severe severity was
26.6%, and the rate of extremely severe severity was
20.0%. The characteristics of mother and child were
not significantly related to the stress status of the
mother, but there was an increase over 10% in the
rate of stressed mothers among the mothers in such
group as the low-income, divorced, and free-working,
living outside Ho Chi Minh City, and the number of
children 3 compared to mothers in the
corresponding groups. Separating the mother from
their child was the main factor causing stress in the
mothers. Conclusion: Stress in a mother with a
neonate in isolation room is a quite common, but the
main factor causing stress is the separation of mothers
from their children. Other factors such as economic
factors, marital status, occupation, number of children
in the family may contribute to stress in the mothers.
Increasing the participation of mothers in the care of
children when children are isolated is an important
measure to improve the stress situation of the mother
and the results of treatment in sick neonates.
Keywords:
stress; isolation room; neonate; mother
.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trẻ sinh khi vấn đề sức khỏe cần phải
được nhập viện để theo dõi tại khoa sinh vẫn
được người mẹ tiếp tục trực tiếp chăm sóc. Tuy
nhiên có một số trường hợp do chuyênn
trẻ cần phải được theo dõi sát chăm sóc tích
cực bởi nhân viên y tế, khi đó trẻ sẽ được cách ly
khỏi mẹ. Khi trẻ sinh phải nằm phòng cách ly
yêu cầu bệnh sẽ tạo ra stress đối với người
mẹ (3). Nguyên nhân gây ra stress chủ yếu t
sự cách ly giữa người mẹ con, ngoài ra sự
thiếu thông tin của người mẹ về tình trạng của
em sự lo lắng về việc chăm sóc của nhân
viên y tế đối với con của mình cũng p phần
tạo ra stress đối với người mẹ(1),(5). Stress đối với
người mkhông chỉ tạo ra những hậu quả tiêu
cực đến bản thân người mẹ còn ảnh hưởng
đến kết quả điều trị của trẻ, cũng như sự phát
triển về nhận thức và cảm xúc sau này của trẻ(4).
Việc tìm hiểu mức đstress xảy ra trên c
mẹ con nằm cách ly tại khoa sinh sẽ giúp
chúng ta đánh giá đúng đắn về tầm quan
trọng của vấn đề này, ng như việc tìm hiểu
các yếu tố ảnh hưởng đến stress người mẹ để
từ đó biện pháp làm giảm bớt stress người
mẹ sẽ giúp cải thiện sức khỏe tinh thần người
mẹ, đồng thời thể góp phần cải thiện kết quả
điều trị trẻ sinh. Hiện tại vẫn còn ít nghiên
cứu tại Việt Nam về mức độ stress người mẹ
con nằm cách ly tại khoa sinh ng như
tìm hiểu các yếu tố liên quan đến tình trạng
stress của người mẹ khi con nằm các ly tại
khoa sinh. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu
đánh giá tỷ lệ các mẹ bị stress khi con
nằm tại phòng cách ly của khoa sơ sinh, tìm hiểu
các yếu tliến quan đến tình trạng stress này
để từ đó đề xuất c biện pháp nâng cao chất
lượng chăm sóc trẻ sơ sinh.
II. ĐI TƯNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CU
Thiết kế nghiên cứu nghiên cứu cắt ngang
mô tả có phân tích, tiến hành tại khoa Sơ sinh
bệnh viện Nhi Đồng 2 từ 01/03 đến 30/8/2015.
Dân số mục tiêu các mẹ con đang
được điều trị tại phòng cách của khoa sinh
bệnh viện Nhi Đồng 2.
Cỡ mẫu được tính theo công thức ước tính tỷ
lệ, với tỷ lệ stress nhẹ các mẹ con nằm
điều trị tại khoa săn sóc tăng cường sinh theo
nghiên cứu của Stube M (12) 10%, với sai số
5%, có cỡ mẫu ước tính 139 ca.
