
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 474 - THÁNG 1 - SỐ 2 - 2019
107
men răng giai đoạn này rất dễ nhầm với răng
lành.
Tóm lại:
Qua các kết quả nghiên cứu mà
chúng tôi tìm hiểu và so sánh được cho thấy tỷ
lệ sâu răng ở trẻ em nước ta đang ở mức cao và
có chiều hướng tăng lên, tương đương với một
số nước châu Á nhưng so với các nước phát
triển, đặc biệt là Hoa Kỳ thì ở đây tỷ lệ sâu răng
thấp hơn, số lượng trẻ được điều trị cao hơn
4.3. Một số thói quen vệ sinh răng miệng
ở trẻ: Về thói quen vệ sinh răng miệng, kết quả
tại Biểu đồ 3.21 cho thấy đa số học sinh có thói
quen súc miệng sau khi ăn (48,0%) và một phần
lớn số học sinh có thói quen chải răng (30,8%),
số còn lại (21,2%) có thói quen dùng tăm. Trẻ
cũng có thói quen chải răng 2 lần một ngày vào
thời điểm buổi sáng và tối (78,6%) là chủ yếu
nhưng vẫn còn 22,1% học sinh chải răng 1 lần
trong ngày và 0,2% không chải răng. Thời gian
chải răng phần lớn trong vòng 2 phút (47,5%)
và chỉ có 14,2% học sinh chải răng đúng kỹ
thuật, 47,5% học sinh chải răng không đủ thời
gian. Có 38,3% số trẻ thay bàn chải từ 3 lần trở
lên trong năm trong đó vẫn có 2,7% số trẻ
không thay bàn chải lần nào (Bảng 3.5). Chải
răng là biện pháp VSRM được nhiều nghiên cứu
chứng minh, nghiên cứu của Trương Mạnh Dũng
và cs (2011) về các yếu tố liên quan đến thực
trạng bệnh răng miệng của trẻ em Việt Nam cho
thấy số trẻ chải răng ngày 3 lần chỉ chiếm 5,5%,
đa số trẻ chải răng vẫn chưa đủ thời gian để có
thể làm sạch toàn bộ hai hàm răng, thói quen ăn
vặt của trẻ chiếm tỷ lệ cao (67,5%) [7].
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn và sâu răng vĩnh viễn
giai đoạn sớm ở học sinh 7-8 tuổi ở mức cao;
kiến thức, thái độ và thực hành chăm sóc răng
miệng của học sinh còn kém.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Peterson P.E (2003). Continuous improvement
of oral health in the 21st century – the approach of
the WHO Global Oral Health Programme,
The
World Oral Health Report
, 3-24.
2. Trần Văn Trường và cs (2002).
Điều tra sức
khỏe răng miệng toàn quốc
, Nhà xuất bản Y học,
Hà Nội, 41-42.
3. Department of Health and Human Services
(2000). Healthy People 2010, vol II. 2nd ed. Washington,
DC: U.S.
Government Printing Office
, 2111- 2115.
4. Vũ Mạnh Tuấn (2013).
Nghiên cứu dự phòng
sâu răng bằng Gel fluor
, Luận án Tiến sĩ y học,
Trường Đại học Y Hà Nội.
5. Vũ Mạnh Tuấn, Phạm Thị Thu Hiền, Nguyn
Kỳ Nhân và cs (2011). Khảo sát thực trạng bệnh
sâu răng và các yếu tố ảnh hưởng tới sự cân bằng
sâu răng trên trẻ 7-8 tuổi tại Quảng Bình năm
2011,
Tạp chí Y học thực hành
, (793), 81-85.
6. Dye BA, Thornton-Evans G, Li X, Iafolla TJ.
(2015). Dental caries and sealant prevalence in
children and adolescents in the United States,
2011–2012. NCHS data brief, 191.
7. Trương Mạnh Dũng, Vũ Mạnh Tuấn (2011).
Thực trạng bệnh răng miệng và một số yếu tố liên
quan ở trẻ 4-8 tuổi tại 5 tỉnh thành của Việt Nam
năm 2010.
Tạp chí Y học thực hành
, 793, 91-96.
MỨC ĐỘ STRESS VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN STRESS Ở CÁC
BÀ MẸ CÓ CON NẰM TẠI PHÒNG CÁCH LY CỦA KHOA SƠ SINH
Hà Mạnh Tuấn*
TÓM TẮT28
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ các bà mẹ có con nằm tại
phòng cách ly khoa sơ sinh bị stress và các yếu tố có
liên quan đến tình trạng stress của các bà mẹ.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt
ngang mô tả. Các bà mẹ có con nằm tại phòng cách ly
của khoa sơ sinh đủ tiêu chuẩn chọn mẫu sẽ được
phỏng vấn bằng bảng câu hỏi. Bảng câu hỏi gồm 2
phần; phần 1 là các thông tin liên quan đến bà mẹ,
gia đình và con; phần 2 gồm 21 câu hỏi đánh giá về
tình trạng stress của các bà mẹ theo thang đo DASS
21. Các số liệu thống kê được xử lý bằng phầm mềm
Stata 12.0. Kết quả nghiên cứu: Có 150 bà mẹ thỏa
*Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Chịu trách nhiệm chính: Hà Mạnh Tuấn
Email: hamanhtuan@ump.edu.vn
Ngày nhận bài: 16.11.2018
Ngày phản biện khoa học: 16.12.2018
Ngày duyệt bài: 25.12.2018
tiêu chuẩn được khảo sát. Tỷ lệ các bà mẹ bị stress là
75,3%, trong đó mức độ nhẹ là 12,0%; trung bình là
16,7%; nặng: 26,6%; rất nặng: 20,0%. Chưa ghi
nhận các đặc điểm của mẹ và con liên quan có ý
nghĩa thống kê đến tình trạng stress của người mẹ,
tuy nhiên có sự tăng tỷ lệ stress ở nhóm các bà mẹ có
thu nhập thấp, ly hôn, nghề nghiệp tự do, sống ở
ngoài thành phố Hồ Chí Minh, và số con ≥ 3 trên 10%
so với bà mẹ ở nhóm tương ứng. Yếu tố cách ly mẹ và
con là yếu tố chính gây ra stress ở người mẹ. Kết
luận: Stress ở người mẹ có con nằm ở phòng cách ly
là một tình trạng khá phổ biến, mà yếu tố chính gây
ra stress là sự cách ly giữa mẹ và con. Các yếu tố
khác về kinh tế, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, số
con trong gia đình có thể góp phần đối với stress. Cần
tăng cường sự tham gia của người mẹ vào trong quá
trình chăm sóc trẻ khi trẻ bị cách ly là biện pháp quan
trọng để cải thiện tình trạng stress ở người mẹ và kết
qảu điều trị ở trẻ bệnh.
Từ khóa: stress; phòng cách ly; trẻ sơ sinh; bà mẹ