BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VÕ HỒNG KIÊN

TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÙNG ĐẶC THÙ VỀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN: NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH TẠI VÙNG TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN

HÀ NỘI, NĂM 2025

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VÕ HỒNG KIÊN

TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÙNG ĐẶC THÙ VỀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN: NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH TẠI VÙNG TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC

Chuyên ngành: KINH TẾ PHÁT TRIỂN Mã số: 9310105

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ HUY ĐỨC

HÀ NỘI, NĂM 2025

LỜI CAM ĐOAN

i

Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi cam

kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu

cầu về sự trung thực trong học thuật.

Hà Nội, ngày tháng năm 2025

Nghiên cứu sinh

Võ Hồng Kiên

MỤC LỤC

i

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i

MỤC LỤC ....................................................................................................................... i

DANH MỤC BẢNG ..................................................................................................... vi

DANH MỤC BIỂU ĐỒ ............................................................................................... vii

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1

1. Sự cần thiết của nghiên cứu .................................................................................. 1

2. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................................. 4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................... 5

3.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................ 5

3.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 5

4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 5

5. Những đóng góp mới của Luận án ....................................................................... 6

5.1. Những đóng góp về học thuật và lý luận ........................................................... 6

5.2. Những đóng mới rút ra từ kết quả nghiên cứu .................................................. 6

5.3. Những phát hiện, đề xuất mới rút ra từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án ....................................................................................................................... 7

6. Những hạn chế của luận án ................................................................................... 7

7. Kết cấu của Luận án .............................................................................................. 8

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ .................................................................. 9

1.1. Các nghiên cứu lý thuyết về mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế .......................................................................................................................... 9

1.1.1. Các lý thuyết nghiêng về phía tổng cầu ......................................................... 9

1.1.2. Các lý thuyết tác động từ phía tổng cung ..................................................... 14

1.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ........................................................................................................................ 18

1.2.1. Nghiên cứu tại các nước phát triển ............................................................... 18

1.2.2. Nghiên cứu tại các nước đang phát triển ...................................................... 21

ii

1.2.3. Nghiên cứu tại Việt Nam .............................................................................. 24

1.2.4. Nghiên cứu tại vùng/khu vực ....................................................................... 25

1.3. Khoảng trống nghiên cứu ................................................................................. 29

Tóm tắt chương 1 ......................................................................................................... 31

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐẾN

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÙNG ĐẶC THÙ VỀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ......................................................................................... 32

2.1. Vùng kinh tế và vùng kinh tế đặc thù về điều kiện phát triển ...................... 32

2.1.1. Vùng kinh tế ................................................................................................. 32

2.1.2. Vùng đặc thù về điều kiện phát triển ............................................................ 33

2.1.3. Các nhân tố về điều kiện phát triển vùng - cơ sở nhận diện vùng đặc thù ... 34

2.2. Đầu tư công và tăng trưởng kinh tế của vùng ................................................ 40

2.2.1. Đầu tư công .................................................................................................. 40

2.2.2. Tăng trưởng kinh tế vùng ............................................................................. 45

2.3. Quan hệ tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng ............... 48

2.3.1. Cơ chế tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng .................. 48

2.3.2. Nhân tố ảnh hưởng tới quan hệ đầu tư công và tăng trưởng vùng ............... 53

2.4. Khung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu tác động của đầu tư công đến tăng trưởng ........................................................................................................ 58

2.4.1. Khung nghiên cứu của luận án ..................................................................... 58

2.4.2. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 58

Tóm tắt chương 2 ......................................................................................................... 65

CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÙNG TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC ...................................................... 66

3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của Vùng ................................................ 66

3.1.1. Đặc điểm tự nhiên của Vùng ........................................................................ 66

3.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của Vùng ............................................................. 67

3.1.3. Nhận xét chung về đặc điểm kinh tế - xã hội của Vùng ............................... 72

3.2. Thực trạng đầu tư công .................................................................................... 73

3.2.1. Về quy mô vốn đầu tư công ......................................................................... 73

iii

3.2.2. Về cơ cấu vốn đầu tư công ........................................................................... 74

3.2.3. Kết quả đầu tư công ...................................................................................... 76

3.2.4. Hiệu quả đầu tư công .................................................................................... 78

3.3. Thực trạng tăng trưởng kinh tế vùng TD&MNPB ...................................... 81

3.4. Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ....................................... 86

3.4.1. Tác động của đầu tư công đến sản lượng thông qua tăng vốn sản xuất ....... 87

3.4.2. Quan hệ giữa đầu tư công và năng suất lao động ......................................... 88

3.4.3. Quan hệ giữa đầu tư công và chi tiêu công và hộ gia đình .......................... 90

3.4.4. Quan hệ giữa đầu tư công với đầu tư khu vực tư nhân ................................ 92

3.4.5. Quan hệ giữa đầu tư công và xuất khẩu ....................................................... 93

3.5. Kết luận rút ra từ thực trạng đầu tư công và tăng trưởng kinh tế .............. 93

Tóm tắt chương 3 ......................................................................................................... 96

CHƯƠNG 4. PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÙNG TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC ................. 97

4.1. Phân tích tính đặc thù về điều kiện phát triển của vùng Trung du và miền núi phía bắc ............................................................................................................... 97

4.1.1. Xác định chỉ số tổng hợp đo tính đặc thù về điều kiện phát triển vùng ....... 97

4.1.2. Đánh giá tính đặc thù về điều kiện phát triển của vùng TD&MNPB ........ 102

4.2. Phân tích tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng Trung du và miền núi phía bắc .............................................................................................. 103

4.2.1. Mô hình tổng quát ...................................................................................... 103

4.2.2. Mô tả các biến của mô hình và dữ liệu nghiên cứu .................................... 104

4.2.3. Thực hiện các kiểm định về điều kiện ước lượng mô hình ........................ 105

4.2.4. Ước lượng mô hình tác động của ĐTC đến sản lượng của vùng Trung du và miền núi phía bắc theo mô hình FGLS ................................................................. 107

4.3. Tác động của đầu tư công đến sản lượng của cả nước (Mô hình GMM) .. 113

4.4. Kết quả và thảo luận từ các mô hình phân tích định lượng ....................... 117

4.4.1. Vùng TD&MNPB có tính đặc thù cao nhất trong cả nước về điều kiện phát triển ............................................................................................................... 117

4.4.2. Trong nội bộ vùng TD&MNPB yếu tố đặc thù không ảnh hưởng đến quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế .......................................................... 117

iv

4.4.3. Tác động của ĐTC đến tăng trưởng kinh tế ở vùng đặc thù cao hơn ở các vùng khác .............................................................................................................. 117

4.4.4. Tác động của ĐTC ở vùng TD&MNPB cao gấp 2 lần so với trung bình cả nước .................................................................................................................. 118

4.4.5. Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng của vùng TD&MNPB qua các kênh tác động ........................................................................................................ 119

4.5. Nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ tác động của đầu tư công đến tăng trưởng

kinh tế của vùng TD&MNPB ................................................................................ 121

4.5.1. Môi trường thể chế ..................................................................................... 121

4.5.2. Cơ chế, chính sách đầu tư công .................................................................. 122

4.5.3. Các nhân tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của Vùng ................. 125

4.5.4. Trình độ phát triển của nền kinh tế ............................................................. 126

4.5.5. Quy mô, chất lượng và hiệu quả của đầu tư công ...................................... 126

Tóm tắt chương 4 ....................................................................................................... 128

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH................................. 129

5.1. Các kết luận ..................................................................................................... 129

5.1.1. Vùng Trung du và miền núi phía bắc là vùng đặc thù về điều kiện phát triển . 130

5.1.2. Về thực trạng đầu tư công .......................................................................... 130

5.1.3. Tăng trưởng kinh tế của vùng TD&MNPB ................................................ 131

5.1.4. Tác động đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế của vùng TD&MNPB ...... 131

5.1.5. Tác động của ĐTC đến tăng trưởng ở vùng đặc thù cao hơn ở các vùng khác 133

5.2. Kiến nghị chính sách ....................................................................................... 133

5.2.1. Tăng quy mô phân bổ vốn đầu tư công cho vùng TD&MNPB và các vùng đặc thù về điều kiện phát triển .............................................................................. 134

5.2.2. Cần có cơ chế và chính sách đặc thù cho vùng TD&MNPB để tạo nguồn vốn đảm bảo cho đầu tư công ............................................................................... 135

5.2.3. Cần có cơ chế đặc thù về Hợp tác đối tác công tư (PPP) tại vùng TD&MNPB .......................................................................................................... 136

5.2.4. Hoàn thiện cơ cấu đầu tư công vùng TD&MNPB ..................................... 136

5.2.5. Nâng cao hiệu quả đầu tư công của vùng TD&MNPB và vùng đặc thù ... 138

v

5.2.6. Tăng cường công tác quản lý đầu tư công ở vùng TD&MNPB ................. 139

5.2.7. Nâng cao năng lực nội tại vùng TD&MNPB và các vùng đặc thù để cải thiện lợi thế phát triển và đuổi kịp trình độ phát triển của cả nước ...................... 142

Tóm tắt chương 5 ....................................................................................................... 149

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 150

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................................... 152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 153

PHẦN PHỤ LỤC ....................................................................................................... 162

DANH MỤC BẢNG

vi

Bảng 3.1. Tỷ lệ vốn nhà nước trên tổng vốn ĐT của các vùng (2016-2022) ................ 75

Bảng 3.2. Tỷ số giữa suất đầu tư của các vùng so với trung bình cả nước ................... 80

Bảng 3.3. Tăng trưởng kinh tế vùng TD&MNPB giai đoạn 2011-2022 ....................... 82

Bảng 3.4. Tăng trưởng kinh tế trung bình các vùng và cả nước các thời kỳ ................. 83

Bảng 3.5. Giá trị sản lượng tạo ra trung bình trên một đồng vốn đầu tư ...................... 87

Bảng 3.6. Năng suất lao động trung bình của các vùng và cả nước (2018-2022) ......... 88

Bảng 3.7. Tăng năng suất lao động và Vốn ĐTC vùng TD&MNPB ............................ 89

Bảng 3.8. Tổng mức chi tiêu một nhân khẩu bình quân trong một tháng Vùng Trung du

và miền núi phía bắc .................................................................................. 90

Bảng 4.1. Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha về sự phù hợp của dữ liệu ................ 99

Bảng 4.2. KMO and Bartlett's Test ............................................................................. 100

Bảng 4.3. Các nhân tố/khía cạnh cấu thành lợi thế phát triển vùng ............................ 100

Bảng 4.4. Tổng phương sai được giải thích (Total Variance Explained) ................... 101

Bảng 4.5. Chỉ số lợi thế địa phương và vùng trung bình (2010-2022) ....................... 102

Bảng 4.6. Giải thích các biến sử dụng trong mô hình ................................................ 104

Bảng 4.7. Thống kê mô tả các biến dạng logarith ....................................................... 105

Bảng 4.8. Kiểm định đa cộng tuyến giữa các biến của mô hình ................................. 106

Bảng 4.9. Kết quả ước lượng FGLS cho vùng TD&MNPB ....................................... 108

Bảng 4.10. Kết quả kiểm định tính nội sinh các biến .................................................. 109

Bảng 4.11. Kết quả ước lượng GMM hàm sản lượng vùng TD&MNPB ................... 110

Bảng 4.12. So sánh kết quả ước lượng theo GMM và FGLS của vùng TD&MNPB . 110

Bảng 4.13. Kết quả ước lượng tác động của ĐTC đến TNBQ đầu người của vùng ... 111

Bảng 4.14. Kết quả ước lượng tác động của ĐTC đến NSLĐ của vùng .................... 112

Bảng 4.15. Kết quả ước lượng tác động ĐTC lên ĐT tư nhân của vùng TD&MNPB ...... 112

Bảng 4.16. Ước lượng tác động ĐTC đến sản lượng- mô hình GMM cho cả nước ... 114

Bảng 4.17. Tác động của đầu tư công đến sản lượng của 6 vùng trong cả nước ........ 115

Bảng 4.18. So sánh kết quả mô hình GMM cả nước và vùng TD&MNPB ................ 115

vii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Nền tảng năng lực cạnh tranh của vùng/địa phương ................................ 37

Biểu đồ 2.2. Cơ chế tác động của Đầu tư công đến Tăng trưởng kinh tế ..................... 53

Biểu đồ 2.3. Khung phân tích tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ........ 58

Biểu đồ 3.1. GRDP bình quân đầu người các vùng năm 2022 (đồng) .......................... 68

Biểu đồ 3.2. Thu nhập bình quân đầu người các tỉnh vùng TD&MNPB ...................... 68

Biểu đồ 3.3. Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Vùng TD&MNPB ............................... 69

Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ đô thị hóa của vùng TD&MNPB năm 2022 .................................... 70

Biểu đồ 3.5. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư nhà nước vùng TD&MNPB (%) ..................... 74

Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ suất vốn đầu tư các vùng so với trung bình cả nước ....................... 80

Biểu đồ 3.7. Tăng trưởng kinh tế các vùng và cả nước 2011-2022 .............................. 84

Biểu đồ 3.8. Tỷ trọng trung bình tổng GRDP các vùng trong cả nước giai đoạn 2010-2022.... 84

Biểu đồ 3.9. So sánh tăng trưởng các tỉnh vùng TD&MNPB ....................................... 85

Biểu đồ 3.10. Quan hệ giữa tăng Vốn ĐTC và tăng NSLĐ vùng TD&MNPB ............ 90

Biểu đồ 3.11. So sánh tổng mức chi tiêu một nhân khẩu bình quân một tháng giữa 6 vùng ..... 91

Biểu đồ 3.12. Quan hệ giữa đầu tư công và chi tiêu dùng của dân cư .......................... 92

MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của nghiên cứu

1

Dưới góc độ lý thuyết cũng như thực tiễn hoạt động kinh tế, đầu tư có tầm quan

trọng đặc biệt đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đầu tư không chỉ có vai trò tham

gia vào quá trình tái sản xuất xã hội mà còn tạo ra “cú hích” cho nền kinh tế phát triển.

Đầu tư là hoạt động tạo ra tài sản cho nền kinh tế, gia tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh

và các hoạt động xã hội khác, giải quyết việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống

của các tầng lớp nhân dân trong xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Có thể nói,

bất kỳ hoạt động đầu tư nào do cá nhân, tổ chức hay nhà nước thực hiện đều mang lại

lợi ích không chỉ cho bản thân nhà đầu tư mà còn cho cả nền kinh tế.

Hoạt động đầu tư cũng như nguồn vốn đầu tư bao gồm 3 nguồn chính hình thành

từ 3 khu vực: khu vực nhà nước (bao gồm đầu tư công và đầu tư doanh nghiệp nhà

nước), khu vực tư nhân (đầu tư tư nhân trong nước) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Đầu tư khu vực nhà nước có vai trò quan trọng trong việc xây dựng các công trình trọng

điểm quốc gia, cơ sở hạ tầng và đầu tư vào các lĩnh vực mà các khu vực khác không có

khả năng, không sẵn sàng hoặc không thể đầu tư. Đầu tư tư nhân trong nước là nguồn

lực quan trọng thúc đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế, số lượng và tỷ trọng tuyệt đối

của nó trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội có xu hướng ngày càng tăng. Đầu tư trực tiếp

nước ngoài (FDI) là nguồn đầu tư bổ sung quan trọng thúc đẩy tiến bộ công nghệ, kỹ

năng quản lý, thương mại quốc tế,... trong nền kinh tế mở. Nhìn chung, cả ba nguồn vốn

đầu tư nêu trên đều quan trọng và cần thiết trong mỗi nền kinh tế, đặc biệt là các nền

kinh tế đang phát triển.

Đầu tư công là một yếu tố thiết yếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi

quốc gia cũng như của các vùng. Đầu tư công đóng vai trò quan trọng trong phát triển

kinh tế - xã hội, cụ thể: (i) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; (ii) Nâng cao đời sống nhân

dân; (iii) Bảo đảm an ninh, quốc phòng; (iv) Bảo vệ môi trường sinh thái; (v) Đảm bảo

công bằng xã hội. Đặc biệt, đầu tư công có vai trò quan trọng, không thể thay thế trong

tình huống mà ở đó các chương trình và dự án đầu tư không thể thực hiện được bởi

khu vực tư nhân do hoặc là không đủ năng lực thực hiện hoặc là do không đạt mục

đích kinh doanh.

Đến nay, mặc dù có sự thống nhất chung giữa các nhà kinh tế và các nhà hoạch

định chính sách về vai trò của đầu tư, nhưng vẫn chưa có sự đồng thuận về tầm quan

trọng tương đối của các thành phần đầu tư công và đầu tư tư nhân đối với tăng trưởng

2

kinh tế. Các nghiên cứu đã đưa ra những kết luận khác nhau về vai trò của các cấu

phần đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế, tùy thuộc vào các yếu tố khách quan như trình

độ phát triển của vùng nghiên cứu, giai đoạn nghiên cứu và đặc điểm, lợi thế riêng của

từng vùng. Đặc biệt, các nghiên cứu về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh

tế có yếu tố vùng thời gian qua cũng đưa ra những kết luận khác biệt nhau. Chẳng hạn,

Norihiko Yamano và Toru Ohkawara (2000) tập trung khảo sát tác động của đầu tư

công đến nền kinh tế khu vực của Nhật Bản. Các tác giả cho rằng, trong bối cảnh phân

bổ vốn công theo vùng, chính sách hiệu quả nên tập trung đầu tư vào các vùng có năng

suất cao, trong khi thực tế, theo mục tiêu công bằng, các vùng bị suy thoái thường nhận

được đầu tư công nhiều hơn. Ở Việt Nam, trong nghiên cứu của Nguyễn Đoan Trang

(2018), tác giả đã chia theo 3 vùng: Đồng bằng sông Hồng (vùng 1), Bắc Trung bộ và

Duyên hải miền Trung (vùng 2) và vùng kinh tế phía nam (vùng 3), từ đó rút ra kết

luận đóng góp của đầu tư công vào tăng trưởng ở vùng khó khăn hơn cao hơn ở các

vùng khác.

Một số tác giả khác lại nghiên cứu vai trò của đầu tư công vào cơ sở hạ tầng -

một bộ phận quan trong của đầu tư công. Charlot Sylvie và Schmitt Bertrand (1999) đã

nhấn mạnh vai trò của hạ tầng công đối với tăng trưởng kinh tế và giảm bất bình đẳng

giữa các vùng tại Pháp. Nghiên cứu khẳng định mối quan hệ nhân quả giữa vốn công và

tăng trưởng, qua đó cho thấy rằng các vùng giàu có khả năng tài trợ vốn công cao hơn,

từ đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng khu vực, mặc dù vốn công không nhất thiết làm

giảm đáng kể sự chênh lệch kinh tế mà thậm chí có thể làm tăng khoảng cách đó. Nghiên

cứu của Luo (2004) cho rằng không chỉ số tiền đầu tư mà cả vị trí địa lý của khoản đầu

tư cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, đặc biệt ở miền

Tây Trung Quốc. Kết quả chỉ ra rằng, đầu tư vào giao thông vận tải và năng lượng có

mối quan hệ tích cực mạnh mẽ với phát triển kinh tế. Ngoài ra, nghiên cứu cũng khẳng

định rằng, ở các khu vực có điều kiện địa lý thuận lợi và hàm lượng tài nguyên thiên

nhiên cao, mối quan hệ giữa đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế mạnh mẽ hơn so

với các khu vực có điều kiện kém thuận lợi. Sylvie Demurger (2001) đã cung cấp một

cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ giữa phát triển cơ sở hạ tầng và tăng trưởng kinh tế của

các khu vực ở Trung Quốc. Nghiên cứu của tác giả đặt ra câu hỏi tại sao một số khu

vực, đặc biệt là các vùng ven biển như Quảng Đông, Giang Tô và Thượng Hải, phát

triển nhanh chóng nhờ vào đầu tư lớn vào hạ tầng giao thông, điện lực và viễn thông,

trong khi các khu vực nội địa như Tây Tạng, Tân Cương và nhiều tỉnh miền Tây lại

chậm phát triển do không được hưởng lợi tương đương. Do đó, tác giả khuyến nghị cần

có sự điều chỉnh trong chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng nhằm thu hẹp khoảng cách phát

3

triển giữa các vùng, đồng thời đề xuất các chính sách khuyến khích sự tham gia của khu

vực tư nhân thông qua các mô hình hợp tác công-tư (PPP).

Nghiên cứu về các thành phần đầu tư, cơ cấu phân bổ vốn đầu tư công và tác

động của chúng đến tăng trưởng kinh tế là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng về mặt

chính sách trong việc thiết lập một hệ thống kinh tế phù hợp có thể thúc đẩy phát triển

kinh tế một cách hiệu quả. Xét trên khía cạnh vùng, thực tế cho thấy, một quốc gia

thường được phân ra thành nhiều vùng do sự khác nhau về điều kiện, lợi thế phát triển

và trình độ phát triển. Trong đó, có những vùng có lợi thế về điều kiện phát triển như

điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thuận lợi, trình độ phát triển cao hơn. Ngược lại, có

những vùng do điều kiện tự nhiên bất lợi, cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ dân trí thấp,

năng lực quản trị hạn chế, khó khăn trong thu hút đầu tư tư nhân...và kết quả là trình độ

phát triển thấp hơn các vùng khác.

Ở nước ta hiện nay, theo Quốc hội khóa 15 (2023) cả nước chia thành 6 vùng

kinh tế - xã hội, bao gồm: Vùng Trung Du và miền núi phía Bắc, Vùng Đồng bằng Sông

Hồng, Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung, Vùng Tây Nguyên, Vùng Đông

Nam Bộ và vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong

đó có sự khác nhau từ lợi thế về điều kiện phát triển nên trình độ phát triển của các vùng

cũng khác nhau. Theo nhận thức chung, vùng Trung du và miền núi phía Bắc

(TD&MNPB) và vùng Tây Nguyên là 2 vùng khó khăn hơn các vùng còn lại.

Trên quan điểm đảm bảo quan hệ hài hòa giữa hiệu quả và công bằng trong phát

triển, đối với các vùng khó khăn đặc thù, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ phù hợp

trong đầu tư nhằm từng bước giảm bớt sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền,

đảm bảo công bằng xã hội và thúc đẩy sự phát triển bền vững không chỉ đối với từng

vùng mà còn đối với cả nước. Tuy nhiên các chính sách cần đảm bảo đạt được hiệu quả

kinh tế - xã hội nói chung cũng như hiệu quả kinh tế. Nói cách khác, chính sách đầu tư

công phải nhằm đạt được mục tiêu tái cơ cấu đầu tư công đặt ra là khắc phục tình trạng

đầu tư công phân tán, dàn trải, lãng phí, kém hiệu quả nhằm góp phần thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững.

Để có cơ sở đề xuất kiến nghị chính sách đầu tư công phù hợp đối với các vùng

miền cần thiết phải có những nghiên cứu đánh giá sâu, toàn diện về vai trò tác động của

đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ở các vùng khó khăn đặc thù. Tuy nhiên việc nghiên

cứu đầy đủ và toàn diện trên tất cả các vùng miền sẽ đòi hỏi thời gian và công sức lớn

và khó khả thi trong một luận án. Vì thế, việc nghiên cứu tập trung cụ thể vào một vùng

4

khó khăn đặc thù, từ đó rút ra các kết quả khách quan, đáng tin cậy và suy rộng cho các

vùng khó khăn khác là một hướng đi phù hợp và có thể chấp nhận được.

Nhận thức được yêu cầu của thực tiễn đặt ra và xuất phát từ điều kiện nghiên cứu nói trên, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài “Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng đặc thù về điều kiện phát triển: nghiên cứu điển hình tại vùng

Trung du và miền núi phía Bắc” làm đề tài luận án Tiến sĩ kinh tế.

Luận án sẽ nghiên cứu trực tiếp tại vùng TD&MNPB, song trong quá trình nghiên

cứu sẽ tiến hành phân tích, so sánh giữa vùng TD&MNPB với các vùng khác trong cả

nước, từ đó rút ra được các kết luận tại vùng nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu thu được sẽ

làm cơ sở cho việc đề xuất các kiến nghị chính sách cho vùng TD&MNPB cũng như các

vùng đặc thù khác, nhằm tăng cường vai trò của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế, góp

2. Mục tiêu nghiên cứu

phần thúc đẩy các vùng đặc thù phát triển tiến kịp các vùng phát triển hơn trong cả nước.

Mục tiêu tổng quát của luận án là trên cơ sở kiểm định tính đặc thù về điều kiện

phát triển của vùng TD&MNPB, phân tích tác động của đầu tư công đến tăng trưởng

kinh tế vùng TD&MNPB nhằm rút ra được các kết luận về mối quan hệ tác động của

đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế của Vùng cũng như các vùng đặc thù, từ đó khuyến

nghị chính sách nhằm tăng cường vai trò của đầu tư công trong việc thúc đẩy tăng trưởng

Câu hỏi nghiên cứu: Để đạt mục tiêu tổng quát, luận án tập trung trả lời các câu hỏi nghiên cứu chủ

và phát triển kinh tế của vùng TD&MNPB và các vùng đặc thù khác trong giai đoạn tới.

yếu sau:

(1) Cơ sở lý luận về vai trò của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế và đặc

điểm vận dụng vào vùng đặc thù về điều kiện phát triển là gì?

(2) Vùng TD&MNPB có thực sự là vùng đặc thù về điều kiện phát triển hay

không và ngoài ra còn có vùng nào cũng là vùng đặc thù?

(3) Đầu tư công có tác động tích cực hay tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế vùng

TD&MNPB cũng như vùng có điều kiện phát triển tương tự ?

(4) Có cần thiết hay không cơ chế chính sách đặc thù cho các vùng đặc thù về

điều kiện phát triển?

(5) Cần có những giải pháp nào nhằm tăng cường vai trò của đầu tư công đối với

tăng trưởng kinh tế của vùng TD&MNPB và vùng đặc thù về điều kiện phát triển?

(6) Giải pháp chính sách nào để sớm đưa vùng TD&MNPB và vùng đặc thù thoát

khỏi vùng khó khăn và chậm phát triển so với các vùng khác trong cả nước?

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

5

Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của luận án là tác động của đầu tư công đến tăng

trưởng kinh tế của vùng TD&MNPB. Tuy nhiên, trong quá trình phân tích có liên hệ với

3.2. Phạm vi nghiên cứu

các vùng khác và cả nước nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu.

Phạm vi về nội dung: Luận án nghiên cứu tác động của đầu tư công đến tăng

trưởng kinh tế của vùng TD&MNPB và các địa phương trong vùng gắn với những đặc

điểm riêng của vùng về điều kiện phát triển. Luận án nhấn mạnh đến sự chi phối của các

điều kiện đặc thù đến quan hệ giữa đầu tư công với tăng trưởng kinh tế ở vùng

TD&MNPB, nhằm làm rõ sự khác biệt có thể có so với các vùng khác cũng như suy

rộng kết quả cho vùng đặc thù khác (nếu có) trong quan hệ giữa đầu tư công và tăng

trưởng kinh tế cũng như xu hướng vận động của mối quan hệ đó. Để đạt mục đích nghiên

cứu, trong quá trình phân tích luận án có sử dụng số liệu và tình hình của cả nước và của

các vùng khác để so sánh và minh họa. Ngoài dữ liệu về đầu tư công và tăng trưởng kinh

tế, luận án sử dụng các dữ liệu liên quan khác phục vụ cho quá trình phân tích định tính

và định lượng.

Phạm vi thời gian: Đề tài lựa chọn phạm vi thời gian nghiên cứu đánh giá thực

trạng giai đoạn 2010 - 2022. Sở dĩ chọn năm 2010 làm mốc thời gian của giai đoạn

nghiên cứu là vì đó là thời gian bắt đầu thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

mới của đất nước 2011 -2020. Hơn nữa, bắt đầu từ 2010 số liệu thống kê biểu hiện về

giá trị như sản lượng, vốn và các chỉ tiêu khác được tính theo giá cố định 2010 và được

thu thập, tổng hợp có hệ thống, đầy đủ và thống nhất hơn. Khoảng thời gian 13 năm

cũng đủ dài khi quan sát trên 63 đối tượng tỉnh/thành trong cả nước để hình thành cơ sở

dữ liệu bảng phục vụ cho việc ước lượng các mô hình định lượng.

Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại vùng TD&MNPB bao gồm 14 tỉnh: Bắc

Giang, Phú Thọ, Hòa Bình, Bắc Kạn, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Thái Nguyên, Yên

Bái, Lào Cai, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang. Trong quá trình phân tích,

4. Phương pháp nghiên cứu

luận án có liên hệ, so sánh với các vùng và địa phương khác trong cả nước.

Luận án sử dụng cả phương pháp định tính và định lượng.

Về phương pháp định tính: Luận án sử dụng các phương pháp cơ bản như: Phân tích, tổng hợp, thống kê mô tả, so sánh đối chiếu, suy luận và khái quát hóa nhằm tổng

6

hợp thông tin tài liệu để hệ thống hóa các vấn đề lý luận về tác động của đầu tư công

đến tăng trưởng kinh tế vùng, phân tích đánh giá thực trạng đầu tư công đến tăng trưởng

kinh tế tại vùng TD&MNPB, rút ra các kết luận về kết quả, tồn tại và nguyên nhân.

Về phương pháp định lượng:

- Luận án đã sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA) để ước lượng chỉ số lợi thế phát triển tổng hợp, từ đó ước lượng bộ giá trị chỉ số lợi thế tổng

hợp của các địa phương và vùng, làm cơ sở đánh giá tính đặc thù của các vùng, đồng

thời sử dụng dữ liệu trong mô hình phân tích định lượng.

- Luận án sử dụng Mô hình hàm sản xuất dạng Cobb- Douglas mở rộng để ước

lượng và phân tích tác động của đầu tư công đến sản lượng của nền kinh tế. Dữ liệu

nghiên cứu được tổng hợp từ số liệu thống kê của 63 tỉnh/thành trong cả nước giai đoạn

2010-2022, hình thành bộ dữ liệu bảng phục vụ cho ước lượng mô hình.

- Các phần mềm SPSS 26, STATA17 được sử dụng để tính toán, ước lượng và

kiểm định các mô hình trong luận án.

Chi tiết về phương pháp nghiên cứu sẽ được trình bày đầy đủ trong chương 2 của

5. Những đóng góp mới của Luận án

5.1. Những đóng góp về học thuật và lý luận

luận án.

- Luận án đã phát triển được khái niệm “tính đặc thù về điều kiện phát triển” của

vùng kinh tế trong tổng thể quốc gia, xây dựng được bộ tiêu chí để nhận diện vùng đặc thù.

- Đề xuất được phương pháp xây dựng chỉ số lợi thế phát triển tổng hợp của vùng

và sử dụng để đánh giá mức độ đặc thù của các vùng/địa phương trong phát triển kinh tế.

- Trên cơ sở tổng quan về lý thuyết, Luận án đã xác định được cơ chế tác động

của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế, các nhân tố ảnh hưởng đến mối quan hệ trên

phạm vi vùng kinh tế, trong đó xác định tính đặc thù về điều kiện phát triển là một nhân

5.2. Những đóng mới rút ra từ kết quả nghiên cứu

tố quan trọng tác động lớn đến quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế của vùng.

Thông qua phân tích định tính và định lượng, luận án đã chỉ ra về mặt thực nghiệm:

- Vùng TD&MNPB là vùng có điều kiện đặc thù, khó khăn nhất cả nước, tiếp

theo là vùng Tây Nguyên.

7

- Với tính chất là vùng đặc thù, trung bình tác động của đầu tư công đến sản lượng

ở vùng TD&MNPB cao hơn gấp 2 lần so với trung bình cả nước mặc dù hiệu quả đầu

tư công ở vùng này thấp hơn các vùng khác.

- Ở những vùng đặc thù (TD&MNPB và Tây Nguyên), tác động của đầu tư công

đến tăng trưởng kinh tế lớn hơn các vùng khác và xu thế này được tiếp tục duy trì đến

khi điều kiện phát triển ở các vùng này được cải thiện về mức trung bình của cả nước.

- Tại vùng TD&MNPB, tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế mới

được thực hiện chủ yếu qua các kênh Chi tiêu công và chi tiêu hộ gia đình, kênh trực

tiếp qua vốn sản xuất và kênh cải thiện xuất khẩu; Đầu tư công chưa kích thích tăng

trưởng ở các kênh Năng suất lao động, Năng suất nhân tố tổng hợp và Kích thích đầu tư

tư nhân; Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng cao hơn mức tác động của các nhân

5.3. Những phát hiện, đề xuất mới rút ra từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án

tố khác như: Đầu tư tư nhân, lao động, FDI.

Luận án đề xuất 7 kiến nghị chính sách nhằm phát huy vai trò của đầu tư công đối

với tăng trưởng kinh tế tại vùng TD&MNPB và các vùng đặc thù, phân thành 3 nhóm:

(i) Nhóm cơ chế chính sách đặc thù nhằm tăng nguồn vốn đầu tư công bao gồm:

Tăng quy mô phân bổ vốn đầu tư công cho vùng TD&MNPB và các vùng đặc thù; Cần

có cơ chế và chính sách đặc thù cho vùng TD&MNPB để tạo nguồn vốn cho đầu tư

công; Cần có cơ chế đặc thù về Hợp tác đối tác công tư (PPP) tại vùng TD&MNPB.

(ii) Nhóm giải pháp chính sách nâng cao hiệu quả đầu tư công, gồm: Hoàn thiện

cơ cấu đầu tư công vùng TD&MNPB; Nâng cao hiệu quả đầu tư công của vùng TD&MNPB và vùng đặc thù; Tăng cường công tác quản lý đầu tư công ở vùng TD&MNPB.

(iii) Nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực nội tại vùng TD&MNPB và các

6. Những hạn chế của luận án

vùng đặc thù để cải thiện lợi thế phát triển và nhanh đuổi kịp trình độ phát triển của cả nước.

Luận án còn có một số hạn chế sau đây:

- Do thiếu dữ liệu về việc thực hiện cơ chế chính sách đầu tư công của Vùng và

các địa phương trong vùng nên việc giải thích tác động của cơ chế chính sách đầu tư

công đến tăng trưởng kinh tế của vùng chưa thật đầy đủ.