Tiêu chuẩn chọn mẫu:
Các mẹ đáp ứng
tiêu chí sau 1) Có con nằm điều trị trên 24 giờ tại
phòng cách ly lần đầu; 2) Đồng ý tham gia
nghiên cứu; 3) khả năng hiểu trả lời được
các câu hỏi trong phiếu khảo sát.
Tiêu chuẩn loại trừ:
Các mẹ đã từng
con nằm điều trị cách ly trước đó .
Tiến hành nghiên cứu:
Các mẹ đáp ứng
tiêu chuẩn chọn mẫu sẽ được phỏng vấn theo bộ
câu hỏi soạn sẵn gồm 2 phần. Phần 1 gồm 21
câu hỏi về các thông tin liên quan đến mẹ,
em . Phần 2 gồm 21 câu hỏi đánh giá mức độ
trầm cảm của mẹ theo thang đo DASS 21
(Depression Anxiety Stress Scales). Mức độ
stress ở các bà mẹ được đánh giá như sau: 0 -14
đ: bình thường; 15 18 đ: nhẹ; 19 25: trung
bình; 26 33: nặng; ≥ 34: rất nặng.
Xử thống kê:
Các số liệu được xử bằng
phần mềm Stata 12.0. c biến định tính được
trình bày dưới dạng tỷ lệ %. Sử dụng phép kiểm
Chi bình phương, hoặc kiểm định chính c
TP CHÍ Y HC VIT NAM TP 474 - THÁNG 1 - S 2 - 2019
109
Fisher để xác định các mối liên quan giữa stress
đặc điểm dân số nghiên cứu với khoảng tin cậy 95%, mức ý nghĩa thống của các liên
quan là p < 0,05.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Liên quan giữa stress của người mẹ với các đặc điểm của người mẹ
Đặc điểm
Chung
Bình thường
Trầm cảm
RR
KTC 95%
n (%)
n (%)
n (%)
Nhóm tuổi
< 30
76 (50,7)
20 (25,6)
56 (74,4)
0,96 (0,55-1,69)
≥ 30
74 (49,3)
19 (25,7)
55 (74,3)
Tôn giáo
101 (67,3)
25 (24,8)
76 (75,2)
0,99 (0,82-1,21)
Không
49 (32,7)
12 (24,5)
37 (75,5)
Học vấn
≤ Cấp 2
62 (41,3)
12 (19,4)
50 (80,6)
0,99 (0,51-1,94)
> Cấp 2
88 (58,7)
17 (19,3)
71 (80,7)
Nghề nghiệp
Viên chức
78 (52,0)
23 (29,5)
55 (70,5)
0,87 (0,72-1,05)
Khác
72 (48,0)
14 (19,4)
58 (80,6)
Bảo hiểm y tế
132 (88,0)
32 (24,2)
100 (75,8)
1,04 (0,77-1,41)
Không
18 (12,0)
5 (27,8)
13 (72,2)
Tuổi kết hôn
≤ 26
94 (62,7)
23 (24,5)
71 (75,5)
0,96 (0,55-1,69)
>26
56 (37,3)
14 (25,0)
42 (75,0)
Tình trạng hôn
nhân
Kết hôn
140 (93,3)
35 (25,0)
105 (75,0)
0,93 (0,67-1,29)
Ly dị
10 (6,7)
2 (20,0)
8 (80,0)
Thu nhập bình
quân
< TB
60 (40,0)
10 (16,7)
50 (83,3)
1,19 (0,62-2,27)
> TB
90 (60,0)
27 (30,0)
63 (70,0)
Nơi cư trú
TP. HCM
38 (25,3)
12 (31,6)
26 (68,4)
0,88 (0,69-1,11)
Khác
112 (74,7)
25 (22,3)
87 (77,7)
Tình trạng
sống
Ở chung
56 (37,3)
13 (23,2)
43 (76,8)
1,03 (0,85-1,24)
Ở riêng
94 (62,7)
24 (25,5)
70 (74,5)
Số thành viên
gia đình
≤ 4
86 (57,3)
24 (27,9)
62 (72,1)
0,90 (0,5 -1,63)
>4
64 (42,7)
13 (20,3)
51 (79,7)
Số con hiện
≤ 2
125 (83,3)
33 (26,4)
92 (73,6)
0,93 (0,53-1,64)
> 2
25 (16,7)
4 (16,0)
21 (84,0)
TB: trung bình; TP. HCM: thành phố Hồ Chí Minh
Nhóm tuổi chủ yếu từ 40 tuổi trxuống, cao
hơn nhiều so với nhóm > 40 tuổi (ch 4%). Độ
