
TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP4.0 ĐẾN LAO ĐỘNG
NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
TS. Nguyễn KếNghĩa
Đại học Kinh tếQuốc dân
Tóm tắt
Tại Việt Nam, ngành dệt may có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội đó là môt
trong những ngành sử dụng nhiều lao động. Lao động trong ngành dệt may chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng lao động của các ngành chế biến, chế tạo, trong đó ngành may
(sản xuất trang phục) thu hút khoảng ¼ trong tổng sốlao động ngành công nghiệp và
có xu hướng tăng qua các năm. Dệt may là một trong những ngành có kim ngạch xuất
khẩu lớn nhất của Việt Nam trong những năm gần đây. Sự tham gia sâu của các
doanh nghiệp nước ngoài có thểđẩy quá trình thay đổi các phương thức sản xuất của
ngành này theo xu hướng của Các mạng công nghiệp 4.0 xảy ra nhanh hơn. Báo cáo
của ILO (2016) cũng đánh giá trong số các ngành công nghiệp chế biến chế tạo của
Việt Nam thì ngành dệt may chịu tác động mạnh mẽ nhất của quá trình tựđộng hóa.
Bài viết này tập trung vào phân tích tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 lên lao
động của ngành dệt may.
Từkhóa: Cách mạng Công nghiệp lần thứ4, ngành dệt may, lao động dệt may.
Abstracts
In Vietnam, the textile and garment industry has a significant impact on the
social economy as it is one of the labour-intensive industries. Labour in the textile and
garment industry makes up a large proportion of labour used in the processing and
manufacturing sector. Garment industry (clothing manufacturers) attracts one-fourth
of the gross number of labours used in the industrial sector and is in a growing trend.
Textile and garment industry is one of the industries having biggest import and export
turnover in recent years. The participation of foreign enterprises would push this
industry into applying production methods of industrial revolution 4.0 more quickly.
The ILO report in 2016 also suggested that in the processing and manufacturing
sector, automation would have the biggest impact on the textile and garment industry.
This paper focuses on analyzing the impact of the industrial revolution 4.0 on labour
in Vietnam’s textile and garment industry.
Key word: industrial revolution 4.0, the textile and garment, labours
1. Khái quát thực trạng ngành dệt may Việt Nam
294

Trong quy hoạch phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020, ngành
công nghiệp dệt may sẽtrởthành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn,
hướng về xuất khẩu và có khảnăng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước ngày càng
cao, tạp nhiều việc làm cho xã hội. Theo báo cáo của Hiệp hội Dệt may Việt Nam,
trong giai đoạn 2010 – 2015, ngành dệt may có kim ngạch tăng trưởng xuất khẩu hàng
năm ở mức 15%, đưa dệt may trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực đứng thứ 2 chỉ
sau điện thoại và các linh kiện. Kim ngạch xuất khẩu dệt may năm 2017 đạt hơn 31 tỷ
USD, tăng hơn 10,23% so với năm 2016 và chiếm đến tỷtrọng xuất khẩu 15,92 %
tổng kim ngạch xuất khẩu của cảnước.
Hình 1- Các mặt hàng xuất khẩu chủyếu của Việt Nam
Hàng thủy sản 4,05%
Điện thoại và linh kiện
18,66%
Phương tiện vận tải và
phụ tùng 4,03%
Máy móc thiết bị, dụng
cụ phụ tùng khác 5,04%
Sắt thép 2,14%
Giày dép 7,41%
Sản phẩm dệt may
15,92%
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Dệt may Việt Nam là một trong những ngành gia công xuất khẩu quan trọng
khi Việt Nam mởcửa, hội nhập vào nền kinh tếtoàn cầu. Dệt may cũng là ngành được
hưởng lợi đặc biệt khi Việt Nam ký kết các hiệp định thương mại cũng như đa
phương. Ví dụ, sau khi Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực từnăm
2002, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ có tốc độ tăng trưởng cao nhất
so với các thịtrường khác. Chỉriêng trong năm 2002, giá trị xuất khẩu hàng dệt may
vào thịtrường Hoa Kỳđã tăng hơn 21 lần lên hơn 950 triệu USD so với mức 45 triệu
USD năm 2001. Ngành dệt may của Việt Nam cũng được hưởng lợi từ các hiệp định
thương mại khác, như Hiệp định Thương mạiTự do Việt Nam – EU, Hiệp định Đối
tác kinh tế giữaViệt Nam và Nhật Bản. Theo hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS),
xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản đang có xu hướng tăng cao do các doanh
nghiệp Việt Nam được hưởng lợi vềưu đãi thuế từ các hiệp định thương mại song
phương và đa phương với Nhật Bản. Năm 2010, năm đầu tiên thực hiện hiệp định đối
tác Việt Nam –Nhật Bản, kim ngạch hàng dệt may xuất khẩu vào quốc gia này tăng
295

20% so với năm 2009. Bên cạnh đó, Hiệp định Tự do Việt Nam –EU ký kết vào năm
2015 mởra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp ViệtNam, trong đó các doanh nghiệp dệt
may tiếp cận dễdàng hơn vào thịtrường Châu Âu.