- Nếu NCS thực hiện việc điều tra khảo sát ý kiến các bên của địa phương để

kiểm định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến quan hệ giữa đầu tư công và tăng

8

trưởng kinh tế thì tính thuyết phục của luận án sẽ cao hơn. Tuy nhiên do quy định về

khuôn khổ của Luận án, việc đưa thêm nội dung này đã không được thực hiện.

- Phạm vi thời gian nghiên cứu của luận án trong giai đoạn 2010-2022 nên độ dài

chuỗi dữ liệu không lớn (13 năm). Qua kiểm định đồng liên kết cho thấy các chuỗi dữ

liệu các biến độc lập không có mối quan hệ đồng liên kết. Do vậy không đủ điều kiện

để phân tích mối quan hệ dài hạn tác động của đầu tư công đến sản lượng của vùng. Hạn

7. Kết cấu của Luận án

chế này sẽ được khắc phục khi có thêm dữ liệu trong tương lai.

Không kể phần mở đầu và kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, Luận

án được kết cấu thành 5 chương như sau:

Chương 1. Tổng quan nghiên cứu về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng

kinh tế

Chương 2. Cơ sở lý luận về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế

vùng đặc thù về điều kiện phát triển và mô hình nghiên cứu

Chương 3. Thực trạng đầu tư công và tăng trưởng kinh tế vùng Trung du và miền

núi phía bắc

Chương 4. Phân tích tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng

Trung du và miền núi phía bắc

Chương 5. Kết luận và kiến nghị chính sách

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

1.1. Các nghiên cứu lý thuyết về mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế

1.1.1. Các lý thuyết nghiêng về phía tổng cầu

9

Lý thuyết về đầu tư công và tăng trưởng kinh tế đã được khảo sát và phát triển

qua nhiều giai đoạn khác nhau trong lịch sử kinh tế học. John Maynard Keynes đã phát

triển lý thuyết kinh tế tổng quát mà ông trình bày trong tác phẩm nổi tiếng "The General

Theory of Employment, Interest, and Money" (1936). Keynes giới thiệu khái niệm tổng

cầu là yếu tố quyết định chính đối với mức độ sản lượng và việc làm trong nền kinh tế.

Keynes lập luận rằng trong nhiều trường hợp, tổng cầu có thể không đủ để duy trì mức

sản lượng cần thiết để đạt được việc làm toàn dụng. Ông cho rằng trong những thời kỳ

mà tổng cầu yếu, chính phủ nên can thiệp thông qua chính sách tài khóa - cụ thể là tăng

chi tiêu công và giảm thuế - để kích thích tổng cầu và kéo nền kinh tế ra khỏi suy thoái.

Keynes cũng đưa ra khái niệm về "hiệu ứng số nhân", theo đó mỗi đồng chi tiêu công

có thể tạo ra một sự gia tăng lớn hơn trong tổng sản lượng kinh tế do sự gia tăng trong

thu nhập và tiêu dùng của các cá nhân. Theo đó, việc chính phủ gia tăng đầu tư công có

thể kích thích tiêu dùng của các hộ gia đình thông qua hiệu ứng thu nhập và hiệu ứng

tài sản.

Domar (1946) đã bổ sung cho các quan điểm của Keynes bằng lý thuyết đầu tư

có thể gia tăng công suất sản xuất và đảm bảo tốc độ tăng trưởng bền vững trong dài

hạn. Theo Domar, đầu tư công đáp ứng nhu cầu ngắn hạn và đồng thời mở rộng công

suất cho tương lai, đây là các yếu tố quan trọng để đạt được tăng trưởng kinh tế bền

vững. Tiếp nối, Robert M. Solow (1956) đã có đóng góp quan trọng khi đưa ra mô hình

tăng trưởng dài hạn, trong đó nhấn mạnh tác động của tiến bộ công nghệ. Solow chỉ ra

rằng đầu tư vào công nghệ và nhân lực có tầm quan trọng cao hơn so với việc tăng cường

các yếu tố đầu vào truyền thống như vốn hoặc lao động. Mô hình của Solow gợi ý rằng

đầu tư công hiệu quả nhất khi nó không chỉ dừng ở việc tăng vốn vật chất mà còn thúc

đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao trình độ của lao động.

Lý thuyết tăng trưởng nội sinh của Paul Romer (1986) và Robert Lucas Jr. (1988)

nhấn mạnh vai trò của đầu tư công trong thúc đẩy tăng trưởng dài hạn. Paul Romer chỉ

ra rằng doanh nghiệp tư nhân thường đầu tư vào R&D ở mức thấp hơn mức tối ưu xã

10

hội. Ông gợi ý rằng cần có sự can thiệp của chính phủ, chẳng hạn như đầu tư công cho

R&D hoặc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, để khuyến khích đầu tư tư nhân vào tri thức.

Trong khi đó, Lucas nhấn mạnh rằng sự khác biệt về tăng trưởng giữa các quốc gia chủ

yếu do mức đầu tư vào giáo dục và chính sách phát triển vốn con người. Mô hình của

ông cho thấy rằng sự tích lũy vốn nhân lực có thể tạo ra lợi suất tăng dần, cho phép nền

kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng dài hạn mà không cần dựa vào tiến bộ công nghệ ngoại

sinh. Lucas cũng tích hợp các yếu tố về thương mại quốc tế và lợi thế so sánh vào mô

hình của mình, chỉ ra rằng các quốc gia có thể hưởng lợi từ việc chuyên môn hóa và trao

đổi hàng hóa, qua đó thúc đẩy tăng trưởng thông qua hiệu ứng học hỏi và đổi mới. Ông

nhấn mạnh rằng các chính sách hỗ trợ giáo dục, khuyến khích đầu tư vào vốn nhân lực,

và thúc đẩy đổi mới công nghệ là những yếu tố then chốt để đạt được tăng trưởng bền

vững. Cả hai lý thuyết đều đã chỉ ra rằng đầu tư công vào R&D, giáo dục và cơ sở hạ

tầng khoa học - công nghệ là yếu tố quyết định tăng trưởng dài hạn.

Như vậy, từ khái niệm ban đầu của Keynes đến những mở rộng của Romer và

Lucas, lý thuyết về mối quan hệ giữa đầu tư công với tăng trưởng kinh tế đã phát triển

khiến đầu tư công thành một công cụ đa năng giúp giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội.

Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế từ phía tổng cầu diễn ra theo các cơ

chế sau:

- Tác động trực tiếp đến chi tiêu công và chi tiêu hộ gia đình

Trong nghiên cứu kinh tế vĩ mô, đầu tư công thường được xem là một yếu tố

quan trọng có khả năng tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua cả kênh trực tiếp

trong ngắn hạn và kênh gián tiếp trong dài hạn. Về khía cạnh ngắn hạn, các quan điểm

theo trường phái Keynes và Keynes mới nhấn mạnh rằng khi tăng chi tiêu đầu tư công, tổng cầu dịch chuyển lên, từ đó kích thích sản lượng và tạo thêm việc làm, đặc biệt trong

bối cảnh nền kinh tế còn dư thừa nguồn lực hoặc đang trong giai đoạn suy thoái. Ở đây,

chi tiêu chính phủ tác động đến tổng cầu nhờ hiệu ứng số nhân, đồng thời cũng có khả

năng khơi dậy niềm tin của khu vực tư nhân. Tuy nhiên, hiệu quả của chính sách tài

khóa này phụ thuộc vào tình trạng thực tế của nền kinh tế, như mức độ sử dụng lao động,

lãi suất hay những giới hạn về năng lực cung. Trong lúc một số nghiên cứu chỉ ra rằng

hiệu ứng số nhân của chi tiêu công có thể cao hơn 1 khi lãi suất thấp và thị trường tiền

tệ vẫn còn dư địa, những quan điểm mang tính cổ điển và tân cổ điển lại cảnh báo rủi ro

lấn át đầu tư tư nhân nếu lãi suất bị đẩy lên, hoặc nếu nợ công và gánh nặng thuế trong

tương lai làm người dân tăng tiết kiệm, hạn chế tiêu dùng. Ngày nay, nhiều mô hình

Keynes mới sử dụng phân tích cân bằng động (DSGE) để mô phỏng và lượng hóa ảnh

hưởng ngắn hạn của chính sách tài khóa đến sản lượng và việc làm, đồng thời cũng chỉ

11

rõ tầm quan trọng của độ cứng nhắc giá cả, mức độ mở cửa của nền kinh tế hay phản

ứng của chính sách tiền tệ. Trong khi đó, các lý thuyết tăng trưởng nội sinh lại dành sự

chú ý lớn hơn đến chất lượng và hiệu quả của đầu tư công trong việc tạo nên các nền

tảng hạ tầng, giáo dục và R&D, qua đó tác động đến tăng trưởng dài hạn thông qua kênh

năng suất và năng lực cung. Dù vậy, ngay cả trong ngắn hạn, đầu tư công vào những

lĩnh vực căn bản như phát triển kết cấu hạ tầng cũng có khả năng tạo hiệu ứng lan tỏa,

kích thích cầu hàng hóa trung gian, việc làm và thu nhập, trước khi dẫn đến việc cải

thiện năng lực sản xuất trong dài hạn. Tựu trung lại, các nghiên cứu đều nhất trí rằng tác

động ngắn hạn của đầu tư công lên tổng cầu thường mang tính tích cực, đặc biệt khi nền

kinh tế chưa vận hành hết tiềm năng; song quy mô và mức độ bền vững của tác động

này tùy thuộc vào bối cảnh kinh tế vĩ mô, phương thức tài trợ và năng lực quản lý hiệu

quả dự án đầu tư công.

- Tác động đến cán cân thương mại:

Dưới góc độ kinh tế học vĩ mô trong điều kiện nền kinh tế mở, nhiều công trình

đã phân tích cách đầu tư công có thể tác động đến cán cân thương mại thông qua hai

kênh chủ yếu: tác động ngắn hạn lên tổng cầu nội địa và tác động trung, dài hạn lên năng

suất và năng lực cạnh tranh. Ở giai đoạn ngắn hạn, việc chính phủ gia tăng đầu tư thường

làm tăng ngay lập tức nhu cầu nhập khẩu máy móc, công nghệ, nguyên vật liệu mà trong

nước chưa sản xuất được, dẫn đến nguy cơ thâm hụt thương mại lớn hơn. Những nghiên

cứu như của Ahmed (1986) hay Baxter và King (1993) sử dụng mô hình cân bằng tổng

thể đã chỉ ra chi tiêu công tạm thời khiến nhập khẩu tăng, còn chi tiêu công mang tính

dài hạn lại có khả năng thay đổi cấu trúc sản xuất, qua đó tác động khác biệt đến xuất

khẩu và nhập khẩu về sau.

Trong trung và dài hạn, tính hiệu quả của đầu tư công đóng vai trò quyết định.

Nghiên cứu của Aschauer (1989) tại Mỹ đã cho thấy đầu tư vào hạ tầng công cộng, đặc

biệt là hạ tầng giao thông, giúp giảm chi phí vận tải, tăng năng suất cho khu vực tư nhân,

từ đó cải thiện năng lực cạnh tranh hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu. Easterly và Rebelo

(1993) cũng nhấn mạnh rằng các nước đang phát triển hưởng lợi rất lớn từ việc đầu tư

vào kết cấu hạ tầng, giáo dục, y tế, vì điều này nâng cao năng suất biên của lao động và

vốn, làm giảm chi phí sản xuất trong nước và dần dần thu hẹp nhu cầu nhập khẩu những

mặt hàng mà doanh nghiệp nội địa có thể thay thế. Khi năng lực sản xuất được cải thiện,

xuất khẩu có xu hướng tăng, cán cân thương mại nhờ đó có thể được cải thiện theo

hướng giảm thâm hụt hoặc tăng thặng dư.

Tuy nhiên, mối quan hệ giữa đầu tư công và cán cân thương mại không chỉ dừng

ở kênh “cầu nội địa - năng suất” mà còn chịu ảnh hưởng từ các yếu tố gián tiếp như

12

chính sách tiền tệ, chế độ tỷ giá, kỳ vọng thị trường và cả vấn đề “thâm hụt kép”. Các

tác giả như Kim và Roubini (2008), Corsetti và Müller (2006) hay Enders và Lee (1990)

đã chỉ ra rằng khi chính phủ đẩy mạnh chi tiêu (bao gồm đầu tư công) dẫn đến thâm hụt

ngân sách, điều này có thể làm lãi suất trong nước tăng hoặc tạo áp lực tăng giá đồng

nội tệ nếu vốn đầu tư nước ngoài chảy vào. Hệ quả là xuất khẩu trở nên đắt đỏ hơn, nhập

khẩu rẻ đi, đẩy cán cân thương mại về phía thâm hụt. Tuy nhiên, không phải lúc nào

mối quan hệ thâm hụt kép cũng rõ ràng, bởi một khi các dự án hạ tầng và phát triển công

được triển khai hiệu quả, năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của hàng hóa nội địa

có thể bù đắp lại những tác động bất lợi ban đầu. Thêm vào đó, chế độ tỷ giá cũng là

yếu tố then chốt: nếu tỷ giá cố định, ngân hàng trung ương buộc phải can thiệp mạnh để

duy trì mục tiêu, còn nếu tỷ giá linh hoạt, những cú sốc về chi tiêu công có thể khiến tỷ

giá biến động, từ đó ảnh hưởng chiều hướng xuất khẩu và nhập khẩu. Obstfeld và Rogoff

(1995) cùng Blanchard (nhiều ấn bản) đã phân tích chi tiết cách một chính sách tài khóa

mở rộng dưới chế độ tỷ giá khác nhau có thể dẫn đến kết quả rất khác nhau về cán cân

thương mại.

Bên cạnh chính sách tiền tệ và tỷ giá, kỳ vọng thị trường cũng đóng vai trò quan

trọng. Những dự án đầu tư công quy mô lớn, nếu được nhìn nhận tích cực, có thể thu

hút dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào ngành sản xuất xuất khẩu, góp phần nâng cao

kim ngạch xuất khẩu và ổn định cán cân vãng lai. Ngược lại, nếu thị trường nghi ngại

tính hiệu quả của đầu tư công hay lo ngại nợ công tăng cao, lạm phát có thể leo thang,

làm đồng nội tệ chịu áp lực giảm giá, dẫn đến chu kỳ bất ổn vĩ mô và cán cân thương

mại sẽ biến động khó lường. Theo Romer (1999) và cách tiếp cận IS-LM trong nền kinh

tế mở (Mundell-Fleming), cách ngân hàng trung ương phản ứng với cú sốc chi tiêu chính phủ (tăng lãi suất hay bơm thanh khoản) cũng có thể khiến tác động lên cán cân thương

mại trở nên tích cực hay tiêu cực.

Từ tổng hợp các kết quả lý thuyết và thực nghiệm, có thể nhận định rằng đầu tư

công trong ngắn hạn thường làm tăng nhập khẩu và có nguy cơ gây thâm hụt cán cân

thương mại. Tuy nhiên, về trung và dài hạn, nếu đầu tư công tập trung vào hạ tầng, giáo

dục, R&D, tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng nguồn nhân

lực và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa, thì chính sự nâng cao năng suất

này sẽ giúp gia tăng xuất khẩu, giảm bớt nhu cầu nhập khẩu không thiết yếu và hỗ trợ

cán cân thương mại theo hướng tích cực. Dù vậy, tác động thực tế còn phụ thuộc lớn

vào chất lượng quản lý, giám sát đầu tư công, cơ chế tài trợ cho các dự án (vay nợ hay

tăng thuế), cũng như cách điều hành chính sách tiền tệ và tỷ giá. Chính sự tương tác

phức tạp của những yếu tố này lý giải tại sao trong một số trường hợp, mối quan hệ “đầu

13

tư công - tăng trưởng kinh tế - cán cân thương mại” mang lại lợi ích lâu dài, trong khi ở

nhiều trường hợp khác, chi tiêu chính phủ quy mô lớn lại có thể dẫn đến mất cân đối

thương mại và bất ổn vĩ mô.

- Tác động đến đầu tư tư nhân:

Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế thông qua ảnh hưởng đến đầu

tư tư nhân luôn là chủ đề được tranh luận sôi nổi trong kinh tế học. Dưới góc độ

Keynesian truyền thống, khi nền kinh tế có nguồn lực nhàn rỗi, việc chính phủ tăng chi

tiêu và đầu tư công được xem là lan tỏa tới đầu tư tư nhân (crowding-in). Lập luận chủ

yếu dựa trên quan điểm của Keynes (1936) rằng đầu tư công có thể kích thích tổng cầu,

làm tăng sản lượng và việc làm, qua đó cải thiện doanh thu và kỳ vọng thị trường, thúc

đẩy khu vực tư nhân rót thêm vốn. Trong điều kiện hoạt động sản xuất chưa đạt toàn

dụng, lãi suất chưa chịu áp lực lớn, chính sách tiền tệ thường nới lỏng, nên hiệu ứng lấn

át (crowding-out) tạm thời không rõ rệt. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế đã vận hành gần

mức tiềm năng, tăng chi tiêu chính phủ có thể đẩy lãi suất lên (do cạnh tranh nguồn vốn),

làm chi phí vay của doanh nghiệp tư nhân tăng, từ đó kìm hãm đầu tư tư nhân. Lý thuyết

IS-LM (Hicks, 1937) và các nghiên cứu về gánh nặng nợ (Modigliani, 1961) đã chỉ ra

cơ chế này, giải thích vì sao tác động kích thích có thể bị “triệt tiêu” trong bối cảnh lãi

suất và nguồn vốn có giới hạn.

Dưới cách tiếp cận Tân Cổ Điển và mô hình Solow (Solow, 1956), nền kinh tế

được phân tích dựa trên tích lũy vốn, tăng trưởng năng suất nhân tố tổng hợp và trạng

thái cân bằng dài hạn. Ban đầu, mô hình Solow không đặc biệt nhấn mạnh vai trò của

đầu tư công, nhưng các mở rộng sau này (Barro, 1990) đã đưa “vốn công” vào hàm sản

xuất, xem đây là nhân tố tác động đến năng suất của vốn tư nhân. Nếu đầu tư công tập trung vào hạ tầng bổ trợ, hạ tầng kỹ thuật, các lĩnh vực công nghệ, giáo dục, hoặc y tế,

khu vực tư nhân sẽ hưởng lợi và có xu hướng đầu tư nhiều hơn. Tuy nhiên, nếu chính

phủ phải tăng thuế hoặc vay nợ để tài trợ đầu tư công vượt quá mức hợp lý, nguồn lực

khu vực tư nhân bị thu hẹp, chi phí vốn tăng, kỳ vọng lợi nhuận giảm, dẫn đến lấn át

đầu tư tư nhân.

Trong các mô hình tăng trưởng nội sinh (Romer, 1986; Lucas, 1988), đầu tư công

có vai trò đặc biệt quan trọng thông qua việc hỗ trợ nghiên cứu và phát triển (R&D),

phát triển vốn con người, cải thiện công nghệ và tri thức. Theo quan điểm này, hạ tầng

công là yếu tố tạo “lợi suất tăng dần” hoặc thúc đẩy “lan tỏa” công nghệ qua đó nâng

cao tốc độ tăng trưởng dài hạn. Chính sách tài khóa hợp lý, tập trung vào các lĩnh vực

then chốt, có thể kích hoạt dòng đầu tư tư nhân, bởi khi năng suất nội tại của doanh

nghiệp tăng, họ sẵn sàng bỏ vốn lớn hơn. Mô hình của Barro (1990) trong bối cảnh lý

14

thuyết nội sinh chỉ rõ nếu đầu tư công ở mức tối ưu, nền kinh tế sẽ đạt tốc độ tăng trưởng

cao nhất; nhưng nếu vượt quá ngưỡng, thuế và gánh nặng nợ kéo theo sẽ khiến khu vực

tư nhân suy giảm động lực đầu tư.

Các kênh truyền dẫn quan trọng gồm lãi suất, hạ tầng và kỳ vọng. Một mặt, nếu

chi tiêu công lớn nhưng chính sách tiền tệ không phối hợp, áp lực lên lãi suất sẽ làm chi

phí vốn của tư nhân tăng (Blinder & Solow, 1973), lấn át đầu tư tư nhân. Ngược lại, khi

nền kinh tế đang suy thoái hoặc chưa sử dụng hết công suất, ngân hàng trung ương có

thể duy trì lãi suất thấp để hỗ trợ chính sách tài khóa, giúp vừa tăng đầu tư công, vừa

giữ chi phí vốn cho doanh nghiệp ở mức chấp nhận được. Mặt khác, đầu tư vào hạ tầng

như giao thông, viễn thông, năng lượng sẽ trực tiếp làm giảm chi phí sản xuất và mở

rộng thị trường cho doanh nghiệp, qua đó thu hút thêm nguồn vốn tư nhân (Aschauer,

1989; Blejer & Khan, 1984). Ngoài ra, yếu tố tâm lý và kỳ vọng cũng rất quan trọng:

nếu cộng đồng doanh nghiệp tin rằng chính phủ đang đầu tư hiệu quả, minh bạch, cải

thiện đáng kể hệ thống hạ tầng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, họ sẽ sẵn sàng

bỏ vốn và mở rộng quy mô sản xuất (Auerbach & Gale, 2009). Ngược lại, nỗi lo nợ công

tăng hay chính sách thiếu ổn định, thiếu minh bạch, sẽ làm giảm niềm tin và kéo theo

sự “phòng thủ” của nhà đầu tư tư nhân (Dixit & Pindyck, 1994).

Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho thấy hiệu quả đầu tư công và bối cảnh thể chế

quyết định việc đầu tư công có “lan tỏa” hay “lấn át” khu vực tư nhân. Blejer & Khan

(1984) phân tích ở các nước đang phát triển, chỉ ra đầu tư công mang tính hạ tầng, kinh

tế - xã hội thường tạo hiệu ứng bổ trợ; ngược lại, nếu chính phủ đầu tư trực tiếp vào lĩnh

vực cạnh tranh với tư nhân hoặc quản lý kém hiệu quả, hiệu ứng có thể đảo chiều. Romp

& de Haan (2007) tổng quan nhiều nghiên cứu về vốn công, nhấn mạnh quản trị công yếu kém dẫn đến lãng phí, dàn trải, làm mất đi lợi ích tiềm năng. Khi so sánh giữa các

quốc gia, những nơi có thể chế minh bạch, bộ máy hành chính gọn nhẹ, chất lượng đầu

tư công tốt thường ghi nhận vai trò tích cực hơn của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân

và tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, hầu hết tài liệu đều gợi ý rằng chất lượng đầu tư và cơ cấu

đầu tư công quan trọng hơn quy mô chi tiêu. Nếu được thiết kế đúng lúc, đúng chỗ, đầu

tư công vừa tránh nguy cơ lấn át, vừa góp phần tạo môi trường thuận lợi cho khu vực tư

1.1.2. Các lý thuyết tác động từ phía tổng cung

nhân, nhất là tại những nước đang phát triển có nhu cầu về hạ tầng và vốn con người lớn.

- Tác động đến vốn sản xuất:

Đầu tư công có thể tạo ra tác động đáng kể đối với tăng trưởng kinh tế thông qua

việc nâng cao quy mô và chất lượng vốn sản xuất, tức vốn công. Dưới góc nhìn tân cổ

15

điển, mô hình Solow ban đầu chỉ tập trung vào tích lũy vốn tư nhân và tiến bộ kỹ thuật,

nhưng các nghiên cứu sau đó (như của Barro hay Aschauer) đã mở rộng bằng cách đưa

thêm biến số vốn công vào hàm sản xuất. Vốn công, nhất là hạ tầng cơ sở, được coi là

đầu vào quan trọng, vừa làm tăng tổng vốn của nền kinh tế, vừa nâng cao năng suất của

các yếu tố khác, đặc biệt là vốn tư nhân. Khi nguồn vốn công được triển khai hiệu quả,

chi phí sản xuất và giao dịch giảm đi, hạ tầng hiện đại giúp lưu thông hàng hóa thuận

lợi, qua đó tối ưu hóa công nghệ và nâng suất sinh lợi của khu vực tư nhân. Bên cạnh

kênh tác động trực tiếp là gia tăng quy mô tài sản cố định, các nghiên cứu cũng nhấn

mạnh đến yếu tố ngoại hiện tích cực mà vốn công mang lại, từ đó thúc đẩy sáng tạo,

chuyển giao công nghệ và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn. Tiếp cận từ mô hình

tăng trưởng nội sinh nhấn mạnh rằng chi tiêu và đầu tư công cũng có thể nâng cao tốc

độ tăng trưởng dài hạn, đặc biệt nếu được duy trì ở một mức tối ưu, phù hợp với quy mô

nền kinh tế và không gây áp lực quá lớn lên ngân sách hay thuế khóa. Tuy nhiên, đầu tư

công không phải lúc nào cũng tạo ra hiệu quả tích cực. Nếu chính phủ đi vay quá nhiều

dẫn đến tăng lãi suất hoặc đánh thuế quá cao để tài trợ dự án, khu vực tư nhân có thể bị

“lấn át”, làm giảm động lực đầu tư và tăng trưởng. Các công trình được triển khai kém

hiệu quả, tham nhũng hay lãng phí cũng có thể biến đầu tư công từ động lực thành trở

ngại cho phát triển. Thực chứng từ nhiều nghiên cứu kinh điển như Aschauer (1989),

Munnell (1990), hay tổng hợp của Bom và Ligthart (2014) cho thấy mối quan hệ dương

giữa đầu tư công và tăng trưởng, nhưng hàm ý chính sách luôn đi kèm những cảnh báo

về chất lượng thể chế, năng lực quản lý và giám sát dự án. Vì vậy, mặc dù kênh tác động

trực tiếp của đầu tư công đến tăng trưởng thông qua việc bổ sung vốn sản xuất là rõ

ràng, kết quả sau cùng vẫn phụ thuộc vào việc lựa chọn dự án đúng đắn, hạn chế tham

nhũng và điều chỉnh hợp lý cấu trúc ngân sách.

- Tác động đến năng suất lao động

Đầu tư công có thể tác động đến năng suất lao động theo nhiều kênh khác nhau,

và các kết quả nghiên cứu lý thuyết lẫn thực nghiệm đều cho thấy xu hướng chung rằng,

nếu được thực hiện hiệu quả, đầu tư công sẽ hỗ trợ nâng cao năng suất và tăng trưởng

kinh tế. Một trong những kênh quan trọng là tác động trực tiếp thông qua xây dựng và

nâng cấp hạ tầng cứng như đường xá, cầu cống, cảng, hệ thống điện nước. Aschauer

(1989) và Munnell (1990) đều ghi nhận sự tương quan dương giữa đầu tư công vào hạ

tầng với năng suất lao động ở Mỹ. Gramlich (1994) cũng tổng hợp nhiều nghiên cứu,

cho thấy hạ tầng công, nếu được triển khai đúng đắn, có thể giúp giảm chi phí kinh

doanh, rút ngắn thời gian di chuyển, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất.

16

Bên cạnh hạ tầng cứng, đầu tư vào giáo dục, y tế và khoa học công nghệ cũng có

tác động trực tiếp đến chất lượng lao động. Lucas (1988) nhấn mạnh vai trò tích lũy vốn

con người và khẳng định khi chất lượng lao động tăng, năng suất cận biên cũng được

cải thiện, thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Mankiw, Romer & Weil (1992) đưa vốn con

người vào mô hình Solow-Swan mở rộng, qua đó cho thấy đầu tư vào giáo dục mang lại

lợi ích rõ rệt về năng suất lao động. Trên khía cạnh y tế, Bloom, Canning & Sevilla

(2004) chứng minh rằng nâng cao sức khỏe người dân giúp năng suất tổng thể tăng lên

và đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế dài hạn.

Không chỉ tác động trực tiếp, đầu tư công còn tạo hiệu ứng bổ trợ hoặc lấn át đối

với khu vực tư nhân. Khi hạ tầng giao thông, viễn thông hay dịch vụ công được cải

thiện, chi phí sản xuất và rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân giảm, thúc đẩy họ

mở rộng đầu tư (hiệu ứng lan tỏa). Blejer & Khan (1984) cũng như Easterly & Rebelo

(1993) đều cho thấy đầu tư công vào hạ tầng cơ sở có thể khuyến khích đầu tư tư nhân

ở các nước đang phát triển. Cavallo & Daude (2011) bổ sung thêm rằng hiệu ứng này rõ

nét hơn ở môi trường có chất lượng thể chế và quản trị tốt.

Ngược lại, nếu đầu tư công được tài trợ bằng cách vay nợ quá mức, hoặc thâm

hụt ngân sách quá lớn, có thể gây áp lực tăng lãi suất và đánh bật (crowding out) đầu tư

tư nhân. Feldstein (1982) đã cảnh báo chính sách chi tiêu công ồ ạt có thể khiến lãi suất

cao lên, kìm hãm tăng trưởng dài hạn do doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn trong việc

tiếp cận nguồn vốn. Barro (1974) cũng nêu ra lập luận liên quan đến đầu tư tư nhân

tương tự với Ricardo, rằng nếu người dân dự đoán Chính phủ sẽ phải tăng thuế hoặc tiếp

tục vay nợ để bù đắp thâm hụt, họ có thể thay đổi hành vi tiết kiệm và đầu tư, khiến tác

động kích cầu từ đầu tư công không đạt như kỳ vọng. Baxter & King (1993) còn cho thấy cách thức tài trợ đầu tư công và cấu trúc kinh tế là yếu tố quan trọng quyết định

mức độ lấn át hay bổ trợ.

Tác động ngắn hạn và dài hạn của đầu tư công đến năng suất lao động cũng khác

nhau. Trong ngắn hạn, việc triển khai các dự án xây dựng hạ tầng có thể thúc đẩy việc làm,

kích cầu theo hiệu ứng Keynes. Tuy nhiên, sự cải thiện thực sự về năng suất thường cần

thời gian để “ngấm” thông qua quá trình vận hành và khai thác hạ tầng. Romer (2011) trong

“Advanced Macroeconomics” phân tích các mô hình cho thấy chi tiêu công có thể thúc

đẩy tổng cầu ngay lập tức, nhưng muốn tạo tác động rõ rệt lên năng suất lao động, cần có

đầu tư dài hơi vào hệ thống giáo dục, R&D và quản trị hạ tầng. Canning & Bennathan

(2000) đã chỉ ra rằng hiệu quả của các dự án giao thông chỉ thể hiện rõ sau thời gian đủ

dài để vận hành ổn định, và Bom & Ligthart (2014) cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của

độ trễ và bối cảnh quốc gia khi lượng hóa ảnh hưởng của đầu tư công đến năng suất.

17

Tựu trung, các nghiên cứu nêu trên đều thống nhất rằng đầu tư công, nhất là vào

hạ tầng và vốn con người, có tiềm năng nâng cao năng suất lao động, qua đó thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế. Dù vậy, hiệu quả của các khoản chi tiêu này đòi hỏi phải được quản

lý, giám sát chặt chẽ để tránh thất thoát, tham nhũng, hoặc để lại gánh nặng nợ nần quá

lớn. Bên cạnh đó, bối cảnh thể chế và chính sách vĩ mô có vai trò quyết định trong việc

bảo đảm đầu tư công thực sự mang lại lợi ích bền vững và lâu dài cho nền kinh tế.

- Tác động đến năng suất nhân tố tổng hợp (TFP)

Đầu tư công được coi là một trong những động lực chính thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế, đặc biệt thông qua kênh tăng năng suất các nhân tố tổng hợp (Total Factor

Productivity - TFP). Khái niệm TFP phản ánh phần tăng trưởng không thể giải thích

được chỉ qua việc gia tăng các yếu tố đầu vào như vốn và lao động, mà còn bị chi phối

bởi tiến bộ công nghệ, năng lực quản lý, chất lượng thể chế và cơ sở hạ tầng. Trong các

mô hình kinh tế tân cổ điển, đầu tư công thường gắn với các hạng mục như giao thông,

năng lượng, giáo dục, y tế hoặc nghiên cứu phát triển (R&D) để cải thiện điều kiện sản

xuất kinh doanh, giảm chi phí giao dịch và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Mô

hình tăng trưởng nội sinh của Barro (1990) cho thấy có một mức chi tiêu công tối ưu

thúc đẩy tăng trưởng dài hạn, trong đó nguồn lực đầu tư chính phủ đóng vai trò cải thiện

năng suất và tạo tiền đề cho đổi mới sáng tạo. Các nghiên cứu lý thuyết kinh điển như

của Arrow (1962) nhấn mạnh vai trò “learning by doing” giúp chuyển giao và lan tỏa

công nghệ, hay Aschauer (1989) chỉ ra rằng suy giảm đầu tư hạ tầng công có thể dẫn

đến giảm năng suất.

Bằng chứng thực nghiệm tại nhiều quốc gia cho thấy tác động rõ nét của đầu tư

công lên tăng trưởng, đặc biệt qua việc gia tăng TFP. Chẳng hạn, Easterly và Rebelo (1993) phân tích cho nhiều nước, kết quả cho thấy đầu tư vào giao thông, truyền thông

giúp cải thiện năng suất. Canning và Bennathan (2000) nghiên cứu tầm quan trọng của

đường bộ, đường sắt ở các nước đang phát triển, làm rõ mối liên hệ giữa đầu tư hạ tầng

và năng suất lao động. Ở cấp độ tiểu bang tại Hoa Kỳ, Holtz-Eakin và Schwartz (1995)

cũng khẳng định tác động tích cực của đầu tư công lên năng suất nhưng cho thấy hiệu

quả chịu ảnh hưởng lớn bởi chất lượng quản lý công và có độ trễ nhất định. Trong

nghiên cứu về đường cao tốc, Fernald (1999) ghi nhận năng suất của nhiều ngành tăng

đáng kể khi hạ tầng trọng yếu phát triển, song hiệu quả có xu hướng bão hòa khi nhu

cầu cơ bản đã được đáp ứng. Các tổng quan của Straub (2008) hay Bom và Ligthart

(2014) nhấn mạnh rằng thể chế minh bạch, thủ tục giám sát chặt chẽ và năng lực hành

chính cao có vai trò quyết định trong việc chuyển các khoản đầu tư công thành tăng

trưởng bền vững.