tuổi kết n trung bình từ 18 đến 26 tuổi chiếm
56%. Về đặc điểm nghề nghiệp thì viên chức
chiếm 52%, cao n so với nhóm làm công việc tự
do (48%). Về học vấn của các người mẹ tham gia
nghiên cứu thì tỷ lệ người mẹ trình độ từ cấp 2
tr xuống ít hơn cha mẹ trình độ trên cấp 2
(41,3 % so với 58,7%). Phần đông có tôn giáo
(67,3%). Các bệnh nhân trong nghiên cứu gần như
toàn bộ đều được ởng bảo hiểm y tế 88 % so
với nhóm kng bảo hiểm là 12 %. Đại đa số
có kết hôn và vẫn n sống chung chiếm 93,3%.
Gia đình hạt nhân (sống riêng, chvợ chồng
con i) nhiều hơn gia đình truyền thống (62,7%
so với 37, 3%). Gia đình từ 4 người trxuống
nhiều hơn gia đình từ 5 nời trlên (57,3% so
với 42,7%). Nhóm tham gia nghn cứu chủ yếu cư
ngụ c tỉnh thành khác (74,7%), ch phần ít
cư ngụ tại thành phố Hồ Chí Minh (25,3%). Thu
nhập bình quân từ trung bình trở xuống chiếm
40%, phần n lại thu nhập khá không nhiều
(13,3%). Số con hiện có chủ yếu là 1 - 2 con, từ 3
con trở lên chỉ có 16,7% (bảng 1).
Bảng 3.2 Liên quan giữa stress của người mẹ với các đặc điểm của trẻ
Đặc điểm
Chung
Stress
n (%)
RR
KTC95%
Giới tính của
trẻ
Nam
90 (60,0)
71 (78,9)
1,12 (0,92-1,37)
Nữ
60 (40,0)
42 (70,0)
Tuổi thai
< 37 tuần
46 (30,7)
37 (80,4)
1,10 (0,91-1,32)
≥ 37 tuần
104 (69,3)
76 (73,1)
Cân nặng lúc
sanh (gam)
< 2500
44 (29,3)
37 (84,1)
1,17 (0,56-2,47)
≥ 2500
106 (70,7)
76 (71,7)
Tuổi của trẻ
≤ 7 ngày
52 (34,7)
41 (78,9)
1,07 (0,57-1,99)
vietnam medical journal n02 - JANUARY - 2019
110
> 7 ngày
98 (65,3)
72 (73,5)
Thứ bậc con
trong gia đình
Con thứ 2
125 (83,3)
92 (73,6)
0,93 (0,53-1,64)
≥ Con thứ 3
25 (16,7)
21 (84,0)
Lần nhập viện
Thứ 1
139 (92,7)
104 (74,8)
0,91 (0,68-1,22)
> thứ 1
11 (7,3)
9 (81,8)
Tiền sử lúc
sanh
Can thiệp
47 (31,3)
32 (68,1)
1,15 (0,92-1,43)
Sanh thường
103 (68,7)
81 (78,6)
Tình trạng sau
sanh
Bình thường
99 (66,0)
77 (77,7)
0,94 (0,78-1,13)
Cần hồi sức
51 (34,0)
40 (78,4)
Số trẻ trong nhóm nghiên cứu về tỉ lệ trẻ nam
nhiều hơn trẻ nữ , nam 60% n40%. Vđặc
điểm tuổi thai, trẻ sanh 37 tuần tuổi chiếm ưu
thế 69,3%. n nặng của trẻ lúc sanh chủ yếu ≥
2500 gram (70,7%), trẻ rất nh cân < 1500
gram không nhiều, chỉ 6%. Về đặc điểm ngày
tuổi của trẻ không thấy sự khác biệt nhiều
giữa các nhóm < 7 ngày, 7-14 ngày >14
ngày, với tỉ lệ lần lượt 34,7%, 37,3%
28,0%. Trẻ chủ yếu con đầu lòng hoặc con
thứ 2, chỉ có số ít con thứ 3 trở lên trong gia
đình (16,7%). c trẻ đa slần đầu tiên nằm
viện hoặc từ các bệnh viện sản, bệnh viện
tuyến tỉnh chuyển trực tiếp lên (92,7%), với
phần lớn có tiền sử sanh thường (68,7%) và tình
trạng sau sanh bình thường cũng chiếm ưu
thế (66%), nhóm cần can thiệp sau sanh chỉ
34% (bảng 2).