Ngành dệt may bao gồm các lĩnh vực chính là sản xuất sợi, dệt nhuộm (thuộc
nhóm hoàn thiện sản phẩm dệt) và may mặc. Bảng 1 cho thấy dệt may của Việt Nam
chủ yếu là ngành may mặc với sốlượng doanh nghiệp lớn hơn rất nhiều so với các
ngành còn lại trong nhóm và sốlao động chiếm tới 81,37% tổng sốlao động của
ngành dệt may.
Bảng 1: Sốlượng doanh nghiệp và tổng sốlao động trong ngành dệt may
Ngành
Số
doanh
nghiệ
p
Tổng số
lao động
Tỷtrọng lao động
trong ngành dệt
may
Sản xuất sợi
418
89.944
5.75%
Sản xuất vải dệt thoi
292
29.068
1.86%
Hoàn thiện sản phẩm dệt
318
16.644
1.06%
May trang phục
5.742
1.273.517
81.37%
Sản xuất sản phẩm từda lông thú
13
1.126
0.07%
Sản xuất trang phục dệt kim
271
17.611
1.13%
Sản xuất vali túi xách
707
136.689
8.73%
Sản xuất sợi nhân tạo
15
430
0.03%
Nguồn. Điều tra doanh nghiệp 2016, Tổng cục Thống kê
Mặc dù may mặc là ngành chủ lực, song vị trí của các doanh nghiệp Việt Nam
trong chuỗi giá trị hàng may mặc vẫn chỉđịnh vịởcác công đoạn có giá trịgia tăng
thấp. Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, có tới 85% số doanh nghiệp may mặc được
nghiên cứu đang áp dụng mô hình sản xuất gia công (Cut –Make – Trim), các công
đoạn đóng góp ít nhất trong chuỗi giá trị sản phẩm. Hầu hết các doanh nghiệp may
mặc của Việt Nam chỉ hoạt động với tư cách là các nhà thầu phụthực hiện hợp động
gia công cho các nhà bán lẻ chuyên nghiệp, các nhà sản xuất thương hiệu. Các đơn đặt
hàng thường kèm theo thiết kế sản phẩm và đặc điểm kỹthuật.
Bên cạnh đó, ngành sản xuất sợi và sản xuất vải trong nước còn chưa phát
triển, sản xuất may mặc của Việt Nam đang phụthuộc vào các doanh nghiệp nước
ngoài đóng vai trò cung cấp nguyên liệu đầu vào. Ngành sản xuất trang phục của Việt
Nam bị phụthuộc vào vải nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc, đặc biệt là
sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. Giá trịnhập khẩu vải ước đạt 9,4 tỷ USD trong
296

năm 2015 trong đó 4,7 tỷ USD là dành cho vải Trung Quốc. Hàn Quốc là nhà cung
cấp lớn thứ hai với 19,5% thị phần, tiếp theo là Nhật Bản 5,9%. Việc không chủđộng
được nguyên phụliệu trong nước, phải phụ thuộc vào các nhà cung cấp nước ngoài đã
làm hạn chế khảnăng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, khiến giá
trịgia tăng trong sản phẩm dệt may còn thấp.
Các doanh nghiệp FDI đang chiếm ưu thế so với các doanh nghiệp nội địa
trong lĩnh vực may mặc về cả quy mô lẫn hoạt động xuất khẩu. Theo sốliệu điều tra
doanh nghiệp, 755 doanh nghiệp có vốn đầu nước nước ngoài, chiếm 13,4% tổng số
doanh nghiệp may mặc đang hoạt động, trong đó 584 doanh nghiệp chiếm 73% có
hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, tuy số doanh nghiệp nội địa chiếm đa sốnhưng chỉ có
757 doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu, chiếm 14,89%. Về quy mô, các doanh
nghiệptrong nước chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ với sốlượng lao động trung bình
khoảng 100 người và doanh thu trung bình hơn 21 tỷđồng, chỉ bằng 1/9 về số lao
động và 1/8 về doanh thu bình quân của các doanh nghiệp FDI.
Bảng 2: Sốlượng và quy mô doanh nghiệp may mặc phân loại theo loại hình
doanh nghiệpnăm 2015
T
ổng số
doanh
nghiệp
Doanh nghiệp
FDI
Doanh
nghiệp n
ội
địa
Tổng sốdoanh nghiệp
5.640
755
5.081
Lao động bình quân (người)
210,08
921,57
106,46
Doanh thu thu
ầ
n bình quân
(triệu đồng)
39.328,23
16.236
,85
21.210,65
S
ốdoanh nghiệp có hoạt đ
ộng
xuất khẩu
1.341 584 757
Nguồn: Sốliệu điều tra doanh nghiệp 2015, Tổng cụcThống kê
Dệt may hiện là ngành quan trọng tạo ra số việc làm lớn với khoảng gần 6.000
doanh nghiệp đang hoạt động, thu hút khoảng 2,5 triệu lao động. Phần lớn trong sốlao
động đó tập trung vào lĩnh vực sản xuất trang phục với yêu cầu không cao về kỹnăng.