18

Tại các quốc gia đang phát triển, nhu cầu đầu tư cho hạ tầng cơ bản, giáo dục và

y tế thường rất lớn nên lợi suất đầu tư công có thể cao hơn so với các nước đã phát triển,

song đồng thời cũng đứng trước rủi ro lãng phí, tham nhũng và bất cập trong thực thi.

Muốn tận dụng tối đa tác động của đầu tư công lên TFP, cần bảo đảm lựa chọn và triển

khai dự án hiệu quả, tránh phân bổ dàn trải hoặc chịu chi phối bởi lợi ích nhóm. Mô hình

đối tác công - tư (PPP) có thể được khuyến khích để vừa huy động nguồn lực của khu

vực tư nhân, vừa chia sẻ rủi ro, qua đó kích thích “hiệu ứng lan tỏa” thay vì “hiệu ứng

lấn át”. Bên cạnh đầu tư vào hạ tầng vật chất, các khoản chi cho R&D, đổi mới sáng tạo,

giáo dục và đào tạo chất lượng cao cũng góp phần quan trọng thúc đẩy năng suất, nhất

là khi đi kèm thể chế minh bạch và môi trường kinh doanh ổn định. Nếu hội tụ đầy đủ

những yếu tố này, đầu tư công không chỉ nâng cao sản lượng trước mắt mà còn tạo ra

sự đột phá về công nghệ, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và hỗ trợ doanh nghiệp

vươn lên trong chuỗi giá trị, qua đó đóng góp lâu dài vào tăng trưởng kinh tế thông qua

1.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế

1.2.1. Nghiên cứu tại các nước phát triển

nâng cao TFP.

Aschauer (1988) đã mở đầu một hướng nghiên cứu mới bằng cách phân tích tác

động của đầu tư công, đặc biệt là các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng như đường bộ, cầu

cống và hệ thống cấp thoát nước, lên năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế của khu

vực tư nhân. Dựa trên dữ liệu của Hoa Kỳ giai đoạn 1949-1985, ông sử dụng một mô

hình sản xuất tổng quát, trong đó vốn công (G) được bổ sung vào các yếu tố sản xuất

truyền thống—vốn tư nhân (K) và lao động (L). Cụ thể, giả định hàm sản xuất có dạng:

Yt=At f(Gt,Kt,Lt)

và sau khi chuyển sang dạng logarit, ta có:

yt = at + eN*nt + eK*kt + eG*gt

Kết quả ước tính cho thấy một sự gia tăng 1% trong vốn công dẫn đến mức tăng

năng suất dao động từ 0,38% đến 0,56%, vượt trội so với tác động của vốn tư nhân và

lao động. Hơn nữa, Aschauer phân biệt giữa các loại hình đầu tư công, chỉ ra rằng các

khoản đầu tư vào hạ tầng cốt lõi (đường cao tốc, hệ thống cấp thoát nước…) có hiệu quả

hơn so với các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng phụ trợ (tòa nhà hành chính, công trình

giáo dục). Ông cũng liên kết sự suy giảm đầu tư công trong những năm 1970 với việc

giảm sút năng suất lao động, qua đó nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa trong

việc duy trì và mở rộng vốn công nhằm đảm bảo tăng trưởng bền vững.

19

Berndt và Hansson (1992), tác giả tập trung vào việc đo lường đóng góp của vốn

cơ sở hạ tầng công đến sản lượng và tăng trưởng năng suất ở Thụy Điển, dựa trên dữ

liệu hàng năm từ 1960 đến 1988. Thông qua việc áp dụng mô hình hàm chi phí kép, nghiên

cứu nhận thấy rằng, việc gia tăng vốn cơ sở hạ tầng công góp phần làm giảm chi phí sản

xuất của khu vực tư nhân. Mặc dù ước tính về mức tiết kiệm chi phí hợp lý từ vốn công

cho thấy giá trị thấp hơn so với tổng mức đầu tư thực tế, nhưng kết quả cũng cho thấy

một xu hướng giảm dần lượng vốn cơ sở hạ tầng dư thừa trong những năm 1980.

Everaert và Heylen đã khảo sát tác động của vốn công đến năng suất nhân tố tổng

hợp (TFP) ở Bỉ thông qua phân tích đồng liên kết một phương trình với dữ liệu hàng

năm trong giai đoạn 1953-1996. Thay vì sử dụng xu hướng định tính để đo lường tiến

bộ công nghệ, các tác giả sử dụng số liệu thống kê về bằng sáng chế như một biến đại

diện cho công nghệ. Qua mô hình hiệu chỉnh sai số, kết quả ước tính cho thấy mối quan

hệ cân bằng dài hạn giữa vốn công và năng suất, đồng thời khẳng định chiều hướng nhân

quả từ vốn công đến năng suất.

Nghiên cứu của Perotti (2004) tập trung vào đánh giá tác động của các công cụ

chi tiêu chính phủ bao gồm đầu tư công, tiêu dùng công và chuyển giao đến GDP và các

thành phần kinh tế thông qua mô hình Tự hồi quy vector (VAR). Dữ liệu thu thập từ

một số quốc gia OECD (Mỹ, Đức, Anh, Canada, Úc) cho thấy không có bằng chứng

thuyết phục ủng hộ giả thuyết rằng đầu tư công có tác động vượt trội hơn tiêu dùng công

đối với tăng trưởng GDP cả ngắn hạn lẫn dài hạn. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy

đầu tư công có xu hướng lấn át đầu tư tư nhân trong một số lĩnh vực (nhà ở, máy móc,

thiết bị) và bác bỏ giả thuyết theo đó đầu tư công tự bù đắp chi phí theo quan điểm

“Golden Rule”. Một điểm đáng chú ý là hiệu quả của tiêu dùng công còn phụ thuộc vào

mục đích chi tiêu, với chi tiêu dân sự thường hiệu quả hơn so với chi tiêu quốc phòng.

Abdih và Joutz đã mở rộng hàm sản xuất truyền thống bằng cách bổ sung vốn

công như một yếu tố đầu vào bổ sung trong bối cảnh kinh tế Mỹ hậu chiến. Phân tích

của họ, dựa trên phương pháp đồng liên kết đa biến theo Johansen, không chỉ đánh giá

tác động của vốn công mà còn xem xét vai trò của vốn tư nhân, vốn con người (điều

chỉnh theo kỹ năng) và vốn kiến thức/công nghệ (đại diện qua bằng sáng chế ứng dụng).

Kết quả chỉ ra rằng, trong dài hạn, vốn công góp phần giải thích khoảng một nửa sự suy

giảm năng suất sau năm 1973, mặc dù các yếu tố về vốn kiến thức và vốn con người lại

có ảnh hưởng quan trọng hơn đối với quá trình phục hồi năng suất từ giữa những năm

(cid:3081)(cid:2870)

(cid:3081)(cid:2871)

(cid:3084)(cid:3047)

1980. Hàm sản xuất được ước lượng có dạng:

(cid:3081)(cid:2872) (cid:1838)(cid:3047)

(cid:3081)(cid:2869) (cid:1851)(cid:3047) (cid:3404) (cid:1827)(cid:3047)

(cid:3)(cid:1837)(cid:1842)(cid:3047) (cid:1837)(cid:1833)(cid:3047) (cid:1857)

20

trong đó Y biểu thị đầu ra, A là vốn kiến thức/công nghệ, KP là vốn tư nhân, KG

là vốn công, L là vốn con người hoặc lao động được điều chỉnh theo kỹ năng, εt là số

hạng nhiễu loạn tiếng ồn trắng, và βs là độ co giãn được ước tính tự do.

Bronzini và Piselli (2009) nghiên cứu mối quan hệ lâu dài giữa năng suất tổng hợp, R&D, vốn con người và cơ sở hạ tầng công tại các vùng của Ý trong giai đoạn

1980-2001. Áp dụng các kỹ thuật đồng liên kết bảng và kiểm soát tính nội sinh của các

biến, họ ước tính một hàm sản xuất theo dạng Cobb-Douglas:

(cid:3080) (cid:1851)(cid:3036)(cid:481)(cid:3047) (cid:3404) (cid:1846)(cid:1832)(cid:1842)(cid:3036)(cid:481)(cid:3047)(cid:3)(cid:1838)(cid:3047)

(cid:3081) (cid:1837)(cid:3036)(cid:481)(cid:3047)

với năng suất nhân tố tổng hợp:

(cid:3081) (cid:1837)(cid:3036)(cid:481)(cid:3047)

(cid:3080) (cid:1846)(cid:1832)(cid:1842)(cid:3036)(cid:481)(cid:3047) (cid:3404) (cid:1851)(cid:3036)(cid:481)(cid:3047)(cid:512)(cid:1838)(cid:3047)

được thúc đẩy bởi vốn con người, cơ sở hạ tầng công và hoạt động R&D. Kết

quả cho thấy, ngoài tác động tích cực của vốn công, các hiệu ứng lan tỏa từ R&D và cơ

sở hạ tầng của các vùng lân cận cũng góp phần quan trọng vào việc tăng trưởng năng

suất. Kiểm định nhân quả Granger càng khẳng định rằng vốn con người và cơ sở hạ tầng

có tác động nhân quả đối với năng suất trong dài hạn, trong khi mối quan hệ hai chiều

chỉ được tìm thấy đối với các biến R&D.

Afonso và St. Aubyn (2008) tập trung vào đánh giá tỷ lệ lợi nhuận vĩ mô của đầu tư công và tư nhân, cùng với việc xác định các hiệu ứng lấn át (crowding-out) và lan tỏa

(crowding-in) giữa chúng. Sử dụng một mô hình sản xuất mở rộng theo dạng Cobb-

Douglas, trong đó cả đầu tư công và tư nhân được đưa vào làm yếu tố sản xuất cùng với

các biến kiểm soát như lãi suất và tỷ lệ tiết kiệm, nghiên cứu áp dụng dữ liệu của một

mẫu quốc gia OECD trong khoảng thời gian 1960-2005. Kết quả cho thấy, nhìn chung,

đầu tư công có xu hướng tạo ra hiệu ứng lan tỏa đối với đầu tư tư nhân, đặc biệt ở các

lĩnh vực cơ sở hạ tầng và giáo dục. Tuy nhiên, khi đầu tư công không hiệu quả hoặc

vượt quá khả năng tài chính, hiệu ứng lấn át có thể xảy ra. Do đó, các nhà hoạch định

chính sách cần thiết kế chính sách chi tiêu công một cách cẩn trọng, kết hợp chặt chẽ

với các chính sách tài khóa và tiền tệ, nhằm đảm bảo rằng đầu tư công không chỉ thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn hỗ trợ đầu tư tư nhân một cách bền vững.

Các nghiên cứu trên đều nhấn mạnh rằng vốn công đóng vai trò trung tâm trong việc cải thiện năng suất và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặc dù các phương pháp và dữ

liệu sử dụng có khác nhau - từ mô hình sản xuất tổng quát, hàm chi phí kép, mô hình

đồng liên kết cho đến VAR - tất cả đều cho thấy mối quan hệ tích cực giữa đầu tư công

và năng suất. Tuy nhiên, tính hiệu quả của đầu tư công phụ thuộc vào nhiều yếu tố như

loại hình đầu tư, hiệu quả quản lý và khả năng phối hợp với các chính sách kinh tế khác.

1.2.2. Nghiên cứu tại các nước đang phát triển

21

Trong bối cảnh các nền kinh tế đang phát triển đối mặt với những thách thức về

cơ sở hạ tầng và sự chuyển dịch trong cấu trúc đầu tư, nhiều nghiên cứu đã cố gắng giải

thích vai trò tương hỗ của đầu tư công và đầu tư tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế.

Khan và Kumar (1997) đã sử dụng dữ liệu từ 95 quốc gia trong giai đoạn 1970-1990 và

(cid:2869)(cid:2879)(cid:3080)(cid:2879)(cid:3081) trong đó Y, L và A lần lượt biểu thị mức sản lượng, lao động và công nghệ; Kg

áp dụng mô hình tăng trưởng tân cổ điển với hàm sản xuất Cobb-Douglas có dạng:

(cid:3081) (cid:3)(cid:1837)(cid:3043)(cid:3036)(cid:3047)

(cid:3080) (cid:1851)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3404) (cid:3) (cid:1837)(cid:3034)(cid:3036)(cid:3047)

(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:2009) (cid:3397) (cid:2010) (cid:3407) (cid:883) (cid:4666)(cid:1827)(cid:3036)(cid:3047)(cid:3)(cid:1838)(cid:3036)(cid:3047)(cid:4667)

và Kp biểu thị vốn đầu tư của khu vực công và tư nhân. L và A được giả định tăng

trưởng ngoại sinh với tốc độ n và ; do đó N = LA, có thể được hiểu là năng suất lao

động hoặc lao động được đo bằng đơn vị năng suất. Kết quả thực nghiệm của họ cho (cid:3)(cid:2011) thấy đầu tư tư nhân có năng suất biên cao và khả năng thích ứng vượt trội, đặc biệt là

trong thập niên 1980, qua đó tạo ra tác động kích thích tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn so với đầu tư công. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tác động của đầu tư công

không đồng nhất mà phụ thuộc vào bối cảnh khu vực và đặc điểm kinh tế của từng quốc

gia. Cụ thể, ở những quốc gia có thu nhập thấp, khi mà cơ sở hạ tầng còn hạn chế và

nhu cầu phát triển kinh tế cấp bách, đầu tư công lại đóng vai trò quan trọng hơn. Các

khoản đầu tư công vào giao thông, năng lượng và hệ thống cấp thoát nước không chỉ cải

thiện năng suất lao động mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh

doanh của khu vực tư nhân; ngược lại, các khoản đầu tư công kém hiệu quả hoặc không

phù hợp có thể dẫn đến hiện tượng lấn át, do cạnh tranh nguồn lực và áp lực tài khóa.

Trong một bối cảnh cụ thể hơn, Ramirez (1996) đã khảo sát mối quan hệ giữa

đầu tư công và tư nhân tại Mexico và Chile, hai quốc gia có bối cảnh lịch sử và chính

sách kinh tế khác nhau sau chiến tranh. Qua việc sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian và các

mô hình kinh tế lượng, nghiên cứu của ông khẳng định rằng cả hai loại hình đầu tư đều

có tác động tích cực đối với tăng trưởng GDP và năng suất lao động. Ở Mexico, giai

đoạn từ những năm 1950 đến 1970 chứng kiến một chiến lược công nghiệp hóa theo mô

hình ISI với sự đầu tư mạnh mẽ của nhà nước vào cơ sở hạ tầng và ngành công nghiệp

nặng, nhưng sự can thiệp quá mức và thiếu hiệu quả trong quản lý đã góp phần vào

khủng hoảng tài chính vào thập niên 1980. Trong khi đó, tại Chile, vai trò của đầu tư

công biến đổi mạnh mẽ theo từng giai đoạn chính trị - kinh tế, từ thời kỳ các chính phủ xã hội chủ nghĩa cho đến giai đoạn cải cách kinh tế sau cuộc đảo chính năm 1973. Những

phân tích sau này của Ramirez và Nazmi (2003) mở rộng phạm vi nghiên cứu sang chín

quốc gia lớn ở Mỹ Latinh trong giai đoạn 1983-1993, cho thấy mặc dù cả đầu tư công

22

và tư nhân đều góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cơ chế tác động của chúng có

những khác biệt rõ rệt. Đặc biệt, đầu tư công trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng thiết yếu

như giao thông, năng lượng, giáo dục và y tế được xác định là yếu tố hỗ trợ quan trọng,

góp phần tạo ra môi trường thuận lợi cho đầu tư tư nhân và tăng trưởng dài hạn, mặc dù

nếu không được quản lý hiệu quả thì nó có thể gây ra hiệu ứng “crowding-out” trong

ngắn hạn, nhất là khi được tài trợ thông qua thuế cao hoặc tăng nợ công.

Cùng với đó, Calderón và Servén (2004) đã sử dụng một tập dữ liệu bảng gồm

hơn 100 quốc gia từ năm 1960 đến 2000 để đánh giá tác động của sự phát triển cơ sở hạ

tầng đối với tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập. Phương pháp ước lượng dựa

trên GMM, với việc sử dụng các công cụ nội sinh và ngoại sinh, cho thấy rằng tăng

trưởng kinh tế được thúc đẩy bởi mức độ tài sản cơ sở hạ tầng, và đồng thời, sự gia tăng

về cả số lượng lẫn chất lượng của cơ sở hạ tầng góp phần làm giảm bất bình đẳng thu

nhập, từ đó giúp chống lại đói nghèo. Những kết quả này làm nổi bật tầm quan trọng

của việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng như một công cụ chính sách nhằm thúc đẩy phát triển

bền vững.

Nghiên cứu tại Namibia của Kandenge (2010) áp dụng mô hình tăng trưởng tân

cổ điển theo phương pháp đồng tích hợp và hiệu chỉnh sai số (ECM) trên dữ liệu từ năm

1970 đến 2005 cho thấy rằng cả đầu tư công và tư nhân đều có tác động tích cực đến

tăng trưởng kinh tế, mặc dù đầu tư tư nhân có độ co giãn cao hơn, nghĩa là một đơn vị

tăng trưởng đầu tư tư nhân dẫn đến mức tăng GDP lớn hơn so với đầu tư công. Tuy

nhiên, vai trò của đầu tư công vẫn không thể bỏ qua khi nó cung cấp cơ sở hạ tầng cần

thiết để hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực tư nhân. Các biến số khác

như xuất khẩu, nhập khẩu, tự do kinh tế, vốn nhân lực và lao động cũng được xác định có mối quan hệ tích cực với tăng trưởng, trong khi các yếu tố như tỷ giá hối đoái thực

và điều kiện thương mại có tác động tiêu cực, qua đó nhấn mạnh sự cần thiết của một

môi trường kinh tế ổn định và chính sách hỗ trợ đầu tư.

Trong bối cảnh Nam Phi, Kumo (2012) đã sử dụng mô hình VAR và kiểm định

Granger để khám phá mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư cơ sở hạ tầng và tăng trưởng

kinh tế trên chuỗi dữ liệu hàng năm từ 1960 đến 2009. Nghiên cứu của ông chỉ ra rằng

có mối quan hệ nhân quả từ đầu tư cơ sở hạ tầng sang tăng trưởng kinh tế, nghĩa là

những cải thiện trong lĩnh vực này có thể dự đoán được sự gia tăng của GDP trong tương

lai. Đồng thời, không chỉ quy mô mà cả chất lượng và hiệu quả quản lý của các dự án

đầu tư cơ sở hạ tầng cũng đóng vai trò quan trọng, qua đó khuyến nghị các nhà hoạch

định chính sách cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng và tính bền vững của các

khoản đầu tư công.

23

Tại Bangladesh, Haque (2013) áp dụng mô hình tăng trưởng tân cổ điển với hàm

sản xuất Cobb-Douglas cùng với phương pháp ECM trên dữ liệu từ năm 1972 đến 2010 để

đánh giá tác động của đầu tư công và tư nhân lên GDP. Kết quả cho thấy cả hai loại hình

đầu tư đều góp phần tích cực đối với tăng trưởng kinh tế ở cả ngắn hạn và dài hạn, nhưng

đầu tư tư nhân có hiệu quả cao hơn trong dài hạn. Hệ số hiệu chỉnh của ECM cho thấy

khoảng 36% bất cân bằng được điều chỉnh mỗi năm, nghĩa là sau mỗi cú sốc kinh tế, hệ

thống cần khoảng ba năm để trở lại trạng thái cân bằng. Sự khác biệt về năng suất cận biên

giữa đầu tư công và tư nhân được giải thích thông qua cách thức triển khai; đầu tư công đạt

hiệu quả cao khi tập trung vào các dự án cơ sở hạ tầng thiết yếu, trong khi đầu tư tư nhân lại

được thúc đẩy nhờ hiệu quả sử dụng vốn và tính linh hoạt của thị trường. Đồng thời, nghiên

cứu cho thấy Bangladesh vẫn phụ thuộc nhiều vào tích lũy vốn vật chất, từ đó nhấn mạnh

nhu cầu chuyển dịch sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất và đổi mới công nghệ.

Ahamed (2022) tiếp tục mở rộng bối cảnh phân tích bằng cách sử dụng dữ liệu

bảng từ 39 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1990-2019, với tổng số 7020 quan

sát, nhằm đánh giá tác động của đầu tư công và tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế. Sử

dụng mô hình tác động cố định sau khi kiểm định Hausman và kết hợp với phương pháp

POLS, nghiên cứu cho thấy rằng mặc dù cả hai loại hình đầu tư đều quan trọng, đầu tư

công chỉ mang lại hiệu quả tích cực khi nó tạo điều kiện cho đầu tư tư nhân. Nếu vượt

quá mức tối ưu, đầu tư công có thể dẫn đến hiệu ứng lấn át, do đó các chính sách cần

chú trọng nâng cao năng suất khu vực công và xây dựng khung pháp lý phù hợp để kích

thích đầu tư tư nhân, qua đó đảm bảo sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô và thúc

đẩy tăng trưởng bền vững.

Ocolișanu, Dobrotă và Dobrotă (2022) tập trung vào các quốc gia Trung - Đông Âu trong giai đoạn 1995-2019, sử dụng mô hình VAR kết hợp với hàm phản ứng xung

để phân tích mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế bền vững. Kết quả cho

thấy đầu tư công có tác động tích cực ngắn hạn, giúp kích thích cả tăng trưởng GDP và

đầu tư tư nhân, với mối quan hệ tương hỗ và đôi chiều giữa hai loại hình đầu tư. Tuy

nhiên, về dài hạn, cú sốc từ đầu tư công lại được ước tính có tác động tiêu cực đối với

GDP ở phần lớn các quốc gia mẫu, cho thấy hiệu quả của đầu tư công phụ thuộc nhiều

vào cơ chế tài trợ, chất lượng dự án và các lợi ích kinh tế - xã hội kéo dài. Những phát

hiện này cho thấy rằng, mặc dù đầu tư công có thể là công cụ hữu hiệu để giảm thiểu

các biến động kinh tế ngắn hạn, thì để đạt được tăng trưởng bền vững, các nhà hoạch

định chính sách cần tập trung vào các lĩnh vực có khả năng kích thích phát triển lâu dài

như năng lượng tái tạo, viễn thông và giáo dục, đồng thời đảm bảo rằng chất lượng thể

chế và mức độ nợ công luôn được kiểm soát chặt chẽ.

1.2.3. Nghiên cứu tại Việt Nam

24

Canh Thi Nguyen và Lua Thi Trinh (2018) đã tiến hành đánh giá tác động ngắn

hạn và dài hạn của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế và đầu tư tư nhân tại Việt

Nam, sử dụng mô hình trễ phân tán tự hồi quy và dữ liệu vĩ mô từ năm 1990 đến 2016.

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, ở Việt Nam, đầu tư công có mối quan hệ hình chữ U

ngược với tăng trưởng kinh tế: tác động tích cực của đầu tư công chủ yếu xuất hiện sau

năm thứ hai, trong khi tác động tiêu cực lại dần chiếm ưu thế về lâu dài. Đồng thời, đầu

tư tư nhân, đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước và FDI được xác định có tác động tích cực

đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn. Hơn nữa, nghiên cứu của nhóm tác giả cho thấy

mô hình ảnh hưởng của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân cũng có dạng hình chữ U

ngược, nghĩa là đầu tư công có khả năng thúc đẩy đầu tư tư nhân trong ngắn hạn nhưng

lại gây hiệu ứng lấn át trong dài hạn.

Trong một nghiên cứu khác, Nguyễn Thị Cành, Nguyễn Thanh Liêm và Nguyễn Thị Thùy Liên (2018) đã áp dụng các phương pháp đồng liên kết, cụ thể là Fully

Modified OLS và Dynamic Panel OLS, để đánh giá tác động dài hạn của đầu tư công

đối với cả đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế. Dữ liệu được sử dụng đến từ 22 ngành

kinh tế cấp 1 trong khoảng thời gian 27 năm (1990-2016). Kết quả cho thấy rằng, trong

dài hạn, đầu tư công không chỉ kích thích đầu tư tư nhân mà còn góp phần làm tăng

GDP. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đầu tư từ các doanh nghiệp nhà nước

không hiệu quả, thậm chí làm giảm tác động tích cực của đầu tư nhà nước đối với tăng

trưởng kinh tế so với tác động riêng biệt của đầu tư công. Những phát hiện này đã gợi

ý nhu cầu cải tổ cơ cấu khu vực công và doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam, đồng

thời khẳng định vai trò của chính phủ trong việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ công và

đầu tư vào cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, thu hút đầu tư tư

nhân và FDI.

Hoa Thi Nguyen (2022) tập trung điều tra mối quan hệ giữa các khoản chi tiêu

của chính phủ, bao gồm đầu tư công, chi trả nợ và chi thường xuyên, với tăng trưởng

kinh tế Việt Nam, sử dụng dữ liệu vĩ mô từ năm 1991 đến 2020 và phương pháp ARDL.

Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, trong ngắn hạn, việc cải thiện đầu tư công và tăng

cường chi tiêu hiện tại của chính phủ có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, qua đó khẳng

định giả thuyết Keynesian về vai trò kích thích tổng cầu thông qua việc tạo ra nhu cầu lao động, tăng lương thực tế và nâng cao tiêu dùng. Ngoài ra, đầu tư công còn góp phần

cung cấp cơ sở hạ tầng và công nghệ, từ đó cải thiện năng suất của các yếu tố đầu vào,

giảm chi phí sản xuất và tăng khả năng hoàn vốn. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng phát hiện

ra hiện tượng lấn át, khi các khoản đầu tư công và chi tiêu chính phủ vượt mức có thể

25

gây tác động tiêu cực lên tăng trưởng kinh tế ở các độ trễ sau đó. Do vậy, kiểm soát chi

tiêu đầu tư của chính phủ được xem là yếu tố cần thiết. Nghiên cứu đề xuất rằng, để đạt

được hiệu quả tối ưu, chính phủ cần xây dựng chiến lược đầu tư tập trung vào các lĩnh

vực hạ tầng và công nghệ cơ bản, đồng thời tăng cường trách nhiệm giải trình và tính

minh bạch trong quản lý các khoản đầu tư công cũng như chi thường xuyên.

Nguyễn Thế Khang (2022) đã nghiên cứu tác động dài hạn của đầu tư công đối

với đầu tư tư nhân tại các tỉnh thành Việt Nam bằng cách sử dụng dữ liệu bảng từ 63

tỉnh trong giai đoạn 2000-2020 và áp dụng các phương pháp FMOLS và DOLS. Kết

quả cho thấy đầu tư công có tác động tích cực đến đầu tư tư nhân, đồng thời cho thấy

rằng tăng trưởng kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư tư nhân.

Nghiên cứu cũng gợi ý rằng hiệu ứng lấn át của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối

với đầu tư tư nhân trong nước cần được xem xét kỹ lưỡng. Dựa trên các kết quả thu

được, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của đầu tư công như một động lực kích thích

đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế. Các khuyến nghị chính sách bao gồm việc xây

dựng một kế hoạch đầu tư chiến lược dài hạn nhằm giảm thiểu sự không chắc chắn và

kém hiệu quả trong đầu tư công, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư tư nhân

trong nước thông qua việc ưu tiên các dự án cơ sở hạ tầng thiết yếu ở cấp địa phương.

Tổng hợp các nghiên cứu trên, có thể thấy rằng đầu tư công ở Việt Nam có vai trò kép: nó vừa có khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đầu tư tư nhân trong ngắn

hạn, nhưng lại có xu hướng lấn át các nguồn đầu tư khác về lâu dài nếu không được

quản lý và cơ cấu lại hợp lý. Các kết quả nghiên cứu nhấn mạnh sự cần thiết của việc

cải tổ cơ cấu chi đầu tư công, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, đồng

thời chú trọng đầu tư vào phát triển con người, nâng cao năng suất lao động và đổi mới

công nghệ. Bên cạnh đó, việc lựa chọn, đánh giá và phê duyệt danh mục đầu tư cần được

tiến hành cẩn trọng, đồng thời chính sách tư nhân hóa và cổ phần hóa các doanh nghiệp

nhà nước ngoài ngành cũng là những yếu tố then chốt nhằm giảm bớt sự can thiệp của

chính phủ vào khu vực sản xuất kinh doanh, từ đó thu hút đầu tư tư nhân và FDI, góp

1.2.4. Nghiên cứu tại vùng/khu vực

phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững tại Việt Nam.

Helmut Seitz và Georg Licht (1995) đã thực hiện một nghiên cứu nhằm làm rõ

vai trò của vốn cơ sở hạ tầng công đối với chi phí sản xuất trong ngành công nghiệp chế

tạo tại các bang của Tây Đức. Dựa trên lý thuyết sản xuất tối thiểu hóa chi phí, nghiên

cứu sử dụng vốn cơ sở hạ tầng công như một biến đại diện cho các dịch vụ công được

cung cấp miễn phí cho doanh nghiệp. Thông qua việc áp dụng lý thuyết song đôi, các

tác giả đánh giá hiệu quả năng suất của cơ sở hạ tầng công qua hiệu ứng tiết kiệm chi

26

phí, được thể hiện qua sự điều chỉnh nhu cầu sử dụng các yếu tố đầu vào tư nhân. Dữ

liệu bảng được thu thập từ 11 bang của Tây Đức trong giai đoạn 1970-1988 và hàm chi

phí được ước lượng theo dạng translog với các yếu tố đầu vào tư nhân gồm lao động,

công trình xây dựng và thiết bị. Kết quả cho thấy, vốn cơ sở hạ tầng công có tác dụng

thúc đẩy đầu tư tư nhân, đặc biệt là đối với các công trình xây dựng, trong khi tác động

đến đầu tư vào thiết bị lại tương đối thấp. Nghiên cứu còn chỉ ra rằng vốn cơ sở hạ tầng

công có mối quan hệ bổ sung với vốn tư nhân, nhưng lại thay thế lao động; khi vốn cơ

sở hạ tầng công tăng, nhu cầu về lao động tư nhân có xu hướng giảm nhờ vào sự gia

tăng đầu tư tư nhân vào thiết bị và cấu trúc, phản ánh hiệu ứng tiết kiệm lao động. Một

đóng góp quan trọng của nghiên cứu là nhấn mạnh sự khác biệt giữa các thành phần của

vốn tư nhân, khi mà tác động của vốn cơ sở hạ tầng công đến chi phí sản xuất ở các bang

lớn như Nordrhein-Westfalen, Bayern và Baden-Württemberg là lớn nhất—đặc biệt

trong lĩnh vực giao thông vận tải—trong khi ở các thành phố bang như Bremen và

Hamburg, hiệu quả tiết kiệm chi phí lại thấp hơn do đặc thù kinh tế tập trung vào hoạt

động cảng biển. Các số liệu thống kê cho thấy mức giảm chi phí sản xuất trung bình khi

tăng vốn cơ sở hạ tầng công khoảng 0,2%, với đầu tư vào giao thông vận tải chiếm tỷ lệ

lớn và có tác động rõ rệt hơn so với các lĩnh vực khác như thông tin liên lạc hay tiện ích

công cộng. Kết luận của nghiên cứu nhấn mạnh rằng đầu tư vào cơ sở hạ tầng công

không chỉ là công cụ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn là chiến lược tăng cường sức

cạnh tranh của khu vực, mặc dù nghiên cứu cũng thừa nhận một số hạn chế như không

tính đến tác động của các khoản thuế gián tiếp và không đánh giá chi tiết về chất lượng

cũng như các đặc điểm cụ thể của cơ sở hạ tầng.

Trong một nghiên cứu khác, Charlot Sylvie và Schmitt Bertrand (1999) đã nhấn mạnh vai trò của hạ tầng công đối với tăng trưởng kinh tế và giảm bất bình đẳng giữa

các vùng tại Pháp. Sử dụng dữ liệu từ 22 vùng trong giai đoạn 1982-1993 và các phương

pháp kinh tế lượng dựa trên hồi quy dữ liệu cắt ngang, nghiên cứu đặt ra hai câu hỏi

trọng tâm: (i) hạ tầng công có ảnh hưởng như thế nào đến tăng trưởng kinh tế khu vực,

và (ii) đầu tư công có giúp giảm sự chênh lệch kinh tế giữa các vùng không? Các tác giả

ước lượng hệ hàm sản xuất theo dạng Cobb-Douglas với ba yếu tố đầu vào là lao động,

vốn tư nhân và vốn công, cũng như sử dụng hàm sản xuất trans-log để cho thấy tính linh

hoạt cao hơn. Kết quả chỉ ra rằng, trong hệ thống Cobb-Douglas, tỷ lệ co giãn của vốn

công dao động từ 0,16 đến 0,3, với tác động của vốn công đến tăng trưởng mạnh mẽ hơn

ở các vùng phát triển so với các vùng nghèo. Hàm sản xuất trans-log cho thấy elasticity

của vốn công đạt tối đa 0,51 ở vùng Île-de-France, trong khi chỉ đạt 0,17 ở các vùng nghèo

như Limousin. Nghiên cứu cũng khẳng định mối quan hệ nhân quả giữa vốn công và tăng

trưởng, qua đó cho thấy rằng các vùng giàu có khả năng tài trợ vốn công cao hơn, từ đó

27

góp phần thúc đẩy tăng trưởng khu vực, mặc dù vốn công không nhất thiết làm giảm

đáng kể sự chênh lệch kinh tế mà thậm chí có thể làm tăng khoảng cách đó.

Norihiko Yamano và Toru Ohkawara (2000) tập trung khảo sát tác động của đầu

tư công đến nền kinh tế khu vực của Nhật Bản. Họ cho rằng, trong bối cảnh phân bổ vốn

công theo vùng, chính sách hiệu quả nên tập trung đầu tư vào các vùng có năng suất cao,

trong khi thực tế, theo mục tiêu công bằng, các vùng bị suy thoái thường nhận được đầu

tư công nhiều hơn. Để đánh giá tác động của chính sách phân bổ theo định hướng công

bằng, các tác giả ước lượng hàm sản xuất tổng hợp theo khu vực và tính toán hiệu suất

của vốn công sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian cắt ngang. Kết quả cho thấy năng suất biên

của vốn công đã giảm ở hầu hết các vùng suy thoái, trong khi lại có xu hướng tăng nhẹ

ở các khu vực phát triển như Tokyo và Osaka. Các tác giả cũng sử dụng mô phỏng số

để so sánh các chính sách phân bổ đầu tư công thay thế và mô tả một cách định lượng

sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng trong việc phân bổ nguồn lực.