Bảng 3. Mức độ stress của các mẹ
chăm sóc con đang được điều trị cách ly
Mức độ stress
Số ca
(n=150)
Tỷ lệ %
Bình thường
37
24,7
Stress
113
75,3
Nhẹ
18
12,0
Vừa
25
16,7
Nặng
40
26,6
Rất nặng
30
20,0
Vấn đề stress của người mẹ khi chăm sóc con
nằm trong phòng cách ly là phổ biến, chiếm đa
số trong nhóm nghiên cứu (75,3%), chỉ khoảng
1/4 là trạng thái tinh thần bình thường. Trong
nhóm các mẹ bị stress tỷ lệ các mẹ bị
stress nhẹ 12,0%, stress vừa 16,7% stress
nặng 26,6 % (bảng 3).
Chưa ghi nhận mối liên quan nào giữa stress
của mẹ con nằm tại phòng cách ly khoa
sinh với các đặc tính của người chăm sóc các
đặc điểm của trẻ ý nghĩa thống (p>0,05
với phép kiểm chi bình phương) (bảng 1, 2).
Tuy nhiên ghi nhận tỷ lcác mbị stress
cao hơn nhóm thu nhập dưới mức trung
bình, tình trạng gia đình ly dị, nghề nghiệp tự
do, từ 3 con trở lên và nơi trú ngoài
thành phố HChí Minh so với các mẹ nhóm
tương ng từ 10% trở lên (bảng 1). Đối với các
đặc điểm của con nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ
người mẹ bị stress cao hơn trên 10% so với tỷ lệ
stress của các mẹ nhóm tương ứng các đặc
điểm trẻ sanh nhẹ cân < 2500 gram, con thứ ba,
sanh thường (bảng 2).
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu này khảo sát 150 mẹ ghi
nhận tỷ lệ cha bị stress 75,3%, gấp 3 lần so
với tỷ lệ c mẹ tình trạng tâm thần bình
thường (24,7%). Tỷ lệ m bị stress mức độ
nhẹ 12,0%, vừa 16,6%, nặng là 26,7%, rất nặng
20,0%. Kết quả y cao hơn so với nghiên cứu
của Kong LP 35%, tuy nhiên tương đương với
nghiên cứu của tác giả Stube M tỷ l stress
của các mẹ con nằm tại khoa săn sóc đặc
biệt nhi là 78,9% (nhẹ 12%, vừa 16,7%, nặng
26,6% rất nặng 20%). Sự khác biệt này
thể do thang đo của các nghiên cứu khác
nhau, do đặc điểm của các mẹ khác nhau.