Như phân tích ởtrên, đa số các doanh nghiệp may mặc chủ yếu hoạt động theo
phương thức gia công (CMT), tương ứng với các khâu có giá trịgia tăng thấp và đòi
hỏi trình độ lao động không cao. Với phương thức CMT, các doanh nghiệp Việt Nam
chủ yếu đảm nhận khâu sản xuất. Khâu này chiếm tới 75% tổng sốlao động. Nhưng
công đoạn này chỉ yêu cầu người lao động có trình độ tiểu học và đã được đào tạo về
chuyên môn (có thể thông qua các lớp đào tạo ngắn hạn hoặc đào tạo tại doanh
297

nghiệp). Tỷ lệlao động chưa qua đào tạo nghề/cao đẳng, đại học của phân ngành
trong nhóm dệt may còn cao. Mặc dù trong những năm gần đây, tỷ lệ này có giảm
nhưng vẫn luôn ởtrên mức 80%.
Một đặc điểm chú ý là, lao động trong ngành may mặc chủ yếu là lao động nữ.
Theo Công đoàn lao động ngành dệt may, khoảng 70% lao động trong ngành là nữ,
chủ yếu là đã tốt nghiệp bậc tiểu học, trung học cơ sở và có tuổi đời còn khá trẻ, tỷ lệ
chưa có gia đình cao. Đặc điểm này có thể dẫn tới tỷ lệ nhảy việc cao ởlao động nữ,
khiến các doanh nghiệp e dè trong việc đầu tư nâng cao trình độ cho họ.
2Xu hướng thay đổi công nghệ sản xuất trong ngành dệt may trong CMCN 4.0
Việc áp dụng dây chuyền tựđộng hóa và ứng dụng công nghệ thông tin trong
nhiều giai đoạn quan trọng của quá trình sản xuất, như dây chuyền thiết bị tựđộng đồ
sợi, vận chuyểnống sợi thô tựđộng sang máy sợi con, tựđộng đồ sợi con, tựđộng
vận chuyểnống sợi con sang máy đánh ống sợi…tựđộng đồ búp sợi đẩy trên máy
đánh ống sợi đã nâng cao năng suất lao động, dẫn tới giảm đáng kể sốlượng lao động.
Nếu trước đây, vào khoảng năm 2005, 10 nghìn cọc sợi phải dùng đến trên 100 lao
động, thì đến năm 2016, những doanh nghiệp tiên tiến nhất của Việt Nam, với 10
nghìn cọc sợi cũng chỉ cần đến 25 – 30 lao động, giảm gần 4 lần. Trong khi đó, trên
thế giới có những nhà máy tiên tiến nhất chỉ sử dụng 10 công nhân với 10 nghìn cọc
sợi đối với các mặt hàng phù hợp, ít thay đổi. Quá trình tựđộng hóa này đã giảm thiểu
các yếu tốchủ quan của con người tác động vào máy móc thiết bị và nâng cao chất
lượng sợi.
Đối với ngành nhuộm, việc áp dụng internet của vạn vật và dữliệu lớnđang
dần thay đổi phương thức sản xuất. Theo phương pháp nhuộm thủ công mà các doanh
nghiệp nhuộm Việt Nam đang áp dụng, chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào
trình độ tay nghề của công nhân làm ra công thức màu, tỷ lệ nhuộm chính xác từ lần
đầu thường thấp. Hơn nữa, khi đưa ra sản xuất hàng loạt, màu sắc có thể sẽ bịthay đổi
do sự sinh nhiệt trong khâu hoàn tất, từđó ảnh hưởng đáng kểđến tính ổn định và
đồng đều của sản phẩm. Trong khi đó trên thế giới, việcứng dụng công nghệ thông tin
trong quy trình nhuộm vài ngày càng trở lên phổ biến với nhiều ưu điểm hơn. Vớiứng
dụng dữliệu lớn và công nghệlưu trữ, quản lý và phân tích dữliệu, cơ sở dữliệu về
hàng triệu giá trị màu sắc khác nhau khi tiến hành đo trên các vật liệu khác nhau được
lưu trữđồng thời với các công thức tạo màu sắc đó đã được thực hiện thành công.
Chất liệu và màu mẫu mà khách hàng yêu cầu sẽđược tìm kiếm, so sánh với các màu
trong cơ sở dữliệu để đưa ra công thức tối ưu nhất. Tiếp đó, máy tính còn được dùng
để điều khiển các thiết bị liên quan trong quá trình sản xuất thử nghiệm cũng như khi
sản xuất hàng loạt như máy pha màu, cân điện tử, quản lý kho hóa chất… Từđó, ổn
định được chất lượng nhuộm, ổn định được công thức nhuộm và tăng được tỷ lệ
298