Trong bối cảnh Trung Quốc, Sylvie Demurger (2001) đã cung cấp một cái nhìn

sâu sắc về mối quan hệ giữa phát triển cơ sở hạ tầng và tăng trưởng kinh tế nhằm giải

thích sự khác biệt về mức độ phát triển giữa các khu vực. Nghiên cứu của bà đặt ra câu

hỏi tại sao một số khu vực, đặc biệt là các vùng ven biển như Quảng Đông, Giang Tô và

Thượng Hải, phát triển nhanh chóng nhờ vào đầu tư lớn vào hạ tầng giao thông, điện lực

và viễn thông, trong khi các khu vực nội địa như Tây Tạng, Tân Cương và nhiều tỉnh miền

Tây lại chậm phát triển do không được hưởng lợi tương đương. Demurger nhấn mạnh

rằng cơ sở hạ tầng không chỉ góp phần giảm chi phí vận chuyển mà còn tạo ra các cơ hội

mở rộng thị trường và thu hút đầu tư nước ngoài, từ đó nâng cao năng suất lao động và

khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, do các chính sách phân cấp tài chính và ưu tiên phát triển kinh tế đã dẫn đến sự phân bổ không đồng đều của các nguồn lực đầu tư, các khu vực ven

biển tiếp tục nhận được sự ưu đãi, trong khi khu vực nội địa không được hỗ trợ tương tự.

Do đó, bà khuyến nghị cần có sự điều chỉnh trong chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng nhằm

thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, đồng thời đề xuất các chính sách khuyến

khích sự tham gia của khu vực tư nhân thông qua các mô hình hợp tác công-tư (PPP).

Liên quan đến vai trò của địa điểm trong đầu tư cơ sở hạ tầng, Luo (2004) cho

rằng không chỉ số tiền đầu tư mà cả vị trí địa lý của khoản đầu tư cũng đóng vai trò quan

trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, đặc biệt ở miền Tây Trung Quốc. Sử dụng

mô hình tăng trưởng Solow và hàm sản xuất dạng Cobb-Douglas với các biến như tỷ lệ

vốn đầu tư công, tốc độ tăng dân số, tiến bộ công nghệ và tỷ lệ khấu hao, nghiên cứu

xem xét ảnh hưởng của đầu tư cơ sở hạ tầng trong các lĩnh vực như giao thông vận tải,

năng lượng, tài nguyên nước và thông tin liên lạc. Kết quả chỉ ra rằng, đầu tư vào giao

28

thông vận tải và năng lượng có mối quan hệ tích cực mạnh mẽ với phát triển kinh tế,

trong khi đầu tư vào tài nguyên nước và thông tin liên lạc không có tác động đáng kể.

Ngoài ra, nghiên cứu cũng khẳng định rằng, ở các khu vực có điều kiện địa lý thuận lợi

và hàm lượng tài nguyên thiên nhiên cao, mối quan hệ giữa đầu tư cơ sở hạ tầng và phát

triển kinh tế mạnh mẽ hơn so với các khu vực có điều kiện kém thuận lợi.

Nghiên cứu của Junjie Hong, Zhaofang Chu và Qiang Wang (2011) phát triển

một phép đo đa chiều cho cơ sở hạ tầng giao thông và khảo sát mối liên hệ giữa hạ tầng

giao thông và tăng trưởng kinh tế khu vực. Sử dụng dữ liệu bảng của 31 tỉnh Trung Quốc

từ năm 1998 đến 2007, kết quả cho thấy hạ tầng giao thông đường bộ và đường thủy có

tác động mạnh mẽ và đáng kể đối với tăng trưởng kinh tế, trong khi hạ tầng hàng không

có ảnh hưởng yếu hơn. Hơn nữa, đầu tư vào hạ tầng đường bộ đặc biệt có ý nghĩa tích

cực đối với các địa phương có hạ tầng kém phát triển, còn đầu tư vào hạ tầng đường

thủy chỉ có tác động tích cực khi quy mô đầu tư vượt qua một ngưỡng nhất định. Phân

tích hồi cứu cũng cho thấy sự phân bổ không đồng đều của cơ sở hạ tầng giao thông là

nguyên nhân quan trọng dẫn đến chênh lệch kinh tế giữa các vùng.

African Development Bank (2016) tập trung phân tích tác động của đầu tư công

đối với tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Maghreb (Algeria, Mauritania, Morocco và

Tunisia). Dựa trên dữ liệu lịch sử và các mô hình định lượng, nghiên cứu cho thấy rằng

mặc dù đầu tư công không có tác động trực tiếp đáng kể đến tăng trưởng GDP, nó lại

tạo ra hiệu ứng tích cực gián tiếp thông qua việc thu hút đầu tư tư nhân. Đầu tư công

được xem như một chất xúc tác cho đầu tư tư nhân, đặc biệt khi được thực hiện trong

các lĩnh vực cơ sở hạ tầng trọng điểm như giao thông, năng lượng, nước và giáo dục,

qua đó cải thiện năng suất của các yếu tố đầu vào, giảm chi phí sản xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho sự mở rộng của doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, tác động của đầu tư

công cũng có thể gặp phải hiệu ứng “crowding-out” khi các nguồn lực bị giới hạn.

Phương pháp hồi quy động, cùng với các kỹ thuật ước lượng IV và GMM, được sử dụng

để xử lý vấn đề nội sinh cho thấy các yếu tố như mức độ mở cửa thương mại, tín dụng

nội địa và chất lượng thể chế có ảnh hưởng đáng kể đến mối quan hệ giữa đầu tư công

và tăng trưởng. Về mặt chính sách, nghiên cứu khuyến nghị rằng các chính phủ trong

khu vực Maghreb cần ưu tiên đầu tư vào những lĩnh vực ít có nguy cơ lấn át đầu tư tư

nhân, cải thiện tính minh bạch, tăng cường đối tác công-tư và chú trọng bảo trì các tài

sản hiện có, đồng thời duy trì mức nợ công bền vững.

Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng tác động của đầu tư công đến

tăng trưởng kinh tế có sự khác biệt rõ rệt giữa các địa bàn nghiên cứu khác nhau, đặc biệt

là giữa các vùng phát triển và kém phát triển. Ở các khu vực phát triển, như được minh

29

chứng trong nghiên cứu của Charlot Sylvie và Schmitt Bertrand (1999) tại Pháp, vốn công

thường mang lại tác động mạnh mẽ hơn nhờ vào lợi thế cơ sở hạ tầng sẵn có, nguồn lực

phong phú, và khả năng tài trợ cao. Những vùng phát triển như Île-de-France ghi nhận tác

động tích cực lớn với độ co giãn của vốn công lên sản lượng khu vực cao hơn hẳn so với

các vùng nghèo như Limousin. Điều này phản ánh rằng các vùng giàu có thể tận dụng đầu

tư công để gia tăng động lực phát triển, đồng thời củng cố vị thế kinh tế của mình.

Ngược lại, ở các khu vực kém phát triển, tác động của đầu tư công thường hạn

chế hơn do thiếu hụt cơ sở hạ tầng cơ bản và khả năng quản lý nguồn lực yếu. Ví dụ,

nghiên cứu của Sylvie Demurger (2001) tại Trung Quốc cho thấy rằng các khu vực ven

biển như Quảng Đông và Thượng Hải, nhờ được ưu tiên đầu tư lớn vào giao thông và

điện lực, đã đạt mức tăng trưởng kinh tế vượt bậc. Trong khi đó, các vùng nội địa như

Tây Tạng và Tân Cương phải đối mặt với sự chậm trễ trong phát triển do không nhận

được sự phân bổ nguồn lực tương tự. Một điểm khác biệt quan trọng giữa các vùng phát

triển và kém phát triển nằm ở cơ chế tương tác giữa vốn công và vốn tư nhân. Ở các

vùng phát triển, đầu tư công thường có tác động bổ trợ, khuyến khích đầu tư tư nhân và

tăng cường hiệu quả sản xuất. Trong khi đó, tại các vùng kém phát triển, đầu tư công

đôi khi dẫn đến hiệu ứng thay thế, làm giảm sự tham gia của vốn tư nhân do thiếu sự kết

nối kinh tế và khả năng cạnh tranh thấp. Nghiên cứu của Helmut Seitz và Georg Licht

(1995) tại Đức nhấn mạnh rằng các bang phát triển như Bayern và Nordrhein-Westfalen

hưởng lợi nhiều hơn từ đầu tư công vào giao thông vận tải so với các thành phố nhỏ hơn

như Bremen và Hamburg. Ở khu vực Maghreb, nghiên cứu của African Development

Bank (2016) cho thấy đầu tư công không có tác động trực tiếp mạnh mẽ đến tăng trưởng

GDP nhưng tạo hiệu ứng gián tiếp thông qua việc hỗ trợ đầu tư tư nhân. Các chính sách

tập trung vào cải thiện tính minh bạch và hiệu quả quản lý đầu tư công được khuyến

nghị để tối ưu hóa hiệu quả kinh tế

Đầu tư công có thể là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng hiệu quả của

nó phụ thuộc lớn vào đặc điểm của từng vùng. Ở các khu vực phát triển, đầu tư công có

xu hướng tạo ra tác động mạnh mẽ hơn nhờ khả năng tận dụng các yếu tố thuận lợi sẵn

có. Ngược lại, ở các vùng kém phát triển, cần có chiến lược phân bổ nguồn lực hợp lý

và chính sách hỗ trợ đi kèm nhằm nâng cao hiệu quả của đầu tư công, giúp giảm thiểu

1.3. Khoảng trống nghiên cứu

chênh lệch kinh tế giữa các vùng và đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững.

Dù nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm đã khẳng định vai trò quan trọng

của đầu tư công trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua các kênh tác động

đến tổng cầu và tổng cung, nhưng hầu hết các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào bối

30

cảnh kinh tế chung của quốc gia hoặc các khu vực có điều kiện phát triển tương đối đồng

đều. Cụ thể, các nghiên cứu dựa trên lý thuyết Keynesian đã chứng minh rằng tăng chi

tiêu công có thể kích thích tổng cầu trong giai đoạn suy thoái kinh tế, đồng thời các

nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy đầu tư công vào cơ sở hạ tầng, giáo dục hay

nghiên cứu và phát triển không chỉ nâng cao năng suất lao động mà còn tạo điều kiện

thuận lợi cho đầu tư tư nhân từ đó tác động tích cực vào tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên,

những tác động tích cực này không được phát huy một cách nhất quán ở mọi vùng miền.

Tại các vùng có điều kiện khó khăn đặc thù như Trung du và miền núi phía Bắc,

những hạn chế về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng, năng lực quản lý và khả năng tiếp

cận nguồn lực... có thể làm giảm hiệu quả của đầu tư công, nhưng tác động của đầu tư

công vào tăng trưởng kinh tế trong một giai đoạn cụ thể chưa hẳn đã là thấp. Trong

trường hợp giả thiết đóng góp của đầu tư công vào tăng trưởng ở vùng này không thấp

thì nguyên nhân của vấn đề là gì? Các nghiên cứu trước đây chưa khai thác triệt để sự

khác biệt này, dẫn đến một khoảng trống trong hiểu biết về cách thức đầu tư công tác

động đến tăng trưởng kinh tế ở những khu vực kém phát triển. Thực tế cho thấy, trên

phạm vi quốc gia, trong bối cảnh tài chính hạn hẹp, việc tăng chi tiêu công để kích thích

kinh tế có thể gây ra hiệu ứng lấn át đầu tư tư nhân, từ đó làm giảm tổng hiệu quả đầu

tư và tiềm ẩn những hệ lụy về nợ công cũng như sự thiếu hiệu quả trong quản lý nguồn

lực. Tuy nhiên, trên phạm vi một vùng, đặc biệt là một vùng kém phát triển với tính chất

đặc thù về điều kiện phát triển, việc tăng quy mô đầu tư công liệu có gây nên những tác

động tiêu cực như vậy không? Quan điểm hài hòa mối quan hệ giữa hiệu quả và công

bằng trong cách nhìn tổng thể nền kinh tế cần được giải quyết ra sao? Các nghiên cứu

trước đây chưa xem xét và trả lời những câu hỏi tương tự như vây.

Do đó, cần có những nghiên cứu chuyên sâu nhằm làm sáng tỏ mối quan hệ giữa

đầu tư công và tăng trưởng kinh tế trong điều kiện cụ thể của vùng Trung du và miền

núi phía Bắc và trên cơ sở đó suy rộng ra đối với những vùng đặc thù tương tự. Nghiên

cứu cần đặt quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế trong điều kiện khó khăn

đặc thù về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, môi trường và an ninh quốc phòng, từ đó

đánh giá được vai trò của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế của vùng. Việc nghiên

cứu nhằm lấp đầy khoảng trống đã nêu không chỉ giúp nhận thức đầy đủ hơn về vai trò

của đầu tư công mà còn là căn cứ đề xuất các khuyến nghị chính sách phù hợp nhằm tối

ưu hóa vai trò của đầu tư công trong bối cảnh kinh tế của vùng có điều kiện phát triển đặc

thù, góp phần thúc đẩy vùng khó khăn phát triển theo kịp các vùng khác trong cả nước.

Tóm tắt chương 1

31

Chương 1 đã tổng quan các lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm về tác động của

đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế. Mặc dù đầu tư công được chứng minh là công cụ

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua các kênh tác động trực tiếp và gián tiếp đến tổng

cung và tổng cầu, nhưng chiều hướng, mức độ và hiệu quả của nó phụ thuộc vào điều

kiện từng vùng và trình độ phát triển kinh tế - xã hội cụ thể. Ở các khu vực phát triển,

đầu tư công có xu hướng tạo ra tác động tích cực mạnh mẽ hơn đến tăng trưởng nhờ khả

năng tận dụng các yếu tố thuận lợi sẵn có, trong khi ở các vùng kém phát triển chưa có

sẵn các yếu tố thuận lợi đó. Đối với các vùng khó khăn cần có chiến lược phân bổ nguồn

lực hợp lý và chính sách hỗ trợ đi kèm nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư công và giảm

thiểu chênh lệch phát triển giữa các vùng. Điều này mở ra hướng nghiên cứu về cách

thức tối ưu hóa tác động của đầu tư công tại các vùng khác nhau, đặc biệt là các vùng

có điều kiện phát triển kém thuận lợi. Đó cũng chính là yêu cầu cần thiết phải nghiên

cứu nhằm lấp đầy khoảng trống đã được chỉ ra trong chương 1.

CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÙNG ĐẶC THÙ VỀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

2.1. Vùng kinh tế và vùng kinh tế đặc thù về điều kiện phát triển

2.1.1. Vùng kinh tế

32

Theo Hoàng Phê (1996), vùng được hiểu là phần đất đai hoặc, nói chung, không

gian tương đối rộng, có những đặc điểm nhất định về tự nhiên hoặc xã hội, phân biệt với

các vùng khác ở xung quanh. Đó là quan niệm Vùng truyền thống chỉ được sử dụng để

xác định vùng trong tự nhiên, là một khu vực cụ thể hoặc một vùng đất đai hoặc không

gian tương đối rộng và có đặc điểm tự nhiên, xã hội khác biệt so với những khu vực

xung quanh. Ngày nay, thuật ngữ “Vùng” được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như: chính

trị, kinh tế, địa lý hoặc khu vực công…và quan niệm về vùng vẫn còn chưa thống nhất

do trong các lĩnh vực khác nhau đều có những cách tiếp cận, những tiêu chí đôi khi khác nhau để xác định vùng, đánh giá vùng cũng khác nhau. Theo Nguyễn Phương Thu và

cộng sự (2022), trong không gian địa lý, vùng là một trong 5 cấp độ không gian bao

gồm: Thế giới, Liên quốc gia, Quốc gia, Vùng và Địa phương/tỉnh. Như vậy, trên giác

độ quản lý, vùng được quan niệm là cấp trung gian giữa Quốc gia và Địa phương/Tỉnh.

Trên bề mặt không gian, Vùng là nơi liên tục diễn ra các quá trình tự nhiên, nhân khẩu

học, kinh tế và xã hội do sự tương tác của các yếu tố cấu thành nên vùng. Các yếu tố

cấu thành nên vùng gồm các yếu tố tự nhiên như đất đai, khí hậu, động thực vật, tài

nguyên, khoáng sản, nguồn nước, địa hình, sông hồ, thảm động thực vật…; các yếu tố

kinh tế gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, thương mại dịch

vụ, …; các yếu tố xã hội gồm dân cư, nguồn lao động, dân tộc, văn hóa, lịch sử … Do

các yếu tố tự nhiên - kinh tế - xã hội có tính đặc thù nên trong thực tế không có bất kỳ

vùng nào giống vùng nào (Lê Thu Hoa, 2007).

Về mặt lý luận, vùng ra đời là kết quả của quá trình phát triển của phân công lao

động xã hội (PCLĐXH). PCLĐXH biểu hiện dưới 2 hình thức cơ bản là PCLĐXH theo

ngành và PCLĐXH theo lãnh thổ. PCLĐXH theo ngành phản ánh sự phát triển của nền

kinh tế và được phát triển từ thấp đến cao. Khi PCLĐXH theo ngành phát triển, mỗi

vùng có điều kiện hay xu hướng đi sâu vào sản xuất một hay một số loại sản phẩm nhất

định để trao đổi với các vùng khác vì mỗi ngành khi hình thành và phát triển, đều cần

được bố trí ở một vùng nhất định, phù hợp với đặc điểm kinh tế và kỹ thuật của ngành.

Như vậy, đã có PCLĐXH theo ngành thì tất yếu phải có PCLĐXH theo lãnh thổ. Đó là

33

hai hiện tượng kinh tế - xã hội liên hệ chặt chẽ với nhau, đúng như quan điểm của C.Mác,

cho rằng PCLĐXH theo ngành phải được thể hiện cụ thể bằng PCLĐXH theo lãnh thổ.

PCLĐXH theo lãnh thổ chính là tổ chức lao động xã hội theo ngành gắn với lãnh

thổ, làm cho mỗi lãnh thổ có chức năng tương đối riêng. Kết quả của quá trình đó là

hình thành các vùng khác nhau trên lãnh thổ quốc gia. Như vậy, PCLĐXH theo lãnh thổ

là yếu tố khách quan, trực tiếp dẫn đến hình thành và phát triển vùng.

Ở Việt Nam, theo Luật Quy Hoạch - QH 14, vùng là một bộ phận quốc gia bao

gồm một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lân cận gắn với một số lưu vực sông

hoặc có sự tương đồng về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, lịch sử, dân cư, kết cấu

hạ tầng và có mối quan hệ tương tác tạo nên sự liên kết bền vững với nhau. Nghị

định số 92/2006/NĐ-CP (2006) đưa ra quan điểm về Vùng kinh tế - xã hội là một bộ

phận của lãnh thổ quốc gia, gồm một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có

các hoạt động kinh tế - xã hội tương đối độc lập, thực hiện sự phân công lao động xã

hội của cả nước. Đây là loại vùng phục vụ việc hoạch định chiến lược và quy hoạch

phát triển kinh tế - xã hội theo lãnh thổ cũng như để quản lý các quá trình phát triển

kinh tế - xã hội trên mỗi vùng của đất nước. Theo cách phân chia này, hiện nay, ở

Việt Nam có 6 vùng, gồm: Vùng Trung Du và miền núi phía Bắc (bao gồm 14 tỉnh),

Vùng Đồng bằng Sông Hồng (11 tỉnh/thành phố trực thuộc TƯ), Vùng Bắc Trung

Bộ và Duyên Hải miền Trung (14 tỉnh/thành phố trực thuộc TƯ), Vùng Tây Nguyên

(5 tỉnh/TP), Vùng Đông Nam Bộ (6 tỉnh/thành phố trực thuộc TƯ) và vùng Đồng

bằng sông Cửu Long (13 tỉnh/thành phố). Trong luận án, NCS sử dụng khái niệm

vùng là vùng kinh tế - xã hội được thể hiện trong các văn bản chính thức hiện hành

2.1.2. Vùng đặc thù về điều kiện phát triển

2.1.2.1. Khái niệm về tính đặc thù

của Việt Nam (Nghị định số 92/2006/NĐ-CP).

Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (1996) thì “Đặc thù” được hiểu là có tính

chất riêng biệt, làm cho khác với sự vật khác cùng loại; là nét riêng biệt làm cho sự vật

này khác với sự vật kia cùng loại. Ph.Ăng ghen cũng từng nhận định: “Tính đơn nhất,

tính đặc thù và tính phổ biến - đó là ba quy định trong đó toàn bộ “ học thuyết về khái

niệm” vận động. Như vậy có thể hiểu đặc thù là sự khác biệt giữa sự vật, hiện tượng

đang xem xét với các sự vật, hiện tượng khác cùng loại, khác biệt với sự vật, hiện tượng

phổ biến cùng loại. Tính khác biệt có thể được xem xét trên nhiều khía cạnh khác nhau

như về nội dung, hình thức, về bản chất hay xu hướng phát triển, về các điều kiện phát

triển…trong sự vận động của sự vật và hiện tượng.

2.1.2.2. Vùng đặc thù về điều kiện phát triển

34

Trên cơ sở khái niệm chung về tính đặc thù, khái niệm “vùng đặc thù về điều

kiện phát triển” có thể hiểu là vùng có sự khác biệt theo hướng khó khăn về điều kiện

phát triển so với các vùng khác cũng như so với cả nước. Trong luận án, tác giả tập

trung phân tích tính đặc thù của các vùng theo các điều kiện phát triển, với hàm nghĩa

những vùng có tính đặc thù cao là những vùng khó khăn về điều kiện phát triển cao

hơn phần nhiều các vùng khác, cũng tức là những vùng có lợi thế phát triển thấp hơn

các vùng khác. Những điều kiện phát triển vùng chính là các yếu tố cơ bản có tính

quyết định hoặc chi phối quá trình tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và

tạo nên sự tiến bộ toàn diện về kinh tế - xã hội của vùng. Nội dung kế tiếp sau đây sẽ

2.1.3. Các nhân tố về điều kiện phát triển vùng - cơ sở nhận diện vùng đặc thù

trình bày về các nhân tố điều kiện đó.

Để làm rõ sự khác biệt về điều kiện phát triển của vùng, làm cơ sở nhận diện vùng

đặc thù có thể tiếp cận về mặt lý thuyết dưới 3 góc độ: lý thuyết phát triển, lý thuyết kinh

tế vùng và lý thuyết cạnh tranh (vận dụng vào vùng và địa phương).

- Dưới góc độ của kinh tế học phát triển: Theo Dwight H. Perkins (2010), các nước đang phát triển tăng trưởng nhanh nhất dường như có chung 5 đặc điểm: (i) Ổn

định chính trị và kinh tế vĩ mô; (ii) Chú trọng Đầu tư vào y tế và giáo dục; (iii) Các thể

chế và quản trị nhà nước hữu hiệu; (iv) Môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân;

(v) Điều kiện địa lý thuận lợi. Kinh tế học phát triển cũng chỉ rõ có hai nhóm nhân tố

tác động đến tăng trưởng kinh tế là nhóm nhân tố kinh tế và nhóm nhân tố phi kinh tế.

Trong đó, nhóm kinh tế bao gồm các nhân tố về phía cung và các nhân tố về phía cầu. Về phía tổng cung, theo quan điểm truyền thống, gồm các yếu tố: Vốn, lao động, tài

nguyên, khoa học công nghệ, thể chế,…Về phía tổng cầu bao gồm các yếu tố: Tiêu dùng

xã hội (C), Chi tiêu chính phủ (G), đầu tư (I), thặng dư xuất nhập khẩu (NX). Ngày nay,

theo quan điểm hiện đại, các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế được quy về 3

yếu tố, gồm Vốn (K), lao động (L) và Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). Trong đó, TFP

được quyết định bởi các yếu tố như: tiến bộ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, thể

chế, lợi suất theo quy mô…

- Dưới góc độ của lý thuyết phát triển vùng: Trong lý thuyết phát triển vùng, một trong những nội dung rất quan trọng được hầu hết các nghiên cứu đề cập tới, đó

là vấn đề phân loại vùng. Việc phân loại vùng cũng có nhiều trường phái khác nhau.

Trước đây, việc phân vùng ở các nước xã hội chủ nghĩa dựa trên quan điểm "Phân công

lao động theo lãnh thổ", trong đó các nhiệm vụ sản xuất và dịch vụ theo một kế hoạch

35

căn bản mang tính pháp lệnh do Nhà nước Trung Ương đề ra để các vùng và các địa

phương thực hiện. Hoạt động kinh tế của các vùng tuy cũng dựa vào lợi thế so sánh về

điều kiện tự nhiên (như tài nguyên) và điều kiện kỹ thuật (như các ngành nghề truyền

thống), nhưng tất cả đều được quy chiếu vào nguyên tắc bao cấp từ đầu vào đến đầu ra.

Trong khi đó, việc phân vùng ở các nền kinh tế tư bản lại chủ yếu dựa trên quan điểm

"thị trường tự do" với quy luật cạnh tranh đóng vai trò nền tảng. Cạnh tranh là tất yếu

và cần thiết chẳng những giữa các doanh nghiệp trong sản xuất và kinh doanh mà còn

giữa các địa phương trong vùng, giữa các vùng với nhau, giữa các quốc gia...Các vùng

phát triển kinh tế dựa trên khả năng phát huy lợi thế so sánh và quy luật cung cầu của

thị trường, tức là theo khả năng cạnh tranh trên thị trường chứ không chỉ là những khả

năng tiềm tàng thuần túy dựa vào điều kiện tự nhiên hay kỹ năng truyền thống. Điều này

có nghĩa là tùy thuộc vào bối cảnh cụ thể, quan điểm chính trị mà các quốc gia sẽ có

những cách phân loại vùng khác nhau mà họ cho là phù hợp dựa trên lịch sử, hoạt động

kinh tế, sự hợp tác chính trị …

Theo lý thuyết phát triển vùng, việc phân vùng có thể được thực hiện theo các

cách tiếp cận khác nhau tùy theo mục đích phân vùng. Theo tổng kết, hiện nay có các

cách tiếp cận sau: Phân vùng hành chính (theo ranh giới hành chính), phân vùng chức

năng (dựa trên quan hệ tương tác trong vùng), phân vùng theo trình độ phát triển vùng,

phân vùng dựa trên khả năng cạnh tranh vùng. Với mục tiêu của luận án là xác định các

nhân tố/điều kiện đặc thù về phát triển vùng, luận án đi sâu hơn về 2 cách tiếp cận là

theo trình độ phát triển vùng và theo khả năng cạnh tranh vùng.

Theo trình độ phát triển vùng, việc phân vùng dựa trên sự chênh lệch về trình

độ phát triển gồm 3 loại được Liên minh Châu Âu (EU) áp dụng: (i) Chênh lệch về kinh tế (xác định bằng các chỉ số: GDP bình quân đầu người; Năng suất lao động; Tổng

hình thành vốn cố định; Tổng chi tiêu trong nước cho nghiên cứu và phát triển; Nguồn

nhân lực khoa học và công nghệ); (ii) Chênh lệch về xã hội (bao gồm các chỉ số: Tỷ lệ

có việc làm; Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên; Tỷ lệ có việc làm của phụ nữ…), (iii)

Chênh lệch theo lãnh thổ (gồm các chỉ số: số cơ sở lưu trú du lịch; Tần suất/cường độ

du lịch; Mật độ đường sắt; số giường bệnh/1000 dân; Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh; tỷ lệ

tai nạn giao thông…).

Theo cách phân loại vùng dựa trên năng lực cạnh tranh về mặt không gian, vùng

có thể được chia thành ba loại cơ bản là vùng không gian (vùng trắng), vùng tạo lợi

nhuận và vùng trung tâm tri thức. Bên cạnh đó, xuất hiện một số vùng đan xen, kết hợp

giữa ba loại vùng trên để tạo nên: vùng cân bằng, vùng năng động, vùng suy thoái, vùng

đô thị hóa và vùng quốc tế. Tiêu chí phân loại vùng trong trường hợp này bao gồm

36

nhiều loại khác nhau như điều kiện tự nhiên, kinh tế, hành chính, văn hóa xã hội. Tiêu

chí phân vùng có thể được phân loại dựa trên tập hợp các nguồn lực vùng gồm: các tài

nguyên vùng; vị trí, quy mô của thị trường lao động; thu nhập; mức độ chuyên môn hóa

lao động theo ngành. Cụ thể có thể chia thành các nhóm nhân tố sau đây:

a. Nguồn lực vùng: Tăng trưởng và hiệu quả kinh tế có liên quan hoặc gắn liền

với tài nguyên. Các nguồn tài nguyên rất đa dạng bao gồm vốn, tài nguyên thiên nhiên,

vị trí vùng và tài sản môi trường, cơ sở lịch sử kinh tế, vị thế cạnh tranh, vốn nhân lực,

công nghệ, cơ sở hạ tầng, v.v. Tất cả các yếu tố trên tạo nên lợi thế tương đối của vùng

thông qua sự sẵn có của các đầu vào của vùng với giá cả và chất lượng cạnh tranh. Các

đầu vào của vùng là các nguyên liệu, vật tư hoặc dịch vụ có mặt tại một địa điểm và

không thể mang từ nơi khác đến và không thể chuyển nhượng chẳng hạn như đất; khí

hậu và chất lượng của nước và không khí ở trong vùng.

b. Các điều kiện thị trường: Các yếu tố liên quan đến quy mô, sự giàu có, dân số

và sự đa dạng của một địa điểm và các cơ hội thị trường bên trong cũng như thị trường

bên ngoài mà một vùng có khả năng và có tiềm năng khai thác có vai trò quan trọng đối

với sự phát triển và tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng đó. Ranh giới vùng sẽ xuất hiện

ở những nơi có sự khác biệt về các điều kiện thị trường, trong đó nổi bật là đặc điểm của

dân cư và nguồn lao động.

c. Thu nhập và các tiện ích trong vùng: Vùng thu nhập thấp, trung bình và cao

với thu nhập bình quân đầu người tương đối giống nhau trong nội vùng và thu nhập bình

quân đầu người khác nhau giữa các vùng. Mức thu nhập cao không chỉ là yếu tố tạo nên

chất lượng cuộc sống của dân cư mà còn ảnh hưởng đến khả năng tích lũy cho đầu tư,

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mở rộng quy mô thị trường tiêu thụ…là các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, các đặc điểm tiện ích địa phương, chẳng hạn

như thẩm mỹ hoặc trình độ văn hóa của khu vực lân cận hoặc cộng đồng đóng một vai

trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành các điểm dân cư ưa thích.

d. Tần suất và cường độ của các tương tác kinh tế: Các vùng có trình độ chuyên

môn hóa lao động theo ngành cao thường chịu sự chi phối của các quan hệ chức năng

nhiều hơn ở các vùng khác. Ở những vùng như vậy, cường độ tương tác kinh tế cao và

bao gồm các điểm nút thường là các trung tâm, các đô thị được kết nối bởi các mạng lưới

kinh tế và mạng lưới cơ sở hạ tầng tốt sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của vùng.

- Dưới góc độ lý thuyết cạnh tranh, các điều kiện phát triển vùng được phân loại dựa trên các yếu tố nền tảng năng lực cạnh tranh của vùng. Trên cơ sở lý thuyết

năng lực cạnh tranh của M.Porter (2008), nhóm tác giả Huỳnh Thế Du và cộng sự

37

(2016) đã phân tích năng lực cạnh tranh của Thành phố Hồ Chí Minh. Theo nhóm tác giả, nền tảng năng lực cạnh tranh của vùng/địa phương được chia theo 3 cấp độ, thể

hiện trên biểu đồ 2.1:

Năng lực cạnh tranh vi mô

Chất lượng môi trường kinh doanh

Trình độ phát triển cụm ngành

Trình độ phát triển doanh nghiệp

Năng lực cạnh tranh vĩ mô

Các chính sách về ngân sách và đầu tư công

Cơ sở hạ tầng xã hội, bộ máy chính trị và quản lý nhà nước

Điều kiện tự nhiên và KTXH

Quy mô diện tích và dân số

Vị trí địa lý, địa hình

Tài nguyên thiên nhiên

Biểu đồ 2.1. Nền tảng năng lực cạnh tranh của vùng/địa phương

Nguồn: Huỳnh Thế Du và cộng sự (2016), Đánh giá sức cạnh tranh của TP.HCM

Trong biểu đồ 2.1, ba cấp độ tạo nên nền tảng năng lực cạnh tranh của vùng/địa phương bao gồm: Các điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội, Năng lực cạnh tranh vĩ mô

và Năng lực cạnh tranh vi mô, cụ thể:

Yếu tố về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội

Vị trí địa lý và điều kiện địa hình, khí hậu thời tiết: Vị trí địa lý của vùng thể hiện điều kiện thuận lợi hay không thuận lợi cho sản xuất và kinh doanh thương mại. Vị trí thuận lợi của vùng cho phép mở rộng các mối liên kết, tăng cường độ mở của nền kinh tế, cho phép tăng sản lượng nhờ quan hệ thương mại, chuyển giao công nghệ mới và do đó nền kinh tế trở nên năng động hơn.

Điều kiện địa hình bằng phẳng hay phức tạp có ảnh hưởng đến mọi hoạt động của nền kinh tế, trước hết là xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, giao thông vận tải, điện nước, truyền thông. Ở những vùng có điều kiện địa hình và khí hậu không thuận lợi, chi phí xây dựng và đầu tư (suất đầu tư) thường vượt trội so với các vùng khác có điều kiện

38

thuận lợi hơn. Điều này không chỉ làm tăng thêm chi phí mà còn kéo dài thời gian đầu

tư cũng như gia tăng chi phí cho công tác duy trì bảo dưỡng các công trình đầu tư, nhất

là cơ sở hạ tầng giao thông.

Dự trữ tài nguyên thiên nhiên: Tài nguyên bao gồm các loại chủ yếu như Tài

nguyên đất, nước, rừng, biển, tài nguyên khoáng sản…Điều kiện tài nguyên phong phú

sẽ cho phép hình thành cơ cấu kinh tế đa dạng, nhiều ngành nghề và sản phẩm được sản

xuất mang lại sản lượng cao hơn.