Nhìn chung theo nhiều nghiên cứu khi sự
cách ly mẹ con sau khi sinh bất kỳ lý do
cũng tạo ra stress trên các mẹ, tỷ lệ các
mẹ bị stress khi con bị cách ly thay đổi phụ
thuộc vào cách đánh giá, đặc điểm dân tộc, văn
hóa ở các vùng khác nhau nhưng có thể thay đổi
từ 35 75%(1),(5),(8), nguyên nhân của
chính sự ngăn cách chăm sóc tiếp xúc giữa
người mẹ con của họ(2). Ngoài ra các yếu tố
về thiếu thông tin tình trạng của con mình khi
nằm cách ly, cũng như không tin tưởng về sự
chăm sóc của nhân viên y tế c yếu tố góp
phần làm cho người mẹ bị stress nhiều hơn khi
bị cách ly khỏi trẻ(1),(3),(5).
Từ ghi nhận tỷ lệ khá cao các mẹ bị
stress khi có con bị cách ly để chăm sóc tích cực,
chúng ta nhận thấy rằng trong chăm sóc y tế
cho bệnh nhi sinh, các nhân viên y tế không
nên chỉ quan tâm đến bệnh nhi sơ sinh đang cần
điều trị, cần phải thấy rằng người mẹ cần
cũng cần được hỗ trợ rất nhiều từ phía nhân viên
y tế, từ phía bệnh viện. Những người mẹ đang
nuôi con tại khu cách ly thể những người
không vấn đvề thực thể, nhưng vấn đề
TP CHÍ Y HC VIT NAM TP 474 - THÁNG 1 - S 2 - 2019
111
về sức khỏe tâm thần. Nếu những cảm c tiêu
cực này không được giải quyết kịp thời hiệu
quả, thể gây n một chuỗi những vấn đề
về sức khỏe tâm thần khác. Tâm trạng tiêu cực
của người mẹ không những chỉ ảnh hưởng đến
sức khỏe tâm thần thực thể của chính họ,
còn thể ảnh ởng hại lên sự hòa hợp
ổn định của gia đình, ảnh hưởng đến chất
lượng chăm sóc trẻ(4),(7). Vấn đề stress của người
mẹ ảnh hưởng rất lớn đến mối quan hệ mẹ -
con sau này, đến sự phát triển của trẻ. Ngoài ra
stress thể ảnh hưởng đến giao tiếp giữa nhân
viên y tế người mẹ, làm cho người mẹ mất
niềm tin vào những người đang điều trị bệnh cho
con mình và điều này làm cho stress nặng hơn.
Để góp phần làm giảm stress những mẹ
con nằm chăm sóc đặc biệt nhiều nghiên cứu
đã chỉ ra rằng bên cạnh việc cải thiện điều kiện
sinh hoạt của người mẹ, các vấn tâm cần
thiết với người mẹ tcho phép người mẹ tham
gia vào quá trình chăm sóc một biện pháp rất
quan trọng trong việc giảm stress người
mẹ(2),(6),(7). Sự tham gia chăm sóc của người mẹ
với con thông qua stiếp xúc da kề da tiếp
xúc về cảm xúc quan trọng đối với sự khỏe
mạnh về thể chất, xúc cảm, hội cả cho mẹ
cho con, ảnh hưởng ch cực đến sự phát triển
não của trẻ, tâm của cha mẹ mối quan hệ
cha mẹ - con cái(2),(6),(7).