Quy mô của vùng có thể kể đến như quy mô diện tích, quy mô dân số và đặc

điểm nhân khẩu học, cũng như quy mô sản lượng, mức sản lượng bình quân đầu người…

đều là các yếu tố tạo nên lợi thế hay bất lợi thế của vùng trong tăng trưởng và phát triển.

● Các yếu tố về điều kiện vĩ mô

Cơ sở hạ tầng xã hội: Bao gồm cơ sở vật chất của hệ thống giáo dục, y tế, nghệ

thuật, vui chơi giải trí, văn hóa xã hội. Đây chính là tiền đề cho thực hiện chiến lược phát triển nguồn lực con người, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ mang lại sản

lượng thu nhập cho các vùng. Sự khác biệt về hạ tầng xã hội được thể hiện ở các nội

dung chủ yếu như đầu tư cho hạ tầng xã hội giáo dục và y tế, chất lượng vốn nhân lực,

khả năng thu hút nhân lực chất lượng cao tới vùng.

Hệ thống bộ máy chính trị và năng lực quản trị địa phương: Sự khác biệt giữa các

vùng về năng lực quản trị, bộ máy quản lý là một yếu tố quan trọng tạo ra sự khác biệt

về mức độ quản lý và điều hành sự phát triển vùng. Với năng lực lãnh đạo tốt sẽ tạo ra

sự ổn định chính trị, khát vọng chiếm lĩnh các mục tiêu tăng trưởng cao, tạo lập môi

trường kinh doanh tốt. Vai trò lãnh đạo điều hành thể hiện rất rõ ở các quyết sách, cơ

chế tăng trưởng hợp lý và thúc đẩy tăng trưởng.

Chính sách về ngân sách và đầu tư công: Khác biệt giữa các vùng trong chính

sách ngân sách và đầu tư thể hiện ở mức độ thu ngân sách, cơ cấu nguồn thu cũng như

mức huy động ngân sách cho đầu tư công đạt quy mô, cơ cấu đầu tư hợp lý và hiệu quả

đầu tư. Bên cạnh đó, các chính sách huy động nguồn vốn xã hội để bổ sung cho nguồn

vốn Ngân sách Trung ương và địa phương trong đầu tư công cũng tạo ra sự khác biệt

đáng kể trong chiến lược tăng trưởng kinh tế.

● Các yếu tố về điều kiện vi mô

Chất lượng môi trường kinh doanh: Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp

bao gồm môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường ngành. Trong đó, môi trường vĩ mô

bao gồm điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ và môi trường tự

39

nhiên. Môi trường chính trị và pháp luật được ổn định, an ninh trật tự được giữ vững sẽ

tạo thuận lợi kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường kinh tế ổn định biểu hiện ở sự

ổn định về chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chu kỳ kinh tế, mức độ tăng trưởng,

lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối đoái. Những yếu tố này ảnh hưởng lớn tới hoạt động và

cách thức ra quyết định kinh doanh của doanh nghiệp.

Các yếu tố của môi trường công nghệ có tác động mạnh mẽ đến kinh doanh của

các doanh nghiệp trên vùng trong điều kiện ngày nay. Môi trường công nghệ thuận lợi

tạo tiền đề để các doanh nghiệp giảm mức tiêu hao năng lượng, kết nối thông tin liên

lạc, thực hiện nghiên cứu và phát triển, ứng dụng các thành tựu mới nhằm nâng cao hiệu

quả và năng suất kinh doanh và ngược lại.

Văn hóa xã hội ảnh hưởng nhiều tới thói quen tiêu dùng, cách thức ứng xử, sở

thích của khách hàng cũng như giúp tạo nên văn hóa bên trong của doanh nghiệp và ảnh

hưởng tới cách thức doanh nghiệp cư xử, giao tiếp với bên ngoài. Các yếu tố văn hóa xã

hội tác động lên tổng cầu về hàng hóa, dịch vụ và do đó ảnh hưởng đến cách doanh

nghiệp đáp ứng nhu cầu khách hàng.

Môi trường tự nhiên tạo nên thị trường cung ứng yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp

cũng như ảnh hưởng đến thu nhập, việc làm và thu nhập của dân cư. Từ đó, nó tác động

đến sức mua, khả năng tiêu thụ, bán hàng của doanh nghiệp và chiến lược phát triển bền

vững của doanh nghiệp.

Trình độ phát triển của doanh nghiệp: Tăng trưởng kinh tế của vùng phụ thuộc

vào sự phát triển của các doanh nghiệp, do vậy sự phát triển của các doanh nghiệp trong

vùng nói lên sự khác biệt cơ bản về điều kiện tăng trưởng của vùng. Những vùng có số

lượng doanh nghiệp nhiều, quy mô doanh nghiệp lớn và hiệu quả kinh doanh cao sẽ thúc

đẩy tăng trưởng vùng và ngược lại. Thông thường để đánh giá sự khác biệt về trình độ

phát triển doanh nghiệp của vùng, có thể dựa vào việc so sánh tỷ lệ doanh nghiệp của

vùng thuộc các ngành kinh doanh khác nhau so với các vùng khác hoặc so với mức trung

bình của cả nước.

Sự phát triển cụm ngành trong vùng: Cụm ngành là sự tập trung về mặt địa lý của

các doanh nghiệp trong cùng một ngành cùng với những tổ chức hỗ trợ và liên quan,

được kết nối với nhau bởi các giá trị chung và sự tương hỗ. Cụm ngành có vai trò to lớn

trong thúc đẩy đổi mới, thúc đẩy thương mại hóa và do vậy thúc đẩy hiệu quả kinh

doanh. Nói chung, lợi ích then chốt của cụm ngành công nghiệp là đồng thời tăng cạnh

tranh, tăng hợp tác, và tạo tác động lan tỏa (Porter M.E. (1998)). Do đó, sự phát triển

cụm ngành trên mỗi vùng sẽ có tác động khác nhau đến tăng trưởng của vùng.

40

Từ sự phân tích quan điểm của 3 trường phái lý thuyết trên đây, có thể đưa ra các

nhận thức sau:

- Nhìn chung các lý thuyết đã nêu ra một cách khá toàn diện về các điều kiện-

nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của vùng. Tuy cách thể hiện có khác nhau, song các

lý thuyết đều coi khả năng cạnh tranh là động lực để thúc đẩy sự phát triển của vùng.

Nói một cách khác, các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của vùng chính là

các nhân tố được sử dụng để phân loại vùng hay đánh giá điều kiện phát triển vùng.

- Có thể sử dụng các nhân tố - điều kiện được các lý thuyết đưa ra trên đây để

phân tích, đo lường và đánh giá về lợi thế phát triển của các vùng và địa phương (Nhận

diện vùng đặc thù về điều kiện phát triển). Các nhân tố đó có thể phân nhóm, bao gồm:

(i) Các yếu tố về điều kiện tự nhiên của vùng (Vị trí, địa hình, khí hậu, tài nguyên thiên

nhiên); (ii) Các yếu tố về quy mô (dân số, diện tích, sản lượng, thị trường hàng hóa và

dịch vụ, thị trường lao động); (iii) Các nhân tố về cơ sở hạ tầng kỹ thuật (giao thông,

điện, nước, viễn thông...) và xã hội (phát triển giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, nghệ

thuật- giải trí, du lịch, văn hóa xã hội); (iv) Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô (Ổn

định chính trị, ổn định kinh tế, năng lực quản trị địa phương, thu ngân sách, huy động

nguồn lực cho đầu tư, chính sách cơ cấu); (v) Các nhân tố thuộc môi trường vi mô (chất

lượng môi trường kinh doanh gồm môi trường chính trị xã hội, môi trường kinh tế, môi

trường công nghệ và môi trường tự nhiên, trình độ phát triển cụm ngành; (vi) Các nhân

tố về trình độ phát triển doanh nghiệp (như số lượng doanh nghiệp, lao động, tài sản

doanh nghiệp, thương số vị trí theo ngành...).

- Các lý thuyết cũng đã đưa ra các tiêu chí và chỉ số đánh giá về mức độ đạt được

của vùng theo các tiêu chí. Tuy nhiên, các tiêu chí và chỉ số này mới phản ánh theo từng

khía cạnh, mặt riêng biệt của vùng, chưa hình thành được chỉ số phản ánh tổng hợp và

toàn diện lợi thế của vùng, qua đó đo lường được mức độ lợi thế phát triển của các vùng

và cho phép so sánh giữa các vùng với nhau. Trong chương 4, Luận án sẽ sử dụng

2.2. Đầu tư công và tăng trưởng kinh tế của vùng

2.2.1. Đầu tư công

2.2.1.1. Khái niệm đầu tư công

phương pháp phân tích nhân tố khám phá để kiểm định và xác định chi số tổng hợp đó.

Đầu tư công đóng vai trò quan trọng với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các

quốc gia. Cho đến nay, khái niệm về đầu tư công vẫn là một vấn đề gây tranh luận của

nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong nước và trên thế giới.

41

Theo IMF (2014), “Đầu tư công là chi tiêu vốn của chính phủ để mua lại, duy trì

hoặc cải thiện tài sản vật chất như cơ sở hạ tầng, thường nhằm mục đích cung cấp hàng

hóa công cộng và kích thích tăng trưởng kinh tế”. Còn Musgrave & Musgrave (1989)

cho rằng, “Đầu tư công là một phần chi tiêu của chính phủ dành cho việc tạo ra tài sản

vật chất phục vụ lợi ích công cộng, chẳng hạn như đường sá, trường học và bệnh viện.”

Tương tự, Viện Chiến lược phát triển – Bộ KH&ĐT(2016) quan niệm, “Đầu tư công là

việc Nhà nước sử dụng ngân sách nhà nước và các nguồn tài chính khác để đầu tư xây

dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phục vụ lợi ích công cộng và phát triển bền vững.”

Theo các quan điểm này thì đầu tư công là đầu tư của chính phủ và đầu tư của doanh

nghiệp nhà nước. Ngoài ra việc đầu tư của doanh nghiệp nhà nước cũng không hoàn

toàn thuần túy phục vụ mục đích chính trị, xã hội, công ích mà còn phục vụ hoạt động

sản xuất kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Trên thực tế, việc phân tách hoạt động mang

tính phi lợi nhuận và hoạt động nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận trong tổng thể hoạt

động của doanh nghiệp nhà nước không phải lúc nào cũng dễ dàng thực hiện.

Theo World Bank (1994): “Đầu tư công góp phần vào phát triển kinh tế bằng

cách cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng cơ bản mà thị trường không cung cấp đủ”.

Nguyễn Xuân Thành (2020) cũng có quan niệm tương tự và cho rằng, “Đầu tư công

đóng vai trò dẫn dắt trong việc phát triển hạ tầng, tạo nền tảng cho khu vực tư nhân phát

triển và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.” Theo các quan niệm này, đầu tư công là một loại

hình đầu tư được quy hoạch và triển khai trong kế hoạch của nhà nước, sử dụng nguồn

vốn do chính phủ quản lý và cung cấp. Loại hình đầu tư này tập trung chủ yếu vào việc

đáp ứng nhu cầu về cơ sở hạ tầng kinh tế (bao gồm đường sá, cầu cống, bến cảng...) và

cơ sở hạ tầng xã hội (như giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao...) cùng với các chương trình

và dự án vì mục đích phúc lợi xã hội. Sự khác biệt cơ bản giữa đầu tư công và đầu tư tư

nhân là đầu tư công tập trung vào hiệu quả kinh tế - xã hội và hiệu quả gián tiếp, trong

khi đầu tư tư nhân tập trung chủ yếu vào hiệu quả thương mại và lợi nhuận trực tiếp.

Chủ đầu tư của các dự án đầu tư công thường là các doanh nghiệp nhà nước, cơ quan

nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội, thay vì tư nhân. Trong quá trình kế hoạch hóa và

triển khai, nguồn vốn đầu tư công được quy hoạch trực tiếp bởi các cơ quan kế hoạch

nhà nước và liên kết chặt chẽ với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Theo OECD, các chính phủ có vai trò trung tâm trong đầu tư cơ sở hạ tầng. Cơ sở

hạ tầng là hàng hóa công cộng vì nó chủ yếu là không thể loại trừ và không có tính cạnh

tranh trong tiêu dùng, và như vậy được cung cấp tốt nhất bởi các cơ quan công quyền.

Ngoài ra, đầu tư công có thể được coi là một loại công cụ chính sách mà theo đó các chính

phủ có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, đổi mới và đóng góp phúc lợi thông

42

qua việc cung cấp cơ sở hạ tầng cơ bản và các dịch vụ công cộng. Chính phủ sử dụng đầu

tư công, đặc biệt là đầu tư vào cơ sở hạ tầng để ứng phó với một loạt các thách thức chính

sách. Nó có khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất và tạo ra tổng cầu bằng

cách cải thiện nguồn nhân lực và khuyến khích đổi mới công nghệ.

Một số quan điểm khác cho rằng đầu tư công là đầu tư vào lĩnh vực tư nhân không

muốn và không thể tham gia. WB (1997) cho rằng “Đầu tư công là hợp lý khi không có

đầu tư tư nhân, đặc biệt là trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng có chi phí trả trước cao và

thời gian hoàn vốn dài”. Khái niệm này không lý giải được hình thức PPP có phải là đầu

tư công hay không. Quan điểm đầu tư công là chương trình, dự án đầu tư của nhà nước,

do nhà nước quản lý phục vụ lợi ích công cộng (các chương trình, dự án hạ tầng kinh tế,

xã hội và phát triển kinh tế xã hội khác) nhưng không phân biệt nguồn vốn (có thể là

nguồn từ khu vực nhà nước, nguồn từ khu vực ngoài nhà nước hoặc kết hợp) có thể giải

thích được các chủ thể tham gia và nguồn vốn huy động.

Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 đã định nghĩa: “Đầu tư công là hoạt động

đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã

hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội”. “Vốn đầu

tư công quy định tại Luật này gồm: vốn ngân sách nhà nước, vốn công trái quốc gia, vốn

trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa phương, vốn hỗ trợ phát triển chính

thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát

triển của Nhà nước, vốn từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối

ngân sách nhà nước, các khoản vốn vay khác của ngân sách địa phương để đầu tư”.

Luật Đầu tư công số 39/2019/QH14 được ban hành vào năm 2019, trong đó có

định nghĩa “đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án

và đối tượng đầu tư công khác theo quy định của Luật này”. “Vốn đầu tư công quy định

tại Luật này bao gồm: vốn ngân sách nhà nước; vốn từ nguồn thu hợp pháp của các cơ

quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập dành để đầu tư theo quy định của pháp luật”.

Về phạm vi điều chỉnh, “Luật này quy định việc quản lý nhà nước về đầu tư công; quản

lý và sử dụng vốn đầu tư công; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, tổ

chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đầu tư công”.

Khái niệm đầu tư công tại Luật này có thể hiểu đầu tư công là hoạt động đầu tư

sử dụng vốn nhà nước và do nhà nước quản lý. Khái niệm này phần nào hạn chế việc

thu hút các nguồn lực xã hội cho hoạt động đầu tư công. Hạn chế của quan điểm này

cũng là không đề cập đến đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Trong khi đó, doanh

nghiệp nhà nước ở Việt Nam được nhà nước cấp vốn hoặc vốn có nguồn gốc từ ngân

43

sách nhà nước đang hoạt động trong một số lĩnh vực phục vụ tăng trưởng và phát triển

của xã hội đặc biệt là phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, thông tin liên lạc, điện

lực, nước sạch, môi trường,… Do vậy nếu sử dụng quan điểm này trong quá trình nghiên

cứu thực nghiệm tại Việt Nam sẽ không đánh giá được đầy đủ tác động của đầu tư công

tới tăng trưởng, phát triển kinh tế và xã hội. Ngoài ra đầu tư huy động nguồn lực của xã

hội như hình thức PPP cũng không được Luật này đề cập đến như một nguồn vốn đầu

tư công. Tóm lại, khái niệm đầu tư công trong Luật đầu tư công hiện hành cần được điều

chỉnh để phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, phù hợp với chủ trương chính sách

về xã hội hóa đầu tư của Nhà nước, giảm bớt gánh nặng lên ngân sách nhà nước.

Từ sự phân tích các hạn chế của các quan niệm trên đây về đầu tư công, tác giả

luận án đi đến lựa chọn khái niệm về đầu tư công như sau: Đầu tư công là đầu tư vào

các chương trình, dự án đầu tư của nhà nước, do nhà nước quản lý phục vụ lợi ích công

cộng (các chương trình, dự án hạ tầng kinh tế, xã hội và phát triển kinh tế xã hội khác)

nhưng không phân biệt nguồn vốn (có thể là nguồn từ khu vực nhà nước, nguồn từ khu

vực ngoài nhà nước hoặc kết hợp), trong đó nguồn vốn ngân sách nhà nước mang tính

chủ đạo. Khái niệm này phù hợp với các định nghĩa về đầu tư công của Luật đầu tư công

Việt Nam, tuy nhiên được chi tiết hơn nhằm phản ánh được một cách toàn diện các khía

cạnh về vai trò quản lý, mục đích sử dụng vốn và giải thích được các chủ thể tham gia

và nguồn vốn huy động. Mặc dù vậy với khái niệm này việc thu thập dữ liệu nghiên cứu

trong thời gian qua của Việt Nam cũng đặt ra những thách thức nhất định, nhất là đối

với phần vốn đầu tư tham gia của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và của doanh

nghiệp nhà nước. Do điều kiện hạn chế về mặt số liệu thống kê, cũng như để phù hợp

với luật đầu tư công, sử dụng được hệ thống dữ liệu hiện có của Tổng cục thống kê, về

mặt số liệu, NCS tổng hợp số liệu vốn đầu tư công bao gồm: Vốn ngân sách nhà nước

(Trung ương và địa phương), vốn vay và vốn huy động từ nguồn khác. Nguồn vốn tự có

của các doanh nghiệp nhà nước không được thu thập do không đủ điều kiện để tách bạch

mục đích sử dụng của nguồn vốn này. Ngoài ra, trong thời kỳ nghiên cứu, do các dự án

đầu tư theo hình thức PPP rất hạn chế, đặc biệt ở Vùng TD&MNPB nên cũng không

2.2.1.2. Đặc điểm của đầu tư công

bao gồm trong số liệu vốn đầu tư công.

● Đầu tư công gắn với chủ thể là nhà nước.

Đầu tư công là một trong những phương tiện quan trọng để phát triển kinh tế và

xã hội của một quốc gia. Đầu tư công có đặc điểm chung là gắn với chủ thể là Nhà nước

và được thiết kế trong kế hoạch của Nhà nước dưới sự quản lý của Nhà nước. Trọng tâm

44

của đầu tư công tập trung vào việc đáp ứng nhu cầu về các sản phẩm và dịch vụ công

cộng, bao gồm xây dựng, vận hành và bảo trì hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội. Những

lĩnh vực này thường không được các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước quan tâm hoặc

có khả năng đầu tư bởi vì hiệu quả thấp hoặc không đủ khả năng đầu tư. Nhà nước sử

dụng nguồn vốn để thực hiện đầu tư vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội.

Nhà nước quản lý các chương trình, dự án từ lập, thẩm định, phê duyệt, bố trí nguồn vốn

thực hiện, thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư. Nguồn vốn nhà nước sử dụng

chủ yếu đến từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn vay trong nước hoặc quốc tế, được tài

trợ bởi các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu

Á, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Quỹ Phát triển Liên Hợp Quốc và nhiều tổ chức tài chính khác.

● Đầu tư công phục vụ những mục tiêu công cộng, cung cấp hàng hóa, dịch vụ

công cho xã hội không vì mục tiêu lợi nhuận.

Điểm khác biệt cơ bản giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân là đầu tư công chú

trọng đến hiệu quả kinh tế-xã hội, hiệu quả gián tiếp và hiệu quả ngoại lai bên ngoài

phạm vi dự án. Trong khi đó, các dự án đầu tư sản xuất và kinh doanh của lĩnh vực tư

nhân chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh doanh, hiệu quả trực tiếp trong phạm vi đầu

tư, vì mục đích lợi nhuận. Một trong những lợi ích quan trọng của đầu tư công là đóng

góp vào sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Đầu tư vào hạ tầng kinh tế và xã hội giúp

nâng cao năng suất lao động, cải thiện điều kiện sống của người dân và tạo ra các cơ hội

việc làm mới. Đặc biệt, đầu tư công có thể góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế trong thời kỳ suy thoái kinh tế hoặc khi nền kinh tế đang trải qua khó khăn.

● Đầu tư công được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật để đảm bảo minh bạch,

hiệu quả

Nhà nước quản lý các chương trình và dự án, từ quá trình lập kế hoạch, thẩm

định, phê duyệt, bố trí nguồn vốn thực hiện, đến thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt

động đầu tư. Dự án đầu tư công luôn đối mặt với nhiều thách thức và rủi ro do tính phức

tạp về kỹ năng chuyên môn và kinh nghiệm, đối mặt với các vấn đề về tính bền vững,

đặc biệt là trong lĩnh vực môi trường và tài nguyên thiên nhiên.

Trong khuôn khổ pháp luật, cần có các cơ chế quản lý và giám sát chặt chẽ để

đảm bảo tính minh bạch và tránh tình trạng tham nhũng trong quá trình thực hiện các dự

án đầu tư công. Hệ thống quy định, thủ tục ràng buộc càng chặt chẽ cùng sự giám sát và

phản biện của cộng đồng, đầu tư công càng đảm bảo đúng mục đích, công khai, minh

bạch và hiệu quả.

2.2.2. Tăng trưởng kinh tế vùng

2.2.2.1. Khái niệm và đo lường tăng trưởng vùng

45

Theo nghĩa chung, tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng sản lượng (thu

nhập) của một nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).

Thu nhập của nền kinh tế có thể được đo lường bằng giá trị hay hiện vật. Về mặt giá trị,

tăng trưởng kinh tế được đo lường theo các chỉ số: GDP (Tổng sản phẩm quốc nội), GNI

(Tổng thu nhập quốc dân)…Tăng trưởng cũng có thể được tính theo thu nhập bình quân

đầu người (GDP/dân số hoặc GNI/dân số). Tăng trưởng kinh tế thường được xem là một

mục tiêu quan trọng trong chính sách kinh tế của một quốc gia, tạo ra việc làm, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện điều kiện sống, đẩy mạnh phát triển công

nghiệp và dịch vụ, cải thiện cơ sở hạ tầng, giảm đói nghèo, cải thiện sức khỏe và giáo

dục. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế cũng có thể gây ra những hệ lụy tiêu cực như ô

nhiễm môi trường, sự chênh lệch thu nhập và sự tăng trưởng không bền vững.

Tương tự như cấp độ quốc gia, ở cấp độ vùng/địa phương tăng trưởng kinh tế là

sự gia tăng sản lượng (thu nhập) của một vùng/địa phương trong một khoảng thời gian

nhất định (thường là một năm). Ở cấp vùng/địa phương, sản lượng (thu nhập) được đo lường bằng chỉ số GRDP (Tổng sản lượng nội vùng) hoặc GRDP/người. Trong đó,

tổng sản lượng của vùng là tổng số sản lượng của các địa phương thuộc vùng cộng lại.

Nói cách khác, GRDP là tổng giá trị sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cuối cùng do kết

quả hoạt động kinh tế trên phạm vi vùng/địa phương tạo ra trong một năm. Về mặt nội

dung và phương pháp tính toán, GRDP cũng tương tự như chỉ số GDP ở phạm vi quốc

gia được tính toán theo 3 phương pháp: phương pháp sản xuất, phương pháp tiêu dùng

và phương pháp phân phối. Các số liệu về GDP hoặc GRDP được các cơ quan Thống

kê ở cấp quốc gia hay địa phương công bố kịp thời hàng năm tính theo giá hiện hành

2.2.2.2. Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế vùng

và giá cố định.

Các lý thuyết tăng trưởng vùng một mặt giải thích cơ chế tăng trưởng vùng, mặt

khác là cơ sở để thực hiện việc phân loại vùng. Có thể kể đến các lý thuyết tăng trưởng

vùng chủ yếu sau đây:

- Lý thuyết tăng trưởng vùng tân cổ điển ngoại sinh

Theo trường phái tân cổ điển với đại diện là nhà kinh tế học người Mỹ Robert

Solow, các yếu tố tăng trưởng kinh tế bao gồm Vốn, Lao động và tiến bộ khoa học công

nghệ. So với mô hình tăng trưởng cổ điển, Solow đã đưa thêm yếu tố công nghệ vào

hàm sản xuất và loại bỏ yếu tố tài nguyên ra khỏi hàm sản xuất. Tuy nhiên, ông cho rằng

46

công nghệ là yếu tố tác động từ bên ngoài và sự tăng trưởng kinh tế hoàn toàn phụ thuộc

vào các cú sốc về tiến bộ công nghệ từ bên ngoài đưa đến.

- Lý thuyết cực tăng trưởng

Lý thuyết cực tăng trưởng do nhà kinh tế học người Pháp Francois Perrous đề

xướng vào năm 1950, sau đó được Albert Hirshman, Myrdal, Friedman và Harry

Richardson tiếp tục nghiên cứu và phát triển. Theo lý thuyết này, tăng trưởng không

xuất hiện đồng thời ở mọi nơi, mà chỉ xuất hiện ở một số điểm hoặc cực với mức độ

khác nhau. Tăng trưởng kinh tế diễn ra xung quanh một cực được đặc trưng bởi sự hình

thành và phát triển của ngành kinh tế chủ đạo của vùng đó. Mỗi ngành chủ đạo lại có

những đặc thù riêng, do đó cực tăng trưởng chính là nơi có thể đáp ứng được đầy đủ các

đặc thù riêng đó. Sự phát triển của cực tăng trưởng sẽ thu hút ngày càng nhiều các yếu

tố sản xuất (vốn và lao động) về điểm cực đó. Kết quả dẫn đến sự phát triển nhanh, đầy

đủ và toàn diện hơn của ngành kinh tế chủ đạo. Cứ như thế, quá trình tích lũy và phát

triển này sẽ tạo nên một địa điểm phát triển nhất trong toàn vùng, đồng thời cũng sẽ tạo

ra hiệu ứng thúc đẩy các vùng xung quanh điểm cực.

- Lý thuyết tăng trưởng nội sinh

Theo quan điểm hiện đại, yếu tố đất đai và tài nguyên (R) không được coi là yếu

tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế vì đất đai là yếu tố cố định còn tài nguyên thì có

xu hướng giảm dần trong quá trình khai thác. Yếu tố tài nguyên và đất đai vẫn tồn tại và

tác động đến tăng trưởng kinh tế nhưng dưới dạng yếu tố vốn sản xuất (K). Ngoài các

yếu tố vốn (K) và lao động (L) được gọi là vốn vật chất, mô hình này còn bao gồm yếu

tố vốn nhân lực (vốn con người). Nó được biểu hiện ở lao động có kỹ năng sản xuất,

lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp, những lao động có sáng kiến

và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế. Lý thuyết tăng trưởng nội sinh mô hình

hóa tiến bộ công nghệ bằng cách đưa nguồn vốn con người vào hàm sản xuất và giải

thích quá trình tích lũy kiến thức (tiến bộ công nghệ) trực tiếp thông qua tích nguồn vốn

con người, hay gián tiếp thông qua nghiên cứu và phát triển. Như vậy yếu tố vốn con

người và công nghệ tác động đến tăng trưởng kinh tế qua yếu tố năng suất các nhân tố

tổng hợp (TFP- Total Factor Productivity). Do đó, mô hình tăng trưởng có ba yếu tố đầu

vào trực tiếp tác động đến tăng trưởng kinh tế được nhấn mạnh, đó là vốn, lao động và

năng suất nhân tố tổng hợp (TFP).

Ngoài các lý thuyết trên đây, có thể kể đến các lý thuyết khác như: Lý thuyết

Cụm ngành (cluster) của M.Porter(1990); Lý thuyết nhân quả tích lũy của Gunnar

Myrdal; Lý thuyết địa kinh tế mới của Krugman (1991); Lý thuyết định vị công nghiệp

47

của Alfred Weber (1929); Lý thuyết vị trí trung tâm của Christaller; Lý thuyết đổi mới

2.2.2.3. Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế vùng

sáng tạo vùng của Schumpeter...

Như mục 2.2.2.1 đã nói, về mặt nội dung và phương pháp tính toán, GRDP cũng

tương tự như chỉ số GDP ở phạm vi quốc gia được tính toán theo 3 phương pháp: phương

pháp sản xuất, phương pháp tiêu dùng và phương pháp phân phối. Vì vậy, về cơ bản các

nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế vùng cũng tương tự như các nhân tố tác động

đến tăng trưởng kinh tế ở cấp độ quốc gia.

Theo Ngô Thắng Lợi (2012), tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 nhóm nhân tố:

kinh tế và phi kinh tế.

(i) Nhóm nhân tố kinh tế lại được chia thành 2 nhóm tác động từ phía tổng cung

và các nhân tố tổng cầu.

Các nhân tố tác động trực tiếp đến tổng cung, theo quan điểm truyền thống gồm

có 4 nhân tố: Vốn (K), lao động (L), tài nguyên (R) và khoa học công nghệ (T). Còn

theo quan điểm hiện đại, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 3 nhân tố là vốn, lao động

và năng suất nhân tố tổng hợp (TFP).

Các nhân tố tác động trực tiếp đến tổng cầu bao gồm: Chi cho tiêu dùng cá nhân

dân cư (C), chi tiêu dùng Chính phủ (G), Chi cho hoạt động đầu tư (I) và chi tiêu hoạt

động xuất nhập khẩu (NX= EX- IM).

(ii) Nhóm nhân tố phi kinh tế: Các nhân tố phi kinh tế có đặc điểm là tác động

gián tiếp đến tăng trưởng, khó lượng hóa và mang tính tổng hợp. Nhân tố phi kinh tế có

nhiều, gồm thể chế chính trị - xã hội, cơ cấu dân cư, cơ cấu dân tộc trong xã hội, đặc

điểm tự nhiên, lợi thế so sánh, địa vị của các thành viên trong cộng đồng và sự tham gia

của họ vào quá trình tăng trưởng…Trong phân tích tăng trưởng kinh tế vùng, các nhân

tố phi kinh tế thường được nhấn mạnh gồm: Đặc điểm văn hóa - xã hội, thể chế chính

trị - kinh tế- xã hội, cơ cấu dân tộc, cơ cấu tôn giáo; sự tham gia của cộng đồng gắn liền với thực hiện quyền dân chủ.

Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế của vùng/địa phương cũng tương

tự như các nhân tố trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên trên phạm vi vùng/địa phương, vai

trò và cơ chế tác động của các nhân tố tăng trưởng của các vùng khác nhau cũng có nét

riêng biệt tùy theo mô hình tăng trưởng được áp dụng như các lý thuyết tăng trưởng

vùng đã trình bày trên đây.

2.3. Quan hệ tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng

2.3.1. Cơ chế tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng

48

Để phân tích cơ chế tác động của Vốn đầu công đến tăng trưởng kinh tế vùng,

tác giả luận án xuất phát từ các giả thiết - quan hệ sau đây:

Giả thiết 1: Phương trình sản lượng của nền kinh tế từ phía tổng cầu:

GDP = C + G + I + (EX - IM)

Hay GDP = C + (GI + GC) + I + (EX-IM) (1)

Trong đó: C: Là chi tiêu hộ gia đình; G: Chi tiêu của chính phủ; GI: Chi tiêu của

chính phủ cho đầu tư; GC: chi của Chính phủ cho tiêu dùng; I: đầu tư tư nhân ; EX là

chi tiêu xuất khẩu và IM là chi tiêu nhập khẩu.

Giả thiết 2: Về phía tổng cung, mô hình hàm sản xuất mô tả dưới dạng tổng quát:

GDP = F (K, L, TFP) (2)

trong đó F là dạng hàm sản xuất; K là vốn cố định sản xuất; L là lao động và

TFP là Tổng năng suất các nhân tố.

Giả thiết 3: Vốn sản xuất được tạo ra từ quá trình đầu tư vốn và về mặt số lượng

được thể hiện qua hệ thức:

Kt+1 = Kt + It+1 - δ* (It+1/2 + Kt) (3)

trong đó Kt+1 là vốn sản xuất thời kỳ (t+1); Kt là vốn sản xuất thời kỳ t; It+1 là

vốn đầu tư thời kỳ (t+1) (Trần Thọ Đạt (2008))

Giả thiết 4: Cơ chế tái sản xuất ra sản lượng xét trên phạm vi vùng/địa phương

cũng tương tự như trên phạm vi quốc gia.

Như phần phân tích các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế đã cho thấy sản lượng của nền kinh tế chịu tác động của 2 nhóm nhân tố từ phía tổng cầu và phía tổng

cung. Trên cơ sở tổng quan các công trình nghiên cứu lý thuyết và các giả thiết nêu trên,

NCS mô tả cơ chế tác động của Đầu tư công đến sản lượng của vùng qua phần phân tích

2.3.1.1. Tác động từ phía tổng cầu

dưới đây (Tổng hợp qua biểu đồ 2.2).

- Đầu tư công tác động trực tiếp đến sản lượng

Từ phương trình (1) - Giả thiết 1 cho thấy đầu tư công (GI) là một bộ phận của

Chi tiêu chính phủ và do đó khi đầu tư công tăng sẽ tác động trực tiếp lên Tổng cầu và

làm tăng sản lượng và ngược lại. Theo lý thuyết Keynes, đầu tư công có thể trực tiếp

49

kích thích tăng trưởng kinh tế thông qua việc gia tăng tổng cầu. Ông cho rằng, thị trường

không bao giờ hoạt động hoàn hảo nên cần có sự can thiệp của chính phủ để tăng cầu

hiệu quả, kích thích tiêu dùng, đầu tư và sản xuất để đảm bảo việc làm và thu nhập. John

Maynard Keynes khuyến nghị rằng trong thời kỳ suy thoái kinh tế, khi khu vực tư nhân

cắt giảm chi tiêu, chính phủ nên tăng cường chi tiêu công để bù đắp sự thiếu hụt này.

Mặt khác, khi chính phủ đầu tư vào các dự án hạ tầng như đường sá, cầu cống,

bệnh viện, và trường học, tổng cầu trong nền kinh tế sẽ tăng lên do chi tiêu của chính

phủ tạo ra thu nhập cho các công nhân và nhà thầu tham gia vào các dự án này. Những

người này sau đó sẽ sử dụng thu nhập của mình để tiêu dùng làm tăng C trong phương

trình (1), tạo ra một chuỗi các hoạt động kinh tế liên tiếp, từ đó thúc đẩy sản xuất và

tăng trưởng kinh tế.

- Tác động gián tiếp đến tổng cầu do ảnh hưởng đến đầu tư tư nhân

Xét về phía tổng cầu, đầu tư công cũng có tác động gián tiếp đến sản lượng nhờ

việc cải thiện môi trường kinh doanh và từ đó kích thích thu hút đầu tư tư nhân, tăng

tiêu dùng hộ gia đình nhờ thu nhập tăng lên trong khu vực tư nhân. Khi chính phủ đầu

tư vào cơ sở hạ tầng như đường sá, cầu cống, cảng biển và sân bay, môi trường kinh

doanh trở nên thuận lợi hơn. Các doanh nghiệp có thể dễ dàng vận chuyển hàng hóa,

tiếp cận thị trường và nguyên liệu, giảm chi phí sản xuất và tăng khả năng cạnh tranh.

Điều này không chỉ thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp hiện có mà còn thu hút

các nhà đầu tư mới, cả trong và ngoài nước đến đầu tư và kinh doanh. Theo mô hình

"đàn chim bay" của Akamatsu, đầu tư công vào cơ sở hạ tầng có thể tạo ra một môi

trường kinh doanh hấp dẫn, thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư và chuyển giao

công nghệ, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế của quốc gia.

Đầu tư công vào cơ sở hạ tầng và R&D có thể tạo ra những hiệu ứng lan tỏa tích

cực đến các ngành khác trong nền kinh tế. Hiệu ứng lan tỏa có thể được hiểu qua nhiều

khía cạnh khác nhau, từ việc cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi,

đến việc khuyến khích sự phát triển công nghệ và thúc đẩy đẩy đổi mới sáng tạo. Những hiệu

ứng này không chỉ làm tăng hiệu quả và năng suất của các doanh nghiệp tư nhân mà còn đóng

góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế bền vững và lâu dài. Mô hình lý thuyết về tăng trưởng

nội sinh cũng nhấn mạnh rằng đầu tư công vào R&D có thể tạo ra hiệu ứng lan tỏa tích cực

đến đầu tư tư nhân. Khi chính phủ tài trợ cho các nghiên cứu khoa học và phát triển công

nghệ, các doanh nghiệp tư nhân có thể hưởng lợi từ những phát minh và sáng kiến này. Họ

có thể áp dụng các công nghệ mới vào sản xuất, cải tiến quy trình và sản phẩm, từ đó

tăng năng suất và hiệu quả kinh doanh. Sự hợp tác giữa khu vực công và tư trong lĩnh

vực R&D tạo ra một vòng xoáy tích cực của đổi mới sáng tạo và tăng trưởng kinh tế.

50

Như vậy đầu tư công có thể kích thích đầu tư tư nhân (số hạng I trong phương

trình (1)) và gián tiếp thúc đẩy sản lượng của nền kinh tế.

Đầu tư công vào các dịch vụ công như giáo dục và y tế cũng tạo ra một môi

trường hấp dẫn cho đầu tư tư nhân. Khi lực lượng lao động có trình độ cao và sức khỏe

tốt, doanh nghiệp sẽ có nguồn nhân lực chất lượng để khai thác. Điều này không chỉ làm

tăng năng suất lao động mà còn khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các hoạt

động nghiên cứu và phát triển (R&D) để tận dụng tri thức và kỹ năng của lao động. Kết

quả là, sự kết hợp giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân sẽ tạo ra các đột phá công nghệ và

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Hiệu ứng lan tỏa của đầu tư công đến đầu tư tư nhân còn thể hiện qua việc tạo ra

sự ổn định và niềm tin vào nền kinh tế. Khi chính phủ đầu tư vào các dự án hạ tầng lớn,

nó không chỉ tạo ra việc làm và thu nhập mà còn thể hiện cam kết của chính phủ trong

việc phát triển kinh tế bền vững. Sự ổn định kinh tế vĩ mô và niềm tin của doanh nghiệp

vào triển vọng kinh tế sẽ khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng đầu tư và kinh doanh.

Điều này đặc biệt quan trọng trong các giai đoạn khủng hoảng kinh tế, khi niềm tin và

đầu tư của khu vực tư nhân có thể bị suy giảm nghiêm trọng.

Một trong những minh họa rõ nét cho hiệu ứng lan tỏa của đầu tư công là

trường hợp của Hàn Quốc trong những thập kỷ qua. Chính phủ Hàn Quốc đã đầu tư

mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng, giáo dục và R&D, từ đó tạo ra một môi trường kinh

doanh thuận lợi và thu hút đầu tư tư nhân. Các doanh nghiệp Hàn Quốc như

Samsung, Hyundai đã tận dụng cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực chất lượng để phát

triển và trở thành những tập đoàn toàn cầu. Sự phối hợp giữa đầu tư công và đầu tư

tư nhân đã giúp Hàn Quốc đạt được tăng trưởng kinh tế ấn tượng và trở thành một

trong những nền kinh tế phát triển nhất thế giới.

Mặc dù vậy, đầu tư công có thể dẫn đến hiệu ứng lấn át, làm giảm đầu tư tư nhân.

Khi chính phủ vay nợ để tài trợ cho các dự án công, lãi suất tăng lên do cạnh tranh về

nguồn vốn. Lãi suất cao hơn làm tăng chi phí vay vốn cho các doanh nghiệp tư nhân,

khiến họ giảm đầu tư. Đối với các dự án đầu tư hạ tầng lớn, việc nhập khẩu nguyên vật

liệu, máy móc thiết bị dẫn tới ảnh hưởng tới cán cân xuất nhập khẩu. Việc gia tăng cầu

về ngoại tệ phục vụ nhập khẩu hàng hóa có thể gây ra thâm hụt dự trữ ngoại hối và dẫn

tới gia tăng tỷ giá đồng ngoại tệ. Tỷ giá ngoại tệ tăng hỗ trợ xuất khẩu tuy nhiên làm

giảm sức hút đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Điều này cũng làm gia tăng

nợ công và áp lực tài chính cho quốc gia. Đối với các doanh nghiệp vay nợ bằng ngoại

51

tệ, chi phí trả nợ cao hơn có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận và khả năng tái đầu tư, từ đó

làm giảm tăng trưởng kinh tế.

- Đầu tư công ảnh hưởng trực tiếp đến tổng cầu qua cán cân thương mại

Đầu tư công có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến cán cân thương mại (NX

= EX-IM). Đối với hầu hết các nền kinh tế đang phát triển, do khả năng sản xuất tư liệu

sản xuất còn hạn chế, việc nhập khẩu các thiết bị hiện đại từ phía chính phủ là cần thiết

và điều này có thể dẫn đến tăng kim ngạch nhập khẩu là tác nhân dẫn đến tình trạng

nhập siêu của nền kinh tế (trong khi xuất khẩu còn hạn chế). Tuy nhiên, tình trạng này

có thể được hạn chế dần nhờ tăng cường năng lực sản xuất trong nước, từ đó hạn chế

nhập khẩu và tăng cường xuất khẩu. Hơn nữa, hoạt động xuất nhập khẩu phần chủ đạo

2.3.1.2. Đầu tư công tác động trực tiếp đến tổng cung

vẫn chủ yếu đến từ khu vực tư nhân, trong khi khu vực công chỉ chiếm tỷ lệ nhất định.

- Tác động thông qua tăng vốn sản xuất

Theo hệ thức (2), (3) ở giả thiết 2 và 3, do đầu tư công là một thành phần của tổng đầu tư và khi đầu tư công tăng dẫn đến tổng đầu tư tăng lên (với giả thiết các yếu tố khác không đổi), và ΔK = Kt+1 - Kt > 0, do đó sản lượng GDP sẽ tăng lên. Hơn nữa, khi đầu tư công được thực hiện, các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng như giao thông và cầu cảng, viễn thông, điện, nước… cũng như các kết cấu hạ tầng xã hội như nhà ở, trụ sở công, bệnh viện, trường học, công trình văn hóa, thể thao… được được thi công và tạo ra giá trị gia tăng trực tiếp đóng góp vào gia tăng sản lượng.

Mô hình tăng trưởng Solow cũng chỉ ra tầm quan trọng của đầu tư công trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đầu tư công vào cơ sở hạ tầng được xem là một yếu tố đầu vào quan trọng, giúp tăng cường hiệu quả sản xuất của các yếu tố khác. Chẳng hạn như đầu tư vào hạ tầng giao thông không chỉ cải thiện khả năng di chuyển của lao động và hàng hóa mà còn giảm chi phí vận tải, tăng năng suất và hiệu quả sản xuất, từ đó trực tiếp góp phần vào tăng trưởng GDP.

Lý thuyết tăng trưởng nội sinh của Paul Romer và Robert Lucas nhấn mạnh tầm quan trọng của đầu tư vào các yếu tố có thể dẫn đến tăng trưởng kinh tế bền vững thông qua cải thiện năng suất và công nghệ. Tuy nhiên, ngay cả khi không xét đến các tác động gián tiếp qua năng suất hay công nghệ, đầu tư công vào cơ sở hạ tầng như giao thông, điện lực và nước sạch có tác động trực tiếp đáng kể đến tăng trưởng kinh tế. Khi các cơ sở hạ tầng này được cải thiện, chúng làm giảm chi phí sản xuất và giao dịch, tăng cường hiệu quả kinh tế và khuyến khích các hoạt động sản xuất và kinh doanh. Ví dụ, việc đầu tư vào một hệ thống đường cao tốc hiện đại giúp các doanh nghiệp vận chuyển hàng hóa

52

nhanh hơn và chi phí thấp hơn, từ đó tăng doanh thu và lợi nhuận, thúc đẩy họ mở rộng sản xuất và đầu tư thêm vào nền kinh tế.

Mô hình “vốn công” của Robert Barro cũng cung cấp một cách nhìn sâu sắc về tác động trực tiếp của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế. Barro lập luận rằng vốn công như đường sá, cầu cống, và các cơ sở hạ tầng khác là yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất. Khi chính phủ đầu tư vào các dự án hạ tầng, hiệu quả sản xuất của khu vực tư nhân sẽ được cải thiện. Chẳng hạn, khi có một hệ thống đường sá tốt, chi phí vận chuyển hàng hóa giảm, thời gian vận chuyển ngắn hơn, và từ đó các doanh nghiệp có thể sản xuất và phân phối hàng hóa hiệu quả hơn. Điều này không chỉ làm tăng sản lượng mà còn giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, trực tiếp đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.

- Đầu tư công tác động đến sản lượng thông qua năng suất lao động

Theo C. Mac, năng suất lao động phụ thuộc vào 5 nhân tố cơ bản: Mức trang bị vốn cho lao động, trình độ thành thạo của người lao động, tiến bộ công nghệ, trình độ tổ chức lao động và điều kiện hoàn toàn tự nhiên. Đầu tư công với các chương trình hướng vào mục tiêu con người như giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, khoa học công nghệ … sẽ giúp nâng cao thể lực và trí lực của người lao động, nâng cao mức trang bị vốn cho lao động. Các yếu tố quyết định năng suất lao động sẽ chuyển biến theo hướng tích cực cả trong ngắn hạn và dài hạn khi có các hoạt động đầu tư công hướng vào các chương trình vì mục đích con người. Vì thế đầu tư công sẽ có tác động tích cực đến năng suất lao động, từ đó tác động đến sản lượng của nền kinh tế.

- Đầu tư công tác động đến sản lượng thông qua năng suất nhân tố tổng hợp (TFP)

Năng suất nhân tố tổng hợp là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh năng suất sử dụng

các nguồn lực vào tăng trưởng kinh tế. Như đã nói phần trên, trong lý thuyết kinh tế hiện

đại, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 3 nhân tố, đó là vốn, lao động và năng suất nhân

tố tổng hợp, trong đó nhân tố năng suất nhân tố tổng hợp có vai trò ngày càng quan

trọng. Mô hình Solow là cơ sở phương pháp luận cho việc hạch toán tăng trưởng nhằm

đo lường tăng trưởng tổng năng suất các nhân tố. Phần dư hay tổng năng suất nhân tố là

tổng hợp hiệu quả của các nhân tố trên cơ sở thực hiện tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất

như cải tiến kỹ thuật, hiện đại hóa công nghệ, hoàn thiện thể chế, hoàn thiện cơ cấu kinh

tế… Đầu tư công với các chương trình và dự án vào cơ sở hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ

thuật nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, biến đổi cơ cấu kinh tế, tăng cường

công nghệ viễn thông, nghiên cứu và phát triển (R&D), hoàn thiện thể chế… nhờ đó

nâng cao tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế. Nói cách khác, đầu tư công

có tác động gián tiếp đến tăng trưởng thông qua năng suất nhân tố tổng hợp (TFP).

53

Chi tiêu hộ gia đình (C)

Chi tiêu chính phủ(G)

Tổng cầu

Đầu tư tư nhân (I)

Thặng dư xuất khẩu (NX)

Đầu tư công

Tăng trưởng kinh tế

Vốn sản xuất (K)

Lao động (L)

Tổng cung

Năng suất nhân tố (TFP)

Biểu đồ 2.2. Cơ chế tác động của Đầu tư công đến Tăng trưởng kinh tế

Nguồn: Tác giả tổng hợp

2.3.2. Nhân tố ảnh hưởng tới quan hệ đầu tư công và tăng trưởng vùng

Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế được thực hiện qua nhiều kênh

phức tạp như đã phân tích ở phần trên. Mức độ tác động cũng như mối quan hệ giữa đầu

tư công với tăng trưởng kinh tế chịu sự chi phối của nhiều nhân tố. Luận án xác định các

nhân tố theo quan điểm của Kinh tế học phát triển, đồng thời chú ý đến tính đặc thù của

địa bàn nghiên cứu.

2.3.2.1. Môi trường thể chế

Thể chế kinh tế là một hệ thống tổ chức, quy tắc và chính sách hỗ trợ, điều chỉnh

và điều hành hoạt động kinh tế trong một quốc gia hoặc khu vực. Nó bao gồm các thành

phần như các cơ quan quản lý, cơ sở hạ tầng, các quy tắc pháp luật và cơ chế thị trường.

Môi trường thể chế vững mạnh và hiệu quả có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền

vững thông qua việc cải thiện quản lý công, tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm

giải trình, cũng như thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân.

Douglas North (1990), một trong những nhà kinh tế tiên phong trong lĩnh vực thể

chế cho rằng thể chế đóng vai trò quan trọng trong việc giảm chi phí giao dịch và tạo

54

điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế. Theo North, thể chế tốt có thể tạo ra một

môi trường kinh tế ổn định, giảm thiểu sự bất định và khuyến khích đầu tư dài hạn từ cả

khu vực công và tư nhân.

Thể chế kinh tế bao gồm các yếu tố như quyền sở hữu, luật pháp và các quy

định thị trường. Quyền sở hữu rõ ràng và được bảo vệ tốt có thể tạo điều kiện thuận

lợi cho đầu tư công bằng cách đảm bảo rằng các tài sản công được quản lý và sử

dụng hiệu quả. Luật pháp công bằng và minh bạch có thể giúp giảm thiểu rủi ro

tham nhũng và lãng phí trong quản lý dự án đầu tư công. Một nghiên cứu của Mauro

(1998) cho thấy rằng tham nhũng có thể làm giảm hiệu quả của đầu tư công bằng

cách chuyển hướng các nguồn lực từ những dự án có lợi ích kinh tế cao sang những

dự án kém hiệu quả nhưng có khả năng mang lại lợi ích cá nhân cho các quan chức

2.3.2.2. Cơ chế, chính sách đầu tư công

tham nhũng.

Cơ chế chính sách về đầu tư công là nhân tố quan trọng trực tiếp ảnh hưởng đến

quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế. Cơ chế chính sách đầu tư công bao

gồm trước hết là Luật đầu tư công, các chính sách và các quy định nhằm cụ thể hóa Luật

đầu tư công và các chính sách. Các chính sách chủ yếu nhằm điều chỉnh quá trình đầu

tư công bao gồm: Chính sách về phân cấp, phân quyền trong đầu tư; Nhóm chính sách

liên quan đến quy trình thực hiện đầu tư công; Chính sách đảm bảo nguồn lực cho đầu

tư; Chính sách kiểm tra giám sát đầu tư, thanh quyết toán vốn đầu tư; Xử lý các sai phạm

trong thực hiện đầu tư công...

Hệ thống pháp luật đầu tư công càng đầy đủ, rõ ràng, các chính sách đầu tư đồng

bộ và thống nhất với luật pháp sẽ tạo điều kiện cho công tác quản lý đầu tư công đạt

hiệu quả, sử dụng đúng mục đích, chống thất thoát vốn và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư

công. Cơ chế chính sách đầu tư công hoàn thiện cũng cho phép huy động được các

nguồn lực tư nhân tham gia thực hiện các chương trình, dự án đầu tư công, nhờ đó tác

2.3.2.3. Các nhân tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội tại nơi đầu tư

động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.

Đầu tư công được thực hiện thông qua các dự án đầu tư công về xây dựng cơ sở

hạ tầng kinh tế, xã hội. Điều kiện tự nhiên như khí hậu, địa hình, tài nguyên,... đóng vai

trò quan trọng trong việc quyết định về loại hình đầu tư công phù hợp và giúp tăng

cường hiệu quả của đầu tư công. Những vùng có điều kiện khó khăn về địa hình, thời

tiết khí hậu khắc nghiệt và phức tạp sẽ làm tăng chi phí đầu tư, tăng chi phí duy tu bảo

55

dưỡng, ảnh hưởng đến chất lượng và tuổi thọ của các công trình đầu tư, rút cuộc suất

đầu tư sẽ tăng lên. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc là vùng như vậy.

Các điều kiện kinh tế vĩ mô bao gồm các yếu tố như lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp,

lãi suất, tỷ giá hối đoái, và cán cân thanh toán có ảnh hưởng gián tiếp đến cách thức mà

đầu tư công có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Lạm phát cao có thể làm giảm hiệu quả

của đầu tư công bằng cách tăng chi phí xây dựng và vận hành các dự án công cộng, nhất

là các dự án hạ tầng lớn, nơi chi phí vật liệu và lao động chiếm phần lớn trong tổng chi

phí. Một nghiên cứu của Fischer (1993) chỉ ra rằng mức độ lạm phát ổn định có thể tạo

ra môi trường thuận lợi cho đầu tư công, giúp tối ưu hóa việc phân bổ nguồn lực và tăng

cường hiệu quả kinh tế. Lạm phát ổn định cũng góp phần giảm chi phí vốn và tạo điều

kiện thuận lợi cho sự tham gia của khu vực tư nhân trong các dự án đầu tư công.

Lãi suất là một yếu tố kinh tế vĩ mô quan trọng khác ảnh hưởng đến đầu tư công.

Lãi suất cao có thể làm tăng chi phí vay vốn cho các dự án đầu tư công, từ đó làm giảm

khả năng thực hiện các dự án lớn đòi hỏi nguồn vốn lớn. Điều này có thể dẫn đến tình

trạng "lấn át" đầu tư tư nhân, khi khu vực công chiếm dụng nguồn vốn có hạn trong

nền kinh tế.

Tỷ giá hối đoái cũng có tác động đáng kể đến đầu tư công, đặc biệt là trong bối

cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Tỷ giá hối đoái ổn định có thể tạo điều kiện thuận lợi cho

thương mại quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài vào các dự án công cộng. Điều này

đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia phụ thuộc vào nhập khẩu thiết bị và vật liệu

xây dựng cho các dự án đầu tư công. Ngược lại, tỷ giá hối đoái biến động có thể làm

tăng rủi ro và chi phí cho các dự án đầu tư công, làm giảm khả năng thu hút vốn đầu

tư nước ngoài.

Cán cân thanh toán và thâm hụt ngân sách cũng đóng vai trò quan trọng trong

việc quyết định mức độ và hiệu quả của đầu tư công. Thâm hụt ngân sách cao có thể hạn

chế khả năng tài trợ cho các dự án đầu tư công, đặc biệt là trong các quốc gia phụ thuộc

2.3.2.4. Trình độ phát triển của nền kinh tế

vào nguồn tài chính nước ngoài.

Trình độ phát triển của nền kinh tế là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến

khả năng và cách thức mà đầu tư công tác động đến tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết

phát triển kinh tế truyền thống Harrod-Domar nhấn mạnh vai trò của đầu tư trong

việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc gia tăng tích lũy vốn. Theo mô

hình này, đầu tư công có thể tạo ra một động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng, đặc biệt

56

là trong các nền kinh tế đang phát triển nơi mà cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công

cơ bản còn thiếu thốn.

Trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia cũng ảnh hưởng đến khả năng

quản lý và triển khai đầu tư công một cách hiệu quả. Ở những nền kinh tế phát triển

hơn, hệ thống thể chế thường vững mạnh hơn, và các quy trình quản lý công được

thiết lập rõ ràng và minh bạch hơn, điều này giúp tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn

lực công.

Một nghiên cứu của Barro và Sala-i-Martin (1995) đã chỉ ra rằng đầu tư công có

tác động tích cực mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế trong các nền kinh tế phát triển hơn.

Ở những quốc gia này, đầu tư công vào giáo dục, y tế và nghiên cứu phát triển có thể

tạo ra những lợi ích dài hạn bằng cách nâng cao năng suất lao động và thúc đẩy sự đổi

mới công nghệ. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hiệu quả của đầu tư công trong

việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có thể giảm dần khi trình độ phát triển kinh tế đạt đến

một mức độ nhất định, do tác động biên của đầu tư trở nên giảm.

Ngược lại, trong các nền kinh tế kém phát triển, đầu tư công chủ yếu tập trung

vào các dự án cơ bản như xây dựng đường sá, cầu cống, và các dịch vụ thiết yếu như

nước sạch và điện. Ở giai đoạn này, đầu tư công có thể mang lại những lợi ích lớn về

tăng trưởng do các cải thiện cơ sở hạ tầng cơ bản giúp tăng cường hiệu quả sản xuất và

kết nối thị trường. Tuy nhiên, các nền kinh tế này cũng phải đối mặt với những thách

thức lớn trong việc quản lý và phân bổ nguồn lực công một cách hiệu quả.

Một yếu tố khác là khả năng tiếp thu công nghệ và tri thức mới của nền kinh tế.

Ở các nền kinh tế phát triển hơn, đầu tư công có thể tập trung vào các lĩnh vực tiên tiến

như nghiên cứu và phát triển, công nghệ thông tin và năng lượng tái tạo. Những khoản

đầu tư này không chỉ giúp nâng cao năng suất lao động mà còn thúc đẩy quá trình chuyển

đổi kinh tế theo hướng bền vững và thân thiện với môi trường. Ngược lại, trong các nền

kinh tế đang phát triển, việc tập trung vào cải thiện cơ sở hạ tầng và giáo dục có thể tạo

ra nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế trong tương lai.

Trình độ phát triển kinh tế cũng ảnh hưởng đến mức độ mà đầu tư công có thể

kích thích tăng trưởng thông qua hiệu ứng lan tỏa (spillover effects). Ở các nền kinh

tế phát triển, các dự án đầu tư công có thể tạo ra hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ hơn do

sự kết nối chặt chẽ giữa các ngành kinh tế và khả năng hợp tác giữa các khu vực khác

nhau trong nền kinh tế. Trong khi đó, ở các nền kinh tế đang phát triển, hiệu ứng lan

tỏa có thể bị hạn chế do sự thiếu hụt về cơ sở hạ tầng và kết nối kinh tế.

2.3.2.5. Quy mô, chất lượng và hiệu quả của đầu tư công

57

Quy mô, chất lượng và hiệu quả của đầu tư công đóng vai trò quan trọng trong việc

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đầu tư công thường bao gồm các khoản chi tiêu của chính

phủ vào cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế và các dịch vụ công khác nhằm cải thiện phúc lợi xã

hội và tạo nền tảng cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Tuy nhiên, không phải tất cả các

khoản đầu tư công đều mang lại hiệu quả tương tự, và chất lượng cũng như cách thức

quản lý đầu tư công có thể tạo ra sự khác biệt lớn.

Lý thuyết kinh tế về đầu tư công nhấn mạnh rằng việc sử dụng nguồn lực một cách

hiệu quả có thể thúc đẩy năng suất tổng hợp và tiềm năng tăng trưởng của một quốc gia.

Điều đó đòi hỏi các dự án đầu tư công phải được lên kế hoạch và triển khai một cách hợp

lý, tránh tình trạng lãng phí hoặc tham nhũng.

Hiệu quả của đầu tư công không chỉ phụ thuộc vào mức độ đầu tư mà còn vào cách

thức quản lý và giám sát các dự án. Chất lượng đầu tư công cũng liên quan đến việc lựa

chọn đúng đắn các dự án đầu tư được thực hiện trên cơ sở phân tích chi phí-lợi ích nghiêm

ngặt, với sự ưu tiên dành cho những dự án có khả năng mang lại lợi ích kinh tế và xã hội

cao nhất. Một nghiên cứu của Pritchett (2000) chỉ ra rằng ở nhiều quốc gia đang phát

triển, chất lượng đầu tư công thường bị ảnh hưởng bởi năng lực thể chế yếu kém và thiếu

minh bạch, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp. Điều này có thể làm giảm tác động tích

cực của đầu tư công lên tăng trưởng kinh tế và thậm chí gây ra các vấn đề tài chính công.

Các nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra rằng chất lượng của đầu tư công không chỉ phụ thuộc

vào các yếu tố kỹ thuật và quản lý mà còn bị ảnh hưởng bởi môi trường chính trị và thể

chế. Trong những nền kinh tế có mức độ tham nhũng cao hoặc thiếu minh bạch, đầu tư

công thường bị phân bổ kém hiệu quả, dẫn đến lãng phí và thậm chí tạo ra các dự án

không cần thiết. Do đó, cải thiện chất lượng quản trị công và thúc đẩy sự minh bạch là

những yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả của đầu tư công.

Chất lượng và hiệu quả của đầu tư công cũng liên quan đến khả năng tích hợp và

điều phối giữa các cấp chính quyền và các ngành kinh tế khác nhau. Sự phối hợp hiệu quả

có thể đảm bảo rằng các dự án đầu tư công không chỉ được triển khai đúng tiến độ và ngân

sách, mà còn phù hợp với các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội tổng thể của quốc gia.

Điều này đòi hỏi một hệ thống thể chế mạnh mẽ, có khả năng thích ứng với những thay

đổi trong môi trường kinh tế và chính trị.

58

2.4. Khung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu tác động của đầu tư công đến tăng trưởng

2.4.1. Khung nghiên cứu của luận án

Từ tổng quan nghiên cứu và hệ thống lý thuyết đã trình bày, tác giả luận án đề

xuất khung nghiên cứu luận án như sau (Biểu đồ 2.3):

Phân tích định tính

- Quy mô - Cơ cấu - Hiệu quả

-Chi tiêu chính phủ - Tiêu dùng dân cư - Đẩu tư tư nhân - Vốn sản xuất - Năng suất lao động -TFP - Thặng dư xuất khẩu

Đầu tư công

Tăng trưởng kinh tế

- Môi trường thể chế - Cơ chế chính sách đầu tư công - Điều kiện tự nhiên, KT-XH -Trình độ phát triển của nền kinh tế -Chất lượng, hiệu quả ĐTC

- Biến nguồn lực -Biến đặc thù -Biến tương tác

Chiều hướng, cường độ tác động đến TT

Phân tích định lượng

Ghi chú: → : Quan hệ quyết định;

Quan hệ chi phối

Biểu đồ 2.3. Khung phân tích tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế

2.4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng.

2.4.2.1. Nghiên cứu định tính

Luận án sử dụng các phương pháp cơ bản như: Phân tích, tổng hợp, thống kê mô tả, so sánh đối chiếu, suy luận và khái quát hóa nhằm tổng hợp thông tin tài liệu để hệ thống hóa các vấn đề lý luận về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng, phân tích đánh giá thực trạng đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế tại vùng TD&MNPB,

59

2.4.2.2. Nghiên cứu định lượng

rút ra các kết luận về kết quả và tồn tại, nguyên nhân. Trên cơ sở đó, kết hợp với kết quả phân tích định lượng để làm cơ sở đề xuất các hàm ý chính sách trong lĩnh vực đầu tư công tại vùng.

a. Phương pháp xác định chỉ số tổng hợp đánh giá điều kiện phát triển của vùng

Để xác định vùng đặc thù về điều kiện phát triển, tác giả luận án sẽ tiến hành xây dựng

chỉ số tổng hợp phản ánh lợi thế phát triển của vùng, từ đó định nghĩa những vùng có

lợi thế phát triển thấp hơn mức trung bình của cả nước được xem là vùng đặc thù về

điều kiện phát triển. Nói cách khác, những vùng có chỉ số lợi thế phát triển tổng hợp

thấp hơn mức trung bình của cả nước được xem là vùng đặc thù về điều kiện phát triển,

là vùng có nhiều khó khăn trong phát triển so với các vùng khác và so với cả nước. Để

thực hiện nội dung đó, NCS sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA)

nhằm mục đích rút gọn các tiêu chí đánh giá về thành một tập hợp các nhân tố chủ yếu

cho phép định lượng được lợi thế phát triển của các vùng. Quy trình thực hiện bao gồm

các bước sau đây:

Bước 1: Ở bước này sẽ sơ bộ lựa chọn các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ số tổng

hợp và các biến đo lường các nhân tố. Trên cơ sở tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng từ

3 lý thuyết tiếp cận đã phân tích phần trên, luận án hình thành được danh mục ban đầu

về các nhân tố và các biến để tiến hành kiểm định thang đo và phân tích. Giá trị các

biến đo lường được tính toán và sắp xếp theo thang đo Likert 5. Thay vì các số liệu sơ

cấp qua khảo sát, luận án sử dụng các số liệu thứ cấp, thu thập chủ yếu từ Niên giám

thống kê cả nước và của 63 tỉnh/thành hàng năm giai đoạn 2010-2022, Sách trắng

doanh nghiệp Việt Nam, Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của VCCI các năm 2010 -

2022... Với mỗi biến quan sát trong một năm của 63 tỉnh/thành, các giá trị được sắp

xếp theo thứ tự tăng dần và xác định thứ hạng qua thống kê ngũ phân vị, cụ thể: các

địa phương thuộc phân vị thứ nhất (20% giá trị nhỏ nhất) sẽ nhận điểm Likert 5 là 1,

tiếp đó các tỉnh thuộc phân vị thứ 2 nhận giá trị 2…, cuối cùng, các tỉnh thuộc phân vị

cao nhất nhận giá trị là 5. Với cách tiếp cận này, nguồn dữ liệu sẽ đảm bảo tính chính

thức, hệ thống và tránh được tác động của yếu tố chủ quan trong khảo sát điều tra bằng

bảng hỏi.

Bước 2: Kiểm định thang đo các nhân tố bằng phân tích Cronbach’s- anpha. Qua

kiểm định, các nhân tố đủ điều kiện chấp nhận phải đảm bảo về độ tin cậy, tính hội tụ

và tính phân biệt.

60

Bước 3: Thực hiện phân tích nhân tố khám phá (EFA) để xác định tập hợp, rút

gọn các nhân tố xác định Chỉ số lợi thế tổng hợp.

Bước 4: Tính điểm nhân tố cho các nhân tố được xác lập. Các nhân tố đã xác định bằng phân tích nhân tố trên đây được thuật toán tính toán và được chuẩn hóa để

đưa về thang điểm 10 theo phương pháp của VCCI & USAID (2018) như sau:

(cid:1832)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3404) (cid:891) (cid:3397)(cid:3) (cid:1832)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3398) (cid:1865)(cid:1861)(cid:1866)(cid:1832)(cid:3036)(cid:3047) (cid:1865)(cid:1853)(cid:1876)(cid:1832)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3398) (cid:1865)(cid:1861)(cid:1866)(cid:1832)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3) (cid:3397) (cid:883)(cid:3) Trong đó: Fit là giá trị nhân tố i ở năm t sau khi chuẩn hóa; F là điểm nhân tố được tính toán bằng phân tích nhân tố, minF là điểm nhân tố thấp nhất và maxF là điểm

nhân tố cao nhất trong chuỗi dữ liệu; i là chỉ số tỉnh/thành phố và t là chỉ số năm.

Cuối cùng, sử dụng tỷ trọng của các nhân tố trong việc giải thích sự thay đổi của

tập hợp giá trị (dựa trên Rotation Sums of Squared Loadings) để tính chỉ số lợi thế tổng hợp vùng/địa phương RAI (Regional advantage index) theo công thức sau đây:

RAI = k1 x Nhân tố 1 + k2 x Nhân tố 2 + k3 x Nhân tố 3 +….

Với nội dung và mục tiêu của luận án, phương pháp định lượng được NCS áp

dụng sẽ hướng vào các mục đích chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, Xác định một chỉ số tổng hợp phản ánh tập trung lợi thế phát triển của vùng và địa phương, từ đó kiểm định bằng thực nghiệm xem vùng TD&MNPB có phải là vùng đặc thù về điều kiện phát triển (gọi tắt là vùng đặc thù) hay không? Vùng đặc thù cũng là vùng có lợi thế phát triển dưới mức trung bình của cả nước.

Thứ hai, trên cơ sở xác định được chỉ số lợi thế vùng (RAI), Luận án sử dụng nó

như một biến kiểm soát trong các mô hình phân tích định lượng tiếp theo.

b. Mô hình phân tích tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng

Từ phân tích tổng quan trong chương 1 đã cho thấy, có nhiều tác giả đã sử dụng

Mô hình hàm sản xuất dạng Cobb- Douglas mở rộng để ước lượng và phân tích tác động

của đầu tư công đến sản lượng của nền kinh tế, tiêu biểu có thể đến các tác giả sau đây:

- Raffaello Bronzini và Paolo Piselli (2009) trong bài viết này, các tác giả đã sử

dụng mô hình Hàm sản xuất Cobb - Douglas tiêu chuẩn với thay đổi kỹ thuật trung

tính Hicks để ước tính mối quan hệ dài hạn giữa năng suất nhân tố tổng hợp, R&D,

vốn nhân lực và cơ sở hạ tầng công giữa năm 1980 và 2001 trên các vùng của Ý, mô

hình có dạng sau:

(cid:3081) (cid:1837)(cid:3036)(cid:481)(cid:3047)

(cid:3080) (cid:1851)(cid:3036)(cid:481)(cid:3047) (cid:3404) (cid:1846)(cid:1832)(cid:1842)(cid:3036)(cid:481)(cid:3047)(cid:3)(cid:1838)(cid:3047)

(3)

61

trong đó i = 1,…19 là chỉ số khu vực; t = 1980,…2001 là chỉ số thời gian; Y là

đầu ra ở vùng i; L là đầu vào lao động; K là vốn vật chất tư nhân; TFP là năng suất nhân

tố tổng hợp thể hiện sự thay đổi kỹ thuật. Tác giả giả định năng suất nhân tố tổng hợp

được thúc đẩy bởi vốn nhân lực, cơ sở hạ tầng công cộng và hoạt động R&D. Trong đặc

tả của mô hình cơ sở, năng suất nhân tố tổng hợp của khu vực kinh doanh được ước tính

. Sản lượng được đo bằng giá trị gia tăng theo bằng phần dư Solow,

(cid:3081) (cid:1837)(cid:3036)(cid:481)(cid:3047)

(cid:3080) (cid:1846)(cid:1832)(cid:1842)(cid:3036)(cid:481)(cid:3047) (cid:3404) (cid:1851)(cid:3036)(cid:481)(cid:3047)(cid:512)(cid:1838)(cid:3047)

giá cố định; đầu vào lao động của những người lao động tương đương toàn thời gian;

trữ lượng vốn vật chất tư nhân của từng khu vực bằng cách chia nhỏ chuỗi quốc gia. Các

tác giả đã sử dụng kỹ thuật đồng liên kết nhằm kiểm soát tính nội sinh của các biến hồi

quy để ước tính các vectơ đồng liên kết. Bằng chứng thực nghiệm cho thấy tồn tại sự

cân bằng dài hạn giữa mức năng suất và ba loại vốn; trong số đó, vốn con người có tác

động mạnh nhất đến năng suất. Năng suất khu vực cũng bị ảnh hưởng tích cực bởi hoạt

động R&D và cơ sở hạ tầng công cộng của các khu vực lân cận.

- Charlot Sylvie; Schmitt Bertrand (1999), các tác giả đã sử dụng kết quả lý thuyết

từ mô hình tăng trưởng nội sinh (Barro, 1990) để xem xét vai trò của cơ sở hạ tầng công cộng

trong tăng trưởng khu vực ở Pháp. Các mô hình tăng trưởng nội sinh với ngoại tác vốn công

(Barro, 1990) thường dựa trên hàm sản xuất với ba đầu vào, hai trong số đó là các yếu tố tư

nhân (lao động và vốn của khu vực tư nhân) và thứ ba, cơ sở hạ tầng công cộng, được tài trợ

bởi khu vực công. Nó cung cấp thông tin trực tiếp về độ co giãn sản xuất và lợi nhuận theo

quy mô, đồng thời cho phép thảo luận dễ dàng về việc liệu các ngoại tác vốn công có hiện

diện hay không. Yếu tố này tạo ra các tác động ngoại vi nếu lợi nhuận theo quy mô đang

giảm dần hoặc không đổi đối với các yếu tố tư nhân và tăng đối với các yếu tố tư nhân và

(cid:3330)

(cid:3080)

(cid:3081)

(cid:4980)

(cid:3)(cid:1851) (cid:3404) (cid:1827)(cid:3)(cid:1837)

(cid:1838)

(cid:1837)(cid:3043)(cid:3048) trong đó Y là vectơ Yrt, GDP của vùng r tại thời kỳ t; K, L và Kpu lần lượt là trữ

công cộng nói chung (Barro, 1990). Khi đó hàm sản xuất khu vực có dạng sau:

lượng vốn, lao động của khu vực tư nhân và trữ lượng vốn công gắn với vùng r và thời

kỳ t; Ɛ là sai số.

Sau khi tuyến tính hóa bằng phép biến đổi logarit, mô hình có dạng sau và có thể

được ước tính bằng các kỹ thuật kinh tế lượng cho mô hình tuyến tính:

Log Y = log A + αlog K + βlog L + γlog Kpu + logƐ

- Yasser Abdih and Frederick Joutz (2008) đã nghiên cứu tác động của vốn công

đến sản lượng của khu vực tư nhân bằng cách ước tính hàm sản xuất tổng hợp cho nền

62

kinh tế Mỹ trong thời kỳ hậu chiến được tăng cường khi đưa vốn công vào như một yếu

tố đầu vào bổ sung:

(cid:3081)(cid:2869)

(cid:3081)(cid:2870)

(cid:3081)(cid:2871)

(cid:3084)(cid:3047)

(cid:3)(cid:1837)(cid:1842)(cid:3047)

(cid:1857)

(cid:1851)(cid:3047) (cid:3404) (cid:1827)(cid:3047)

(cid:3081)(cid:2872) (cid:1838)(cid:3047)

(cid:1837)(cid:1833)(cid:3047) trong đó Y biểu thị đầu ra, A là biến kiến thức/công nghệ, KP là vốn tư nhân,

(1)

KG là vốn công, L là vốn con người hoặc lao động , εt là số hạng nhiễu trắng, và βi là

độ co giãn.

- Hafedh Bouakez & Sami Dabbegh (2016), để đo lường tác động của đầu tư

công đến tăng trưởng sản lượng, tác giả đã sử dụng mô hình:

(cid:3041) (cid:3038)(cid:2880)(cid:2869)

(2)

trong đó chỉ số i và t lần lượt chỉ quốc gia và khoảng thời gian, biến phụ thuộc (cid:1877)(cid:3036)(cid:3047)(cid:3) (cid:3404) (cid:3)(cid:2009)(cid:1877)(cid:3036)(cid:481)(cid:3047)(cid:2879)(cid:2869) (cid:3397) (cid:3)(cid:2010)(cid:3)(cid:1859)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:963) (cid:1876)(cid:3038)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:3) (cid:1874)(cid:3036) (cid:3397) (cid:2013)(cid:3036)(cid:3047) (cid:2016)(cid:3038)

(y) là tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người, là g (log của) tỷ lệ đầu tư công trên

GDP, x là vectơ của các biến kiểm soát, v biểu thị hiệu ứng quốc gia không được quan

sát và là sai số. Các biến kiểm soát là: tỷ lệ đầu tư tư nhân trên GDP, tỷ lệ nhập học tiểu

học và trung học, tín dụng trong nước do khu vực ngân hàng cung cấp, độ mở thương

mại, tuổi thọ trung bình, phí bảo hiểm thị trường chợ đen, hiệu quả của chính phủ và

kiểm soát tham nhũng. Tác giả đã sử dụng số liệu của 4 nước Algeria, Mauritania,

Morocco và Tunisia trong giai đoạn 1970-2012 để ước lượng và phân tích.

Khi ước lượng mô hình, tác giả đã xem xét vấn đề nội sinh phát sinh từ mối quan

hệ nhân quả ngược giữa tăng trưởng và chi tiêu công cho cơ sở hạ tầng và/hoặc từ khả

năng một số yếu tố bị bỏ qua đối với cả hai biến số. Quan hệ nhân quả ngược phát sinh

do triển vọng tăng trưởng tích cực hàm ý doanh thu thuế cao hơn có thể thúc đẩy chính phủ tăng chi tiêu cơ sở hạ tầng hiện tại. Để giải quyết vấn đề nội sinh, các tác giả đã ước

lượng bằng phương pháp Biến công cụ (IV) và Phương pháp mômen tổng quát (GMM).

- Gerdie Everaert & Freddy Heylen (2001), để phân tích tác động năng suất của

cơ sở hạ tầng công cộng các tác giả thực hiện bằng cách thêm vốn công (G) vào các yếu

tố sản xuất, vốn (K) và lao động (L) của khu vực tư nhân, trong một hàm sản xuất tổng

hợp, Yt = At f(Gt Kt Lt), trong đó Y bằng tổng sản lượng của khu vực tư nhân và A thể

hiện tiến bộ công nghệ. Giả sử hàm sản xuất được mô tả đầy đủ bằng đặc tả Cobb-

(cid:3032)(cid:3034)

(cid:3032)(cid:3038)

(cid:1877)(cid:3047) (cid:3) (cid:3404) (cid:3) (cid:1853)(cid:3047) (cid:3397) (cid:3) (cid:1857)(cid:3038)(cid:1863)(cid:3047) (cid:3397)

(cid:3032)(cid:3039) (cid:1838)(cid:3047)

và được viết lại theo dạng logarit là: Douglas,

(cid:3)(cid:1857)(cid:3039)(cid:3)(cid:1864)(cid:3047) (cid:3397) (cid:3) (cid:1857)(cid:3034)(cid:1859)(cid:3047)

(cid:1833)(cid:3047) (cid:1851)(cid:3047) (cid:3404) (cid:1827)(cid:3047)(cid:3)(cid:1837)(cid:3047) - Khan, Mohsin S & Kumar, Manmohan S, (1997), bài viết này xem xét sự đóng

góp tương đối của đầu tư công và tư vào tăng trưởng GDP bình quân đầu người ở các

nước đang phát triển. Bài báo mở rộng mô hình tăng trưởng tân cổ điển cơ bản bằng

63

cách tách đầu tư thành các thành phần công và tư, và ước tính mô hình này cho một mẫu

gồm 95 nước đang phát triển trong giai đoạn 1970-90 bằng cách sử dụng cả dữ liệu cắt

ngang và dữ liệu bảng. Mô hình nghiên cứu sử dụng dưới dạng hàm sản xuất Cobb-

(cid:3080) (cid:1851)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3404) (cid:3) (cid:1837)(cid:3034)(cid:3036)(cid:3047)

(cid:3081) (cid:3)(cid:1837)(cid:3043)(cid:3036)(cid:3047)

(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:2009) (cid:3397) (cid:2010) (cid:3407) (cid:883)

(cid:4666)(cid:1827)(cid:3036)(cid:3047)(cid:3)(cid:1838)(cid:3036)(cid:3047)(cid:4667)

(cid:2869)(cid:2879)(cid:3080)(cid:2879)(cid:3081) trong đó Y, L và A lần lượt biểu thị mức sản lượng, lao động và công nghệ; Kg

Douglas, với sản lượng tại thời điểm t được cho bởi:

và Kp biểu thị vốn cổ phần của khu vực công và tư nhân. L và A được giả định tăng

trưởng ngoại sinh với tốc độ n và ; do đó N = LA, có thể được hiểu là lao động hiệu

(cid:3404) (cid:1866) (cid:3397) (cid:3)(cid:2011)

quả hoặc lao động được đo bằng đơn vị hiệu quả. Do đó, N tăng trưởng với tốc độ n+ , (cid:2011) tức là: (cid:2011)

(cid:1840)(cid:4662) (cid:1840)

- Ngoài ra, cách tiếp cận mô hình dựa trên cơ sở hàm sản xuất Cobb - Douglas

cũng đã được các tác giả trong nước sử dụng khi phân tích tác động của đầu tư công đến

tăng trưởng kinh tế, như Phạm Thế Anh (2008), Sử Đình Thành (2011), Trần Nguyễn

Ngọc Anh Thư và Lê Hoàng Phong (2014). Một số tác giả với ý định xem xét tác động

theo vùng cũng sử dụng Hàm sản xuất Cobb - Douglas mở rộng, trong đó, bên cạnh

đưa vào mô hình các biến Đầu tư công, đầu tư tư nhân, các biến chính sách, biến nguồn

lực còn đưa thêm các biến đặc trưng vùng, các biến giả, như Wei (2008), Nguyễn Minh

Tiến (2014), Nguyễn Đoan Trang (2019)...

Từ tổng quan các công trình nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm, tác giả đã lựa

chọn mô hình nghiên cứu định lượng là Hàm sản xuất Cobb - Douglas mở rộng, trong đó

các biến được đưa vào mô hình bao gồm: Đầu tư công, đầu tư tư nhân, các biến chính

sách, biến nguồn lực. Kế thừa từ các nghiên cứu của Le và Suruga (2005); Phetsavong và

Ichihashi (2012), NCS sử dụng biến định lượng tương tác giữa đầu tư công (lnIg) và Chỉ

số lợi thế tổng hợp (RAIit), giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân để phục vụ mục đích phân

(cid:3081)(cid:2870)

(cid:3)(cid:3042)(cid:3043)(cid:3032)(cid:3041)(cid:3284)(cid:3295)(cid:2878)(cid:3039)(cid:3031)(cid:3031) (cid:3284)(cid:3295)(cid:3)(cid:2878)(cid:3047)(cid:3047)(cid:3041)(cid:3041)(cid:3284)(cid:3295)(cid:2878)(cid:3019)(cid:3002)(cid:3010)(cid:3284)(cid:3295)(cid:2878)(cid:3)(cid:3049)(cid:3284)(cid:2878)(cid:3)(cid:3084)(cid:3284)(cid:3295)(cid:3)

(cid:3)(cid:1835)(cid:1842)(cid:3036)(cid:3047)

(cid:3081)(cid:2869) (cid:1851)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3404) (cid:3) (cid:1827)(cid:3036)(cid:3047)(cid:1835)(cid:1833)(cid:3036)(cid:3047)

(cid:3081)(cid:2871) (cid:1838)(cid:1828)(cid:3036)(cid:3047)

(cid:3081)(cid:2872) (cid:1832)(cid:1830)(cid:1835)(cid:3036)(cid:3047)

(cid:1857)

(cid:3)(cid:3)

tích và so sánh giữa các địa phương và vùng. Mô hình nghiên cứu tổng quát như sau:

Viết dưới dạng logarit như sau:

(cid:1864)(cid:1866)(cid:1851)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3404) (cid:3) (cid:2010)(cid:2868) (cid:3397) (cid:3) (cid:2010)(cid:2869)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1835)(cid:1833)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2870)(cid:3)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1835)(cid:1842)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2871)(cid:3)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1838)(cid:1828)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2872)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1832)(cid:1830)(cid:1835)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:1867)(cid:1868)(cid:1857)(cid:1866)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:3)(cid:3) (cid:1864)(cid:1856)(cid:1856)(cid:1872)(cid:1861)(cid:1872) (cid:3)

(cid:3397) (cid:1872)(cid:1872)(cid:1866)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1872) (cid:3397) (cid:1844)(cid:1827)(cid:1835)(cid:1861)(cid:1872) (cid:3397) (cid:3) (cid:1874)(cid:1861) (cid:3397) (cid:3) (cid:2013)(cid:1861)(cid:1872)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:4666)(cid:884)(cid:484)(cid:887)(cid:4667)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)

Y là thu nhập của vùng/địa phương đo bằng GRDP; IG là vốn đầu tư công; IP là

vốn đầu tư tư nhân; LB là lao động; FDI là đầu tư trực tiếp nước ngoài; open là độ mở

64

nền kinh tế; lddt là tỷ lệ lao động qua đào tạo; ttnn là tỷ trọng nông nghiệp trong GRDP

(phản ánh biến đổi cơ cấu kinh tế); RAIit là chỉ số lợi thế phát triển tổng hợp (đo lường

yếu tố đặc thù); ; i và t là chỉ số thể hiện đơn vị (tỉnh) và thời gian

quan sát (năm). (cid:1874)(cid:3036)(cid:3)(cid:1874)(cid:157)(cid:3)(cid:2013)(cid:3036)(cid:3047)(cid:3)(cid:1864)(cid:157)(cid:3)(cid:1866)(cid:1860)(cid:1861)(cid:4808)(cid:1873) Từ mô hình tổng quát (2.5), Luận án sẽ cụ thể hóa theo các hướng sau đây:

+ Ước lượng riêng mô hình sản lượng cho vùng TD&MNPB để phân tích tác động

trên vùng.

+ Ước lượng chung mô hình sản lượng cho cả nước gồm 63 tỉnh thành để so sánh

giữa vùng TD&MNPB với các vùng còn lại và với trung bình cả nước.

+ Ước lượng Năng suất lao động dưới ảnh hưởng của ĐTC.

+ Ước lượng Đầu tư tư nhân để đánh giá tác động của ĐTC đến đầu tư tư nhân.

+ Ước lượng mô hình GRDP bình quân đầu người để đánh giá tác động của ĐTC.

Với các hướng trên, tác giả sử dụng Hồi quy trên cơ sở dữ liệu bảng theo các kỹ

thuật POOL, FEM, REM và sử dụng GMM để khắc phục tính nội sinh và dữ liệu bảng

động. Trong quá trình ước lượng, biến tương tác giữa biến RAI và đầu tư công cũng như

với các biến khác sẽ được đưa vào mô hình để kiểm định các mơi quan hệ tác động. Nội

dung cụ thể sẽ được trình bày trong chương 4 của luận án.

Tóm tắt chương 2

65

Chương 2 đã trình bày cơ sở lý luận về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng

kinh tế vùng đặc thù về điều kiện phát triển. Cụ thể, chương 2 đã làm rõ các khái niệm về

vùng kinh tế, vùng đặc thù về điều kiện phát triển và các nhân tố điều kiện đặc thù; thống

nhất khái niệm về đầu tư công và tăng trưởng kinh tế của vùng và cơ chế tác động của đầu

tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng, các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ tác động của

đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng. Nội dung quan trọng tiếp theo trong chương 2

là đề xuất mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu luận án bao gồm phương pháp

định tính và định lượng. Trong phương pháp định lượng, luận án sử dụng mô hình phân

tích nhân tố (EFA) và Hồi quy dữ liệu bảng theo dạng hàm Cobb- Douglas mở rộng. Các

kỹ thuật hồi quy dạng POOL, FEM, REM và GMM được áp dụng để ước lượng tác động

của đầu tư công đến sản lượng, xử lý vấn đề nội sinh và dữ liệu bảng động.

CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÙNG TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC

3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của Vùng

3.1.1. Đặc điểm tự nhiên của Vùng

66

Vùng Trung du và miền núi phía Bắc (TD&MNPB) bao gồm 14 tỉnh với tổng

diện tích toàn vùng khoảng 116.898 km², chiếm 35% diện tích tự nhiên của cả nước.

Về vị trí: Vùng TD&MNPB nằm ở phía Tây và Bắc của đất nước, là một địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh

và đối ngoại của cả nước; cửa ngõ phía Tây và phía Bắc của quốc gia. Vùng có đường

biên giới giáp Trung Quốc và Lào với chiều dài biên giới trên đất liền là 2139 km (chiếm

47% tổng chiều dài biên giới trên đất liền của Việt Nam), trong đó, đường biên giới với

Trung Quốc có chiều dài 1450 km, với Lào là 689 km. Điều này tạo nên một vị trí chiến

lược quan trọng của Vùng trong giao thương với nước ngoài cũng như trong việc bảo

vệ chủ quyền lãnh thổ.

Về địa hình: Vùng có địa hình phức tạp và đa dạng, chia cắt mạnh chủ yếu là đồi núi tạo nhiều thuận lợi cho phát triển khai thác thủy điện, gồm hai tiểu vùng: Đông Bắc

và Tây Bắc. Đây là khu vực núi non, đồi núi và cao nguyên phía Bắc Việt Nam, với độ

cao trung bình từ 500 đến 1.500 mét so với mực nước biển. Khu vực này bao gồm nhiều

dãy núi như dãy Hoàng Liên Sơn và các cao nguyên như cao nguyên Mộc Châu, cao

nguyên Bắc Hà, cao nguyên Điện Biên và cao nguyên Yên Bái. Bên cạnh các cao

nguyên, vùng cũng có nhiều thung lũng như thung lũng Lai Châu, Mường Thanh, Tây Bắc và Bắc Sơn, tạo nên tính đa dạng về địa hình của cùng. Các sông chủ yếu chảy theo

hướng Tây Bắc - Đông Nam, hình thành nên hệ thống sông lớn như sông Hồng, sông

Đà, sông Lô, sông Thương và sông Mã cùng nhiều hồ nước lớn như hồ Thác Bà, hồ Sơn

La, hồ Ba Bể.

Khí hậu: Khí hậu của vùng mang đặc điểm nhiệt đới ẩm gió mùa, chịu ảnh hưởng thêm địa hình vùng núi nên mùa đông lạnh, vì vậy vùng có thế mạnh đặc biệt để phát

triển cây công nghiệp có nguồn gốc cận nhiệt và ôn đới. Đây chính là vùng sản xuất

chè lớn nhất cả nước, với các loại chè nổi tiếng ở Phú Thọ, Thái Nguyên, Yên Bái, Hà

Giang, Sơn La. Ở các khu vực giáp biên giới của tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và núi cao

Hoàng Liên Sơn điều kiện khí hậu rất thuận lợi cho tròng cây dược liệu quý như tam

thất, đương quy, đỗ trọng, hồi, thảo quả..., các cây ăn quả như mận hậu, đào, lê...

67

Tuy nhiên, do có địa hình và khí hậu phức tạp, nên vùng TD&MNPB thường xảy

ra các hiện tượng thiên tai như sạt lở đất, lũ quét và động đất, ảnh hưởng bất lợi cho sản

xuất và đời sống.

Về tài nguyên, khoáng sản: vùng có nhiều tiềm năng cho phát triển kinh tế với nhiều loại tài nguyên, khoáng sản quý, hiếm bao gồm than, sắt, đồng, chì, đất hiếm

và nhiều loại khoáng sản khác. Với diện tích đồi rừng rộng lớn, cảnh quan thiên

nhiên hùng vĩ, tươi đẹp và nhiều di sản văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc

thiểu số vùng có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch và bảo vệ môi trường sinh thái

của cả vùng Bắc Bộ. Ngoài ra, khu vực này còn có đất đai phong phú, đa dạng về địa

hình, địa chất, thực vật và động vật. Tuy nhiên, do tác động của con người, vùng

TD&MNPB đang gặp phải nhiều vấn đề về môi trường như đất đai bị xói mòn, rừng

bị đốn hạ, động vật và thực vật bị cạn kiệt và ô nhiễm môi trường do việc khai thác

3.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của Vùng

3.1.2.1. Đặc điểm kinh tế

khoáng sản và sản xuất công nghiệp.

Vùng TD&MNPB luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo và hỗ trợ. Từ

năm 2004, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW và đến năm

2012 ban hành Kết luận số 26-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết nhằm đẩy mạnh

phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng TD&MNPB đến năm

2020. Triển khai thực hiện Nghị quyết, trong hơn một thập kỷ qua (2010-2022), Chính

phủ và các bộ, ngành đã dành một khối lượng vốn đầu tư lớn tạo nguồn lực để phát triển

kinh tế - xã hội các địa phương nói riêng và toàn vùng nói chung. Tuy nhiên, vùng TD&MNPB phải đối mặt với nhiều thách thức trong phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và

xã hội do địa hình phức tạp và chia cắt địa lý đáng kể nên kết quả phát triển kinh tế tuy

quan trọng nhưng vẫn còn khiêm tốn so với yêu cầu phát triển.

- Thu nhập (GRDP) và thu nhập bình quân đầu người (GRDP/người)

Tổng sản phẩm nội vùng đã liên tục tăng lên trong giai đoạn 2010-2022 từ

79.461,39 tỷ đồng lên 478.379 tỷ đồng (Giá cố định 2010), tăng hơn 6 lần. GRDP bình

quân đầu người tăng 5,16 lần từ 7,107 triệu đồng lên 36,73 triệu đồng. Một số tỉnh thuộc

vùng đã đạt được bước tiến đáng kể trong phát triển KT-XH (tăng trưởng cao, năm sau

cao hơn năm trước) như Bắc Giang, Thái Nguyên, Lào Cai, Lạng Sơn, Hòa Bình, Phú

Thọ, Sơn La. Tuy nhiên, thu nhập bình quân đầu người của vùng vẫn ở mức thấp nhất

cả nước, chỉ đạt khoảng 63% so với mức bình quân cả nước. Trong đó 5 tỉnh gồm Hà

Giang, Cao Bằng, Điện Biên, Bắc Kạn, Yên Bái là những tỉnh có thu nhập bình quân

68

đầu người giai đoạn 2011-2022 thấp nhất cả nước. Các tỉnh Lai Châu, Sơn La cũng

0 8 6

.

.

9 2 2 0 0 1

.

.

3 0 7 7 4 0 6 7

.

.

.

.

.

.

.

9 9 9 8 9 3 0 4

.

3 7 5 8 6 1 7 3

8 4 8 2 3 7 6 3

3 9 6 9 7 2 3 3

Đ Ồ N G B Ằ N G S Ô N G H Ồ N G

T Â Y N G U Y Ê N Đ Ô N G N A M B Ộ Đ Ồ N G B Ằ N G S Ô N G C Ử U L O N G

B Ắ C T R U N G B Ộ V À D U Y Ê N H Ả I M I Ề N T R U N G

T R U N G D U V À M I Ề N N Ú I P H Í A B Ắ C

thường xuyên nằm trong 10 tỉnh có GRDP bình quân đầu người thấp nhất cả nước.

Biểu đồ 3.1. GRDP bình quân đầu người các vùng năm 2022 (đồng)

GRDP/người năm 2022 (triệu đồng)

112,421

120,000

100,000

88,191

82,435

77,318

80,000

49,664

58,935

51,766

60,000

51,723

49,618

47,465

46,282

39,836

39,689

34,246

40,000

20,000

0,000

Nguồn: Tác giả tính toán từ NGTK các tỉnh

Biểu đồ 3.2. Thu nhập bình quân đầu người các tỉnh vùng TD&MNPB

Nguồn: Tác giả tính toán từ NGTK cả nước và các tỉnh/TP

- Cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế của vùng đã có sự chuyển dịch đúng hướng, tuy

nhiên còn chậm. Tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 29,79 % (năm 2010) xuống còn 21,46%

(năm 2022); Tương ứng ngành công nghiệp tăng từ 26,07% lên 33,37%; Dịch vụ tăng

69

chậm từ 37,91% lên 40,1% năm 2022; Tỷ trọng thuế giảm từ 6,24% năm 2010 xuống

5,07% năm 2022. So với cơ cấu kinh tế của cả nước cùng thời kỳ (tỷ trọng Nông nghiệp-

12%; Công nghiệp- 38,17%; Dịch vụ 41,32% và thuế 8,55%), cơ cấu kinh tế của vùng

còn lạc hậu hơn nhiều, đặc biệt chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp và dịch vụ còn

rất chậm, chưa tương xứng với tiềm năng của vùng.

- Cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng của vùng nhìn chung còn lạc hậu. Điều này được thể

hiện trên bảng xếp hạng cơ sở hạ tầng của cả nước. Hầu hết các tỉnh, thành phố của vùng

đứng ở vị trí thấp, sau thứ hạng 45/63 tỉnh/thành, thậm chí nhiều tỉnh chiếm vị trí cuối bảng

như Cao Bằng và Điện Biên. Chỉ một số ít tỉnh như Bắc Giang và Thái Nguyên có thứ hạng

cao trong bảng xếp hạng lần lượt đứng vị trí thứ 10 và 12. Có 3 tỉnh như Phú Thọ, Lào Cai và Hà Giang đứng trong tốp 40 trên 63 tỉnh thành trong cả nước (Bảng 3.1- Phần phụ lục).

- Năng lực cạnh tranh: Nhìn chung năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của các địa phương

trong Vùng đạt thấp. Năm 2022, chỉ có 5/14 tỉnh có thứ hạng nằm trong tốp 30 của cả nước,

trong khi đó có tới 8 tỉnh nằm ngoài tốp 40 của cả nước. Đặc biệt, có 2 tỉnh là Điện Biên và

Cao Bằng lần lượt đứng ở cuối bảng xếp hạng cả nước (Xem biểu đồ 3.3). Qua đó chứng

tỏ chất lượng điều hành kinh tế, mức độ thuận lợi, thân thiện của môi trường kinh doanh và

nỗ lực cải cách hành chính của chính quyền các tỉnh/thành phố trong Vùng còn nhiều hạn

Xếp hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2022

80,00

63

53

62

57

70,00 60,00

52

51

50,00

49

42

40,00

35

30,00

25

24

20,00

15

11

10,00

2

0,00

Điểm số

Thứ hạng

chế, chưa tạo được động lực thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển.

Biểu đồ 3.3. Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Vùng TD&MNPB

Nguồn: VCCI

- Thu ngân sách: Năm 2022, thu ngân sách nhà nước của vùng đạt 72.386 tỷ đồng.

Tính bình quân giai đoạn 2017 - 2022, tỷ lệ tăng thu NSNN của vùng đạt 13,1%/năm.

70

thứ hạng thấp trong cả nước.

Mặc dù vậy quy mô thu ngân sách còn hạn chế, cần hỗ trợ nhiều từ ngân sách Trung ương. Trong vùng, chỉ có 2 tỉnh đạt quy mô huy động ngân sách cao, lọt vào tốp 10 địa phương thu ngân sách lớn nhất khu vực miền Bắc năm 2022, cụ thể Thái Nguyên thu đạt 18.540 tỷ đồng và Bắc Giang đạt 18.175 tỷ đồng. Các tỉnh còn lại có quy mô thu ngân sách nhỏ, xếp

- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: Theo báo cáo của Bộ KH&ĐT, năm 2022

trong 6 vùng kinh tế thì Vùng TD&MNPB xếp thứ 3, chỉ sau vùng Đông Nam bộ và Đồng bằng Sông Hồng. Tuy nhiên vốn FDI thu hút chủ yếu tập trung vào hai tỉnh Thái Nguyên

và Bắc Giang. Đặc biệt một số tỉnh miền núi còn chưa đủ hấp dẫn với nhà đầu tư nước

ngoài, với ít hơn 5 dự án lũy tiến như Điện Biên, Lai Châu, Bắc Kạn và Cao Bằng...

- Xuất nhập khẩu: Đại đa số các tỉnh trong vùng có kim ngạch xuất khẩu thấp,

thậm chí thấp nhất trong cả nước lần lượt là Lai Châu, Sơn La, Bắc Kạn, Điện Biên,

Ninh Thuận, Cao Bằng và Hà Giang. Chỉ có 3 tỉnh có kim ngạch xuất khẩu cao hàng

năm là Thái Nguyên, Bắc Giang và Phú Thọ.

- Tỷ lệ đô thị hóa: So với các vùng khác, tỷ lệ đô thị hóa của vùng TD&MNPB

thấp nhất trong cả nước. Theo Bộ Xây dựng, năm 2022 tỷ lệ đô thị hóa trung bình của

cả nước ước đạt 41,7%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ của các tỉnh vùng TD&MNPB. Ngoài

Thái Nguyên, có tỷ lệ đô thị hóa xấp xỉ bằng mức trung bình cả nước (40,7%) thì các

Tỷ lệ đô thị hóa (%)

45

40,73

40

35

30

26,5

25,5

25,43

24,31

23,07

25

20,85

19,5 19,34

17,69

20

15,95

15,2

13,98

13,88

15

10

5

0

tỉnh khác tỷ lệ đô thị hóa chỉ dao động trong khoảng 13-25%.

Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ đô thị hóa của vùng TD&MNPB năm 2022

Nguồn: Báo cáo của Bộ Xây dựng

3.1.2.2. Đặc điểm về xã hội

71

- Dân số, lao động và việc làm: Theo số liệu của năm 2022, dân số của vùng là

13,023 triệu người, chiếm 13,09% dân số Việt Nam. Mật độ dân số của vùng thấp hơn

nhiều so với trung bình cả nước, với 137 người/km2 so với 300 người/km2 của trung

bình cả nước. Đây cũng là 1 trong 2 vùng (cùng với Tây Nguyên) có mật độ dân số thấp

nhất cả nước. Mật độ dân số của các tỉnh như Lai Châu, Điện Biên, Bắc Kạn đặc biệt

thấp, lần lượt là 53 người/km2, 67 người/km2 và 67 người/km2, Vùng có 3 trên 4 tỉnh

có mật độ dân số thấp nhất cả nước. Về lao động và việc làm, theo số liệu điều tra lao

động việc làm năm 2021 của Tổng cục Thống kê, trong 6 vùng kinh tế - xã hội, Đồng

bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ là 3 vùng

chiếm tỷ trọng lao động có việc làm lớn nhất cả nước, tương ứng lần lượt là 22,6%,

20,7% và 19,6%. Vùng TD&MNPB cùng với Tây Nguyên là 2 vùng có tỷ lệ lao động

có việc làm thấp nhất lần lượt là 11,6% và 7,0%. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động

trong dân số cao nhất là ở vùng Tây Nguyên (81,2%) và thấp nhất ở vùng Trung du và

miền núi phía Bắc (63,1%). Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của Vùng TD&MNPB

(25,9%) được xếp vào loại trung bình trong cả nước, tương đương với vùng Bắc Trung

bộ và Duyên hải miền trung, cao hơn vùng Tây Nguyên (16,5%) và Đồng bằng Sông

Cửu Long (14,6%). Về cơ cấu việc làm theo khu vực, ở vùng TD&MNPB, tỷ lệ lao động

làm việc trong khu vực nông nghiệp này là 42,7%, cao thứ hai sau vùng Tây Nguyên

(69,7%). Trong khi đó, ở các khu vực kinh tế phát triển như: vùng Đồng bằng sông Hồng

và Đông Nam Bộ, tỷ lệ tương ứng là 13,6% và 10,3%.

- Dân tộc: Vùng TD&MNPB là nơi cư trú của hơn 30 dân tộc ít người như người

Thái, Mông, Dao, Tày, Nùng, và H'Mông. Mỗi dân tộc có ngôn ngữ, trang phục, và

phong tục tập quán riêng, tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng và phong phú.

- Mức sống và giảm nghèo: Đời sống nhân dân tại một số khu vực vùng sâu, vùng

xa còn gặp nhiều khó khăn; tỉ lệ hộ nghèo bình quân năm 2022 của vùng là 17,4%, cao

hơn tỉ lệ bình quân của cả nước là 5,2%; tỉ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới bình quân

của vùng năm 2022 đạt khoảng 43,6% (trung bình cả nước là 72%). Điện Biên, Lai

Châu, Hà Giang là 3 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước (trên 30% vào năm 2022).