Khi xét mối liên quan giữa stress của người
mẹ con nằm cách ly tại khoa sinh với các
đặc tính như độ tuổi, tôn giáo, học vấn, nghề
nghiệp, bảo hiểm y tế, tuổi kết hôn, tình trạng
hôn nhân, thu nhập, nơi trú, nh trạng sống,
số thành viên trong gia đình số con hiện có,
nghiên cứu này không thấy sự liên quan ý
nghĩa thống kê. Tương tkhi xét mối liên quan
giữa tình trạng stress của người mvới các đặc
điểm của trẻ như giới tính, tuổi thai, n nặng,
ngày tuổi, th bậc trong gia đình, số lần nhập
viện, tiền sử lúc sanh tình trạng sau sanh,
nghiên cứu này không ghi nhận sự khác biệt
ý nghĩa thống kê. Kết quả này cũng được ghi
nhận trong các nghiên cứu của các tác giả
khác(1),(5). Điều này thể giải thích trong
hoàn cảnh đặc biệt người mẹ sau sanh bị tách ra
khỏi sự chăm sóc con do các do chuyên môn
thì yếu tảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với
tình trạng tinh thần của người mẹ chính sự
không có tiếp xúc giữa mẹ và con(3),(4). Tuy nhiên
trong nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ stress cao
hơn hẳn nhóm người mẹ thu nhập dưới
mức trung bình, tình trạng gia đình ly dị, nghề
nghiệp tự do, từ 3 con trở n nơi trú
ngoài thành phố Hồ Chí Minh so với các mẹ
nhóm tương ứng từ 10% trở lên (bảng 1). Điều
này cần phải nghiên cứu thêm để thể kết
luận đầy đủ hơn, nhưng qua đó cũng cho thấy
các yếu tố về kinh tế, nghề nghiệp, tình trạng
hôn nhân gia đình tác động đến sức khỏe
tâm thần của người mẹ sau khi sanh.
Tóm lại qua nghiên cứu y ghi nhận tlệ
khá cao các mẹ bị stress khi con nằm tại
phòng cách ly tại các khoa sinh. Mức độ
stress thay đổi từ nhẹ tới nặng. Hiện chưa
ghi nhận yếu tố nào của mẹ hay của con
liên quan đến mức độ stress của người mẹ, tuy
nhiên một số yếu tố liên quan đến tình hình
kinh tế, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp không
ổn định, đông con thể các yếu tố p
phần làm cho người mẹ dễ bị stress hơn.
V. KẾT LUẬN
Stress người mẹ con nằm phòng ch
ly một tình trạng khá phổ biến, yếu tố
chính gây ra stress sự cách ly giữa mẹ con.
Các yếu tố khác về kinh tế, tình trạng hôn nhân,
nghề nghiệp, số con trong gia đình thể góp
phần đối với stress. Cần tăng cường sự tham gia
của người mẹ vào trong quá trình chăm sóc trẻ
khi trẻ bị ch ly biện pháp quan trọng để cải
thiện tình trạng stress người mẹ kết qảu
điều trị ở trẻ bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ahn YM, Kim NH (2017)
,“
Parental Perception of
Neonates, Parental Stress and Education for NICU
Parents
, Asian Nursing Research,
1(3), pp.199210.
2. Aldridge MD. (2005), "Decreasing Parental Stress
in the Pediatric Intensive Care Unit:One Unit's
Experience",
Critical Care Nurse,
25 (6), pp. 40-50.
3. Bauer PJ. (1995), "The Parents' Perspective on
Neonatal Intensive Care",
Michigan Family Review
,
1 (1), pp. 47- 56.
4. Busse M, Stromgren K, Thorngate L, Thomas
KA. (2013) "Parents’ Responses to Stress in the
Neonatal Intensive Care Unit",
Neonatal Care,
33
(4), pp. 52-59.
5. Elisa Palma I, Fernanda Von Wussow K, Ignacia
Morales B, et al (2017), Stress in parents of
newborns hospitalized in a Neonatal Intensive Care
Unit”,
Rev Chil Pediatr
, 88(3), pp. 332-339.
6. Feldman R, Rosenthal Z, Eidelman AI (2014),
"Maternal-Preterm Skin-to-Skin Contact Enhances
Child Physiologic Organization and Cognitive
Control Across the First 10 Years of Life",
Biological
Psychiatry,
75 (1), pp.56 -64
.
7. Flacking R, Lehtonen L, Thomson G et al (2012),
"Closeness and separation in neonatal intensive care",
Acta Pædiatrica,
101 (10), pp. 1032-1037.
8. Guillaume S, Michelin N, Amrani E, et al (2013)
"Parents expectations of staff in the early bonding
process with their premature babies in the intensive
care setting: a qualitative multicenter study with 60
parents",
BMC Pediatrics,
13(18), pp. 2-9.