Vấn đề bất bình đẳng thu nhập và nghèo đói của vùng đang trở thành một trong những

thách thức lớn cần được giải quyết.

Tuổi thọ trung bình của vùng năm 2022 là 71,2 tuổi thấp hơn trung bình cả nước

là 73,7 và chỉ cao hơn con số này của vùng Tây Nguyên là 71,1 tuổi. Mặc dù tỷ lệ chết

của trẻ em 5 tuổi và 1 tuổi ở vùng đã giảm đáng kể trong những năm gần đây, tuy nhiên

72

vẫn còn khá cao so với cả nước. Theo số liệu của năm 2022, tỷ lệ chết của trẻ em 5 tuổi

là 27,73%, cao hơn tỷ lệ của cả nước là 18,93%. Tỷ lệ chết của trẻ em 1 tuổi là 17,12%,

cũng cao hơn so với tỷ lệ của cả nước là 12,09%.

Tỷ lệ dân số biết chữ năm 2022 của vùng là 91,42% so với mặt bằng chung của

cả nước là 96,13%. Đặc biệt Lai Châu, Hà Giang, Điện Biên là 3 tỉnh có tỷ lệ dân số

biết chữ thấp nhất cả nước. Học sinh phổ thông thuộc các dân tộc thiểu số của vùng tính

đến 30/9/2022 chiếm tới 52,3% tổng số học sinh phổ thông thuộc các dân tộc thiểu số

3.1.3. Nhận xét chung về đặc điểm kinh tế - xã hội của Vùng

trên cả nước.

Từ sự phân tích về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội trên đây có thể rút ra các

kết luận sau đây đối với vùng TD&MNPB:

- Về điều kiện tự nhiên: Là vùng có diện tích lớn nhất trong 6 vùng của cả

nước nhưng địa hình bao gồm chủ yếu là núi cao và trung bình, chia cắt và hiểm trở nhất cả nước. Điều này dẫn đến suất đầu tư cao, hiệu quả đầu tư thấp. Điều kiện khí

hậu khá khắc nghiệt, mùa hè gió mùa Tây Nam nóng khô, mưa nhiều, mùa đông gió

mùa Đông Bắc lạnh, khô, ít mưa. Chế độ gió tạo ra thời tiết có phần khắc nghiệt, gây

khô nóng, hạn hán, sương muối trở ngại cho sản xuất và sinh hoạt, đồng thời gây lũ

ống, lũ quét vào mùa mưa tác động xấu đến đời sống và chất lượng các công trình

xây dựng. Với dự trữ tài nguyên phong phú nhất cả nước nhưng còn ở dạng tiềm

năng do chưa có điều kiện khai thác, vùng được kỳ vọng có nhiều bứt phá về phát

triển trong tương lai.

- Về trình độ phát triển kinh tế: Mặc dù tăng trưởng kinh tế của vùng trong thời

gian qua có sự khởi sắc nhưng chưa bền vững, thực tế hiện nay khu vực này vẫn là vùng

nghèo và khó khăn nhất của cả nước do xuất phát điểm thấp. Quy mô kinh tế vùng nhỏ,

cơ cấu kinh tế lạc hậu, chuyển dịch chậm; phát triển của các địa phương trong vùng chưa

đồng đều, hầu hết các sản phẩm công nghiệp chế biến vẫn ở dạng chế biến thô và gia

công, năng suất lao động của vùng vẫn thấp nhất trong cả nước ... Tiềm năng, lợi thế

của vùng vẫn chưa được khai thác hợp lý và phát huy hiệu quả. Khoảng cách về trình

độ phát triển và thu nhập bình quân đầu người trong nội vùng so với bình quân chung

của cả nước tiếp tục gia tăng. Các địa phương trong vùng đều chưa cân đối được ngân

sách. Hoạt động hợp tác, kết nối với các địa phương ngoài vùng, với các tỉnh của Lào

và Trung Quốc còn hạn chế.

- Về mặt văn hóa - xã hội và truyền thống: Là vùng có tỷ lệ đồng bào dân tộc ít

người cao nhất cả nước, với trình độ văn hóa thấp, phong tục còn lạc hậu phần nào ảnh

73

hưởng đến phát triển theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, vùng mang nhiều giá trị văn hóa

truyền thống, là “cái nôi” của cách mạng, là nơi cội nguồn của dân tộc và có giá trị lịch

sử đặc biệt quan trọng của của đất nước.

- Về an ninh quốc phòng: Vùng có vị trí chiến lược trong giao thương với nước

ngoài, đồng thời trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của đất nước.

- Về mặt môi trường: Do đặc điểm địa hình chủ yếu là rừng núi nên vùng được

xem như lá phổi xanh của lãnh thổ phía bắc của đất nước, có vai trò đặc biệt quan trọng

trong việc bảo vệ môi trường. Tuy nhiên cần được đầu tư xứng đáng để duy trì và bảo

vệ môi trường sinh thái đang có nguy cơ bị hủy hoại.

Các đặc điểm trên đây, đối chiếu với lý thuyết về tính đặc thù về điều kiện phát

triển đã trình bày cho phép đi đến nhận định chung là: Vùng TD&MNPB là vùng đặc thù

về điều kiện phát triển, là vùng có nhiều khó khăn mang tính chất toàn diện trong phát triển

cần được xem xét để có cơ chế đặc thù trong phát triển nói chung và trong đầu tư công nói

riêng, nhằm giúp Vùng từng bước tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho vùng phát triển, giảm

3.2. Thực trạng đầu tư công

3.2.1. Về quy mô vốn đầu tư công

dần khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển so với các vùng trong cả nước.

Từ Bảng 3.2a (Phụ lục 1) cho thấy, giai đoạn 2010-2015 quy mô vốn đầu tư công của Vùng gần như không tăng trong khi Tổng vốn đầu tư xã hội tăng trung bình

12,3%/năm. Sang giai đoạn 2016 -2022, sau khi Luật đầu tư công 2014 ra đời, quy

mô vốn ĐTC tăng nhanh hơn, trung bình hàng năm 9,18%, trong khi Tổng vốn đầu

tư chỉ tăng 6,9%.

Trong giai đoạn 2010-2022, đầu tư công hàng năm của Vùng chiếm từ 10-13%

trong tổng vốn ĐTC của cả nước. So với vùng Đồng bằng Sông Hồng, tốc độ tăng vốn

đầu tư công giai đoạn 2016-2022 cao hơn (9,18% so với 2,54%).

Như vậy, nếu so sánh hai giai đoạn sẽ nhận thấy, ở giai đoạn 2016-2022, Vốn

đầu tư khu vực ngoài nhà nước đã tăng chậm lại, chỉ cao hơn tốc độ tăng của Tổng đầu

tư chút ít. Điều này có thể lý giải với 2 lý do: một là, đầu tư của khu vực tư nhân đã bị

giới hạn, hai là vốn nhà nước ở giai đoạn 2011-2015 đã không phát huy được động lực

thúc đẩy đầu tư tư nhân ở giai đoạn sau 2016-2022. Ngoài ra, có thể nhận định rằng,

vốn đầu tư công của vùng chưa thực sự trở thành vốn mồi để thu hút vốn của khu vực

ngoài nhà nước, trong khi nỗ lực tăng vốn nhà nước đã được thực hiện trong giai đoạn

2016-2022.

74

3.2.2. Về cơ cấu vốn đầu tư công

Theo Luật Đầu tư công năm 2014, Vốn đầu tư công gồm: vốn ngân sách nhà

nước, vốn công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa

phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ

nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn từ nguồn thu để lại cho

đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước, các khoản vốn vay khác của

ngân sách địa phương để đầu tư. Nói gọn lại, vốn đầu tư công bao gồm vốn ngân sách

nhà nước, vốn vay và vốn khác.

Cơ cấu nguồn vốn trong Vốn ĐTC vùng TD&MNPB

90,00

80,00

70,00

60,00

50,00

40,00

30,00

20,00

10,00

0,00

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

NSNN

Vonvay

Khac

Biểu đồ 3.5. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư nhà nước vùng TD&MNPB (%)

Nguồn: TCTK và niên giám thống kê các địa phương

Qua bảng 3.2b (Phụ lục 1), cho thấy tỷ lệ vốn nhà nước trong đầu tư của vùng đã giảm mạnh, từ 50,83% năm 2010 xuống 24,8 % năm 2015 và đạt 28,9% năm 2022. Tỷ trọng vốn đầu tư bình quân khu vực nhà nước trong tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn 2010-2015 là 39,42% cao hơn mức trung bình cả nước cùng thời kỳ là 38,75%. Giai

đoạn 2016-2022, tỷ trọng vốn đầu tư bình quân khu vực nhà nước trong tổng vốn đầu tư xã hội giảm xuống còn 27,12%, cao chỉ sau vùng Đồng bằng sông Cửu Long và cao hơn mức trung bình của cả nước (Bảng 3.1). Theo đó, tỷ trọng nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước đã tăng lên, đầu tư trực tiếp nước ngoài có phần khởi sắc, đặc biệt tập trung vào

các địa phương như Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ và Lào Cai. Tuy nhiên, tỷ trọng vốn Ngân sách nhà nước trên Vốn Nhà nước của Vùng TD&MNPB còn khá cao, giai

75

đoạn 2010-2015 là 68,44% (cao hơn mức trung bình cả nước cùng kỳ là 48,05%) và giai

đoạn 2016-2020 tương đương là 68,48%. Có thể thấy, đây là dấu hiệu không tích cực,

thể hiện, vốn đầu tư của Vùng vẫn phụ thuộc nhiều vào vốn Nhà nước và đặc biệt là

Vốn NSNN.

Bảng 3.1. Tỷ lệ vốn nhà nước trên tổng vốn ĐT của các vùng (2016-2022)

Đơn vị: % tính trên giá hiện hành

TB & TD& TN ĐBSH Năm ĐNB ĐBSCL Cả nước DHMT MNPB

2016 25,48 31,71 28,23 27,39 19,54 32,51 27,49

2017 24,63 26,38 27,24 23,95 15,98 28,55 23,91

2018 27,56 25,39 25,60 25,63 14,71 25,76 22,90

2019 27,33 24,18 24,35 22,22 14,37 24,75 21,99

2020 28,86 25,56 26,69 23,58 17,65 28,34 24,36

2021 27,10 24,43 25,52 22,61 16,34 26,57 23,15

2022 28,90 23,56 24,72 22,15 16,44 26,32 23,55

23,91 2016-2022 27,12 25,89 26,05 23,93 16,43 27,54

Nguồn: Niên giám TK các năm của cả nước và các địa phương

Đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP) thời gian qua chưa được triển khai đáng kể do những vướng mắc về mặt thể chế. Từ năm 2020, Luật đầu tư theo hình thức

đối tác công tư ra đời, các dự án theo hình thức PPP đã bước đầu có chuyển động tại

vùng. Tiêu biểu như các dự án sau đây:

- Dự án đầu tư xây dựng tuyến cao tốc Bắc Giang - TP. Lạng Sơn đoạn

Km45+100 - Km108+500, kết hợp tăng cường mặt đường QL1 đoạn Km1+800 -

Km106+500 tỉnh Bắc Giang và tỉnh Lạng Sơn được thực hiện bằng hợp đồng BOT. Về

hợp phần cao tốc, với tổng chiều dài tuyến cao tốc 64,9km đã thông xe kỹ thuật ngày

30/9/2019, chính thức đưa vào khai thác từ 15/01/2020, thu phí từ 18/02/2020. Về hợp

phần QL1, điểm đầu tại Km1+800, khu vực cửa khẩu Hữu Nghị, Lạng Sơn; điểm cuối

tại Km112+038,84 (lý trình QL1), thuộc xã Tân Dĩnh, Bắc Giang với tổng chiều dài

toàn tuyến 110,2km đã hoàn thành, đưa vào sử dụng và thu phí từ 01/6/2018.

- Dự án đầu tư xây dựng tuyến cao tốc Đồng Đăng (tỉnh Lạng Sơn) - Trà Lĩnh

(tỉnh Cao Bằng) theo hình thức BOT với tổng chiều dài tuyến 121 km; giai đoạn 1 đầu

tư khoảng 93km. Dự án đã khởi công ngày 01/01/2024 và dự kiến hoàn thành giai đoạn

1 trong năm 2025.

76

- Trong khi đó, dự án đầu tư xây dựng cảng hàng không Sa Pa, tỉnh Lào Cai theo

hình thức BOT với tổng vốn đầu tư là 4.208 tỷ đồng đã hoàn thành công tác giải phóng

mặt bằng giai đoạn 1. Tuy nhiên, hiện chưa lựa chọn được nhà đầu tư, tỉnh Lào Cai đang

điều chỉnh chủ trương đầu tư để tăng vốn NSNN tham gia vào dự án.

Trong việc thu hút các nguồn xã hội hóa (PPP) ở vùng Trung du và miền núi

phía Bắc còn tồn tại nhiều hạn chế. Mặc dù PPP được coi là một giải pháp tài chính

tiên tiến, nhưng vẫn chưa được áp dụng rộng rãi ở khu vực này do nhu cầu về dự án

đầu tư công vẫn còn thấp.

Nguyên nhân nổi bật là sự khác biệt về địa hình và điều kiện kinh tế-xã hội giữa

khu vực Trung du và miền núi phía Bắc so với các vùng kinh tế trọng điểm khác của đất

nước. Do đó, các nhà đầu tư cả ở trong và ngoài nước có thể không quan tâm đến việc

đầu tư vào các dự án ở khu vực này do rủi ro đầu tư cao hơn, khả năng sinh lời thấp hơn

và việc đòi hỏi sự quản lý và vận hành dự án khó khăn hơn. Ngoài ra, còn tồn tại những

vấn đề trong quá trình thu hút các nguồn xã hội hóa, bao gồm việc thiếu kinh nghiệm

trong việc lập kế hoạch, thiếu thông tin đầy đủ và chính xác về các dự án đầu tư công,

thiếu cơ chế quản lý và điều hành hiệu quả giữa các bên liên quan và thiếu tài nguyên

chuyên môn để thực hiện các dự án đầu tư công dựa trên mô hình PPP.

Về cơ cấu đầu tư theo lĩnh vực, giai đoạn 2016-2020 đã có sự chuyển địch cơ

cấu đầu tư công so với giai đoạn trước. Cơ cấu đầu tư công đã có những chuyển biến

tích cực theo hướng tập trung hơn vào việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, góp

phần cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, liên kết các vùng

miền. NSNN đã tập trung nhiều hơn cho đầu tư phát triển con người, nâng cao trình

độ của người lao động. Cụ thể, trong tổng mức đầu tư phát triển từ ngân sách nhà

nước, đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng chiếm một tỷ lệ khá lớn. Bình quân chiếm

3.2.3. Kết quả đầu tư công

trên 76% tổng chi đầu tư phát triển từ NSNN.

Thời gian qua, các tỉnh trong vùng đã chú trọng nâng cao hiệu quả quản lý và sử

dụng các nguồn vốn đầu tư Nhà nước, thu hút nguồn vốn của các thành phần kinh tế

trong nước và nước ngoài bảo đảm nguồn lực cho phát triển. Môi trường đầu tư và kinh

doanh tiếp tục được cải thiện tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.

Trong thời gian qua, vốn ĐTC đã được đầu tư cho các Chương trình mục tiêu

quốc gia, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt dành tỷ lệ thích đáng cho

đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông và đạt được kết quả đáng khích lệ.

77

- Về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng:

Đến nay, trên địa bàn khu vực đã hoàn thành tuyến cao tốc Nội Bài - Lào Cai,

cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên; tuyến đường Thái Nguyên - Chợ Mới; tuyến đường Hòa

Lạc - Hòa Bình, cao tốc Hà Nội - Bắc Giang. Hiện tuyến cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn

đã hoàn thành và đang chuẩn bị triển khai tuyến cao tốc TP.Lạng Sơn - cửa khẩu Hữu

Nghị (dự kiến hoàn thành 2021). Về hệ thống quốc lộ, trong vùng có 6.971 km quốc lộ

cơ bản đã được nâng cấp, hỗ trợ liên kết Hà Nội với các tỉnh, thành trong vùng, giảm

chênh lệch giữa các địa phương, hình thành các hành lang phát triển kinh tế trong vùng.

Về đường sắt, hiện có 5 tuyến đường sắt quốc gia, tổng chiều dài 669km, trong đó có 2

tuyến đường sắt liên vận quốc tế Hà Nội - Đồng Đăng và Hà Nội - Lào Cai. Tuy nhiên,

việc huy động được nguồn vốn xây mới tuyến đường sắt khổ 1.435 mm Hà Nội - Đồng

Đăng và nối ray ga Lào Cai - Hà Khẩu Bắc chưa thực hiện được. Mặc dù hệ thống giao

thông vận tải đã được đầu tư đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển của vùng, tuy nhiên so

với yêu cầu đặt ra cần duy trì nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội vùng trung du và miền

núi Bắc Bộ cao hơn nhịp độ phát triển chung của cả nước, phát huy toàn bộ các tiềm

năng của vùng thì kết cấu hạ tầng giao thông còn cần tiếp tục đầu tư một số tuyến đường

kết nối các tỉnh với các tuyến đường cao tốc, các tuyến đường vành đai, đường đến cửa

khẩu, đường tuần tra biên giới. Tuy nhiên khó khăn vẫn là nguồn lực đầu tư hạn hẹp,

nguồn vốn ngân sách hàng năm chỉ đủ cân đối bố trí cho các dự án ODA. Mặt khác, do

điều kiện địa hình khu vực núi cao, bị chia cắt nhiều, điều kiện thủy văn phức tạp nên

suất đầu tư xây dựng các công trình giao thông lớn.

Trong thời gian vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ưu tiên bố trí nguồn lực đầu tư

các dự án cao tốc, quy mô lớn của vùng góp phần thay đổi bộ mặt kết cấu hạ tầng của

vùng, cụ thể một số dự án đã hoàn thành và đang tích cực triển khai như:

- Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Tuyên Quang - Phú Thọ kết nối với cao

tốc Nội Bài - Lào Cai đã cơ bản hoàn thành, đưa vào khai thác vào ngày 24/12/2023 đưa

năng lực tăng thêm khoảng 40km đường cao tốc với quy mô 4 làn từ đó kết nối với cao

tốc Tuyên Quang - Hà Giang.

- Dự án cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang giai đoạn 1 có chiều dài 104 km, quy

mô đầu tư 2 làn hạn chế, giải phóng mặt bằng với quy mô 4 làn xe với tổng mức đầu tư

giai đoạn 1 là hơn 9.000 tỷ đồng đã được khởi công từ tháng 5/2023 và dự kiến hoàn

thành trong năm 2025.

Trong nông nghiệp, vốn đầu tư công đã dành cho xây dựng kết cấu hạ tầng nông

nghiệp của vùng với tổng kinh phí là 18.235 tỷ đồng giai đoạn 2004 -2019, góp phần

78

nâng cấp và hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông nghiệp cho vùng đã giúp cấp nước ổn định

và đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp của người dân. Sản xuất nông nghiệp đã có bước

chuyển đổi tích cực sang sản xuất hàng hóa, thâm canh, nâng cao năng suất, chất lượng.

Từ giai đoan 2004 đến 2018, tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp của vùng

đạt bình quân 4,87%/năm, so với 4,6%/năm của cả nước. Vùng đã có sự phát triển rất

ấn tượng làm thay đổi bộ mặt nông thôn, tạo ra bức tranh rõ nét trong chuyển đổi cơ cấu

kinh tế nông nghiệp.

Đầu tư công góp phần phát triển thị trường lao động, giải quyết việc làm. Giai

đoạn 2006 - 2018, giải quyết việc làm cho 2,174 triệu lao động, 6 tháng đầu năm 2019,

giải quyết cho 710.000 lao động. Hoạt động vay vốn tạo việc làm từ quỹ Quốc gia về

việc làm tiếp tục góp phần quan trọng hỗ trợ tạo và tự tạo việc làm cho người lao động.

Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp được phát triển, giai đoạn 2014 đến nay, vùng

TD&MNPB có 301 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, chiếm 16% số cơ sở giáo dục nghề

nghiệp cả nước. Trong đó, có 04 trường đã được lựa chọn để ưu tiên hỗ trợ đầu tư tập

trung, đồng bộ theo tiêu chí của trường nghề chất lượng cao vào năm 2020.

Đáng chú ý, công tác giảm nghèo, an sinh xã hội được thực hiện tốt. Giai đoạn

từ 2005 - 2020 ngân sách trung ương bố trí cho các tỉnh miền núi phía bắc với tổng số

kinh phí 46.692,756 tỷ đồng (chiếm 59,36% tổng kinh phí trong Chương trình). Từ

nguồn lực đầu tư của Nhà nước thông qua các chính sách và chương trình giảm nghèo,

người nghèo đã tiếp cận thuận tiện hơn các chính sách trợ giúp của nhà nước; đời sống

của người nghèo được từng bước cải thiện, an sinh xã hội, trật tự an toàn xã hội được

giữ vững. Tỷ lệ nghèo các tỉnh vùng trung du miền núi phía Bắc giảm nhanh, từ 38,72%

(2005) xuống còn 31,38% (2010); 25,77% (2015) và 15,82% (2018). Tỷ lệ nghèo ở các

huyện nghèo giảm bình quân 5,5%/năm, các xã nghèo giảm bình quân từ 3-4%/năm (Bộ

LĐ-TB&XH, 2019).

Sau 9 năm triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới,

các địa phương vùng TD&MNPB vẫn gặp nhiều khó khăn, thách thức hơn các vùng

khác. Đến hết tháng 6/2019, đã có 603/2.280 xã (26,45%) được công nhận đạt chuẩn

nông thôn mới (tăng 18,34% so với cuối năm 2015, mức độ tăng thấp hơn so với bình

3.2.4. Hiệu quả đầu tư công

quân cả nước là 32,79%), thấp hơn so với mức đạt chuẩn của cả nước (50,26%).

Để đánh giá hiệu quả đầu tư công của Vùng có thể sử dụng hệ số ICOR trong

đầu tư vốn nhà nước, nhưng do không có số liệu về sản lượng tạo ra từ nguồn vốn

79

nhà nước nên có thể sử dụng phương pháp đánh giá gián tiếp thông qua hệ số ICOR

tính trên tổng đầu tư xã hội. Từ dữ liệu có được, NCS đã tính toán hệ số ICOR của

vùng TD&MNPB và 5 vùng còn lại cùng cả nước để so sánh, thể hiện trên Bảng 3.3

(Phụ lục 1).

Qua Bảng 3.3 (Phụ lục 1) cho thấy, trong 2 giai đoạn 2011-2015 và 2016 -

2020, hệ số ICOR của vùng là cao nhất, nhì trong 6 vùng của cả nước. Điều đó cho

thấy, hiệu quả vốn đầu tư tại vùng TD&MNPB trong suốt thời kỳ 2011-2020 là rất

thấp. Tuy nhiên tới giai đoạn 2021-2022, hệ số ICOR của vùng đã giảm nhiều và trở

thành vùng có ICOR thấp nhất cả nước. Điều này có thể được giải thích là do một số

tỉnh trong vùng như Bắc Giang, Thái Nguyên, Lào Cai, Phú Thọ đã đạt được tăng

trưởng cao trong những năm gần đây nhờ phát huy hiệu quả đầu tư và ít chịu ảnh

hưởng tiêu cực hậu đại dịch Covid-2019.

Ngoài phương pháp đánh giá theo hệ số ICOR, có thể sử dụng hệ số tỷ lệ giữa

suất đầu tư tạo ra một đơn vị sản lượng của vùng so với trung bình cả nước để đánh giá

và so sánh giữa các vùng. Phương pháp đánh giá như sau:

Gọi Sj là suất đầu tư trung bình để tạo ra một đơn vị sản lượng của vùng j (j=1;6)

ta có:

(cid:3023)(cid:48)(cid:3021)(cid:3285) (cid:1845)(cid:3037)(cid:3) (cid:3404) (cid:3) lượng của vùng j. (cid:3008)(cid:3019)(cid:3005)(cid:3017)(cid:3285)

, trong đó: VĐTj là vốn đầu tư trong năm của vùng j; GRDPj là sản

(cid:3021)(cid:3023)(cid:48)(cid:3021)

Tương tự gọi S là suất đầu tư của nền kinh tế: , trong đó TVĐT là

(cid:3008)(cid:3005)(cid:3017)

tổng vốn đầu tư của nền kinh tế và GDP là sản lượng của nền kinh tế. (cid:1845) (cid:3404) (cid:3)

Nếu gọi Tj là tỷ lệ giữa suất vốn đầu tư vùng j với suất vốn đầu tư của nền kinh

tế, khi đó có:

(cid:3020)(cid:3285)

(cid:3020)

(với j= 1;6)

(cid:1846)(cid:3037) (cid:3404) (cid:3) Tj có ý nghĩa như sau:

(cid:3)(cid:4688)

(cid:3407) (cid:883)(cid:483) (cid:48)(cid:4793)(cid:1873)(cid:3)(cid:1872)(cid:4827)(cid:3)(cid:1874)(cid:238)(cid:1866)(cid:1859)(cid:3)(cid:1862)(cid:3)(cid:1855)(cid:215)(cid:3)(cid:1860)(cid:1861)(cid:4809)(cid:1873)(cid:3)(cid:1869)(cid:1873)(cid:4791)(cid:3)(cid:1860)(cid:4819)(cid:1866)(cid:3)(cid:1860)(cid:1861)(cid:4809)(cid:1873)(cid:3)(cid:1869)(cid:1873)(cid:4791)(cid:3)(cid:1872)(cid:1870)(cid:1873)(cid:1866)(cid:1859)(cid:3)(cid:1854)(cid:191)(cid:1866)(cid:1860)(cid:3)(cid:1855)(cid:4791)(cid:3)(cid:1866)(cid:4827)(cid:4820)(cid:1855)(cid:482) (cid:3404) (cid:883)(cid:483) (cid:48)(cid:4793)(cid:1873)(cid:3)(cid:1872)(cid:4827)(cid:3)(cid:1855)(cid:4826)(cid:1853)(cid:3)(cid:1874)(cid:238)(cid:1866)(cid:1859)(cid:3)(cid:1862)(cid:3)(cid:1855)(cid:215)(cid:3)(cid:1860)(cid:1861)(cid:4809)(cid:1873)(cid:3)(cid:1869)(cid:1873)(cid:4791)(cid:3)(cid:1854)(cid:4798)(cid:1866)(cid:1859)(cid:3)(cid:1860)(cid:1861)(cid:4809)(cid:1873)(cid:3)(cid:1869)(cid:1873)(cid:4791)(cid:3)(cid:175)(cid:4793)(cid:1873)(cid:3)(cid:1872)(cid:4827)(cid:3)(cid:1855)(cid:4791)(cid:3)(cid:1866)(cid:4827)(cid:4820)(cid:1855) (cid:3408) (cid:883)(cid:483) (cid:48)(cid:4793)(cid:1873)(cid:3)(cid:1872)(cid:4827)(cid:3)(cid:1855)(cid:4826)(cid:1853)(cid:3)(cid:1874)(cid:238)(cid:1866)(cid:1859)(cid:3)(cid:1862)(cid:3)(cid:3)(cid:1860)(cid:1861)(cid:4809)(cid:1873)(cid:3)(cid:1869)(cid:1873)(cid:4791)(cid:3)(cid:1872)(cid:1860)(cid:4792)(cid:1868)(cid:3)(cid:1860)(cid:4819)(cid:1866)(cid:3)(cid:1860)(cid:1861)(cid:4809)(cid:1873)(cid:3)(cid:1869)(cid:1873)(cid:4791)(cid:3)(cid:1855)(cid:4826)(cid:1853)(cid:3)(cid:1855)(cid:4791)(cid:3)(cid:1866)(cid:4827)(cid:4820)(cid:1855)(cid:484) Dựa trên số liệu vốn đầu tư và sản lượng của các vùng và cả nước giai đoạn 2011-

2022 (Bảng 3.5 và 3.6 – Phụ lục 1) tính được kết quả cho ở bảng 3.2 sau đây:

80

Bảng 3.2. Tỷ số giữa suất đầu tư của các vùng so với trung bình cả nước

Đơn vị tính: lần

Tỷ số Tj Thứ Vùng 2011-2015 2016-2020 2021-2022 2011-2022 tự

1,49

1,36

1,23

1,39

TD&MNPB 1

1,18

1,15

1,15

1,16

2 ĐBSH

1,30

1,33

1,54

1,35

3 BTB&DHMT

0,92

0,98

1,44

1,03

4 Taynguyen

0,59

0,68

0,76

0,66

5 DNB

0,92

0,88

0,72

0,87

6 ĐBSCL

Nguồn: Tính từ số liệu bảng 3.6a

Từ kết quả tính trong Bảng 3.2 cho thấy, trong cả hai giai đoạn 2011-2015 và

2016-2020 cũng như trong suốt thời kỳ 2011-2022, tỷ lệ suất đầu tư của vùng

TD&MNPB so với trung bình cả nước là cao nhất. Điều này cho thấy, để tạo ra được

một đồng sản lượng, vùng TD&MNPB phải sử dụng nhiều vốn đầu tư hơn các vùng

khác và cả nước. Nói một cách khác, hiệu quả đầu tư của Vùng đạt thấp hơn các vùng

khác. Bên cạnh đó, các vùng Tây Nguyên, Đồng bằng sông Hồng và Bắc TB&DHMT

cũng có hiệu quả đầu tư thấp giai đoạn 2011-2022, trong khi hai vùng còn lại gồm Đông

Tỷ lệ suất VĐT của các vùng so với cả nước (lần)

1,8

1,54

1,39

1,6

1,49

1,33

1,44

1,35

1,16

1,36

1,4

1,3

1,15

1,23

1,18

1,15

0,88

1,03

1,2

0,98

0,87

0,92

0,76

0,92

1

0,68

0,72

0,8

0,66

0,59

0,6

0,4

0,2

0

TD&MNPB

ĐBSH

BTB&DHMT

Taynguyen

ĐNB

ĐBSCL

2011-2015

2016-2020

2021-2022

2011-2022

Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long có hiệu quả cao hơn trung bình cả nước.

Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ suất vốn đầu tư các vùng so với trung bình cả nước

Đơn vị tính: Hệ số tỷ lệ; Nguồn: Từ số liệu bảng 3.7

81

Tóm lại, hiệu quả đầu tư nói chung và hiệu quả đầu tư công nói riêng tại vùng

TD&MNPB thời gian qua đạt thấp, có thể là thấp nhất so với các vùng khác trong cả

nước. Tình trạng này có thể giải thích trên các nguyên nhân sau đây:

Thứ nhất, cũng tương tự như cả nước, tình trạng đầu tư phong trào, rập khuôn

của nhiều ngành, địa phương vẫn diễn ra phổ biến và không thực sự chú trọng tới hiệu

quả lợi thế so sánh của địa phương. Hiệu quả đầu tư vẫn còn thấp, thể hiện qua chỉ số

ICOR vẫn ở mức cao và mức độ cải thiện còn rất chậm.

Thứ hai, nguyên nhân làm cho ICOR của Vùng cao một phần là do Vùng đang

trong giai đoạn tập trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng, đặc biệt hạ tầng cơ sở ở vùng sâu,

vùng xa và đầu tư cho xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội.

Thứ ba, và là nguyên nhân khách quan chủ yếu là do vùng có địa hình phức tạp,

điều kiện thời tiết khí hậu khắc nghiệt, lũ quét gây sạt lở thường xuyên, suất đầu tư

cao, chi phí sửa chữa lớn dẫn đến hiệu quả đầu tư đạt thấp.

Thứ tư, về mặt chủ quan vẫn là do cơ chế quản lý đầu tư xây dựng còn lỏng lẻo,

3.3. Thực trạng tăng trưởng kinh tế vùng TD&MNPB

quy hoạch đầu chưa hợp lý gây lãng phí nghiêm trọng,…

Vùng TD&MNPB có nhiều lợi thế tiềm năng cho phát triển với nhiều loại tài

nguyên, khoáng sản quý hiếm và diện tích đồi rừng rộng lớn, cảnh quan thiên nhiên

hùng vĩ, tươi đẹp cùng nhiều di sản văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số

để phát triển du lịch và bảo vệ môi trường sinh thái.

Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng, ngày 1/7/2004, Bộ

Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW và Bộ Chính trị khóa XI đã

tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW, ban hành Kết luận số 26-KL/TW,

ngày 2/8/2012 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 1/7/2004 của Bộ

Chính trị khóa IX nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng,

an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020.

Sau khi Nghị quyết số 37-NQ/TW ra đời, Chính phủ cũng đã ban hành hàng

loạt các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng này như: Quyết định

186/2001-QĐ-TTg về phát triển kinh tế - xã hội ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi

phía Bắc; Quyết định 120/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội tuyến biên giới Việt - Trung đến 2010, Chương trình 134, 30a; Chương trình

mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới…

Bên cạnh đó, các bộ, ngành cũng đã chủ động xây dựng, ban hành cơ chế, chính

sách giúp bổ sung, khơi thông các nguồn lực. Nhiều địa phương đã tận dụng, phát huy

82

tối đa cơ chế, chính sách và hỗ trợ của Trung ương qua việc triển khai Nghị quyết để

phát huy lợi thế mang lại hiệu quả cao trong phát triển kinh tế - xã hội.

Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân năm trong giai đoạn 2011 - 2022

của vùng đạt 8,9 % (Bảng 3.3) ; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng

tỷ trọng công nghiệp.

Bảng 3.3. Tăng trưởng kinh tế vùng TD&MNPB giai đoạn 2011-2022

GRDP GRDP Tăng trưởng Tăng trưởng Năm Năm (tỷ đồng) (g - %) (tỷ đồng) (g - %)

2010 171888.129 --- 2016 272339.866 7,67

2011 179233.096 4,27 2017 296751.349 8,96

2012 195959.234 9,33 2018 317725.961 7,07

2013 212116.004 8,24 2019 345393.811 8,71

2014 231256.412 9,02 2020 370142.053 7,17

2015 252935.722 9,37 2021 432888.236 16,91

2011-2015 8,03 2022 478379.102 10,51

2016-2020 7,91 13,68 2021-2022

2011-2022 8,9

Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh vùng TD&MNPB

Kết quả tính toán ở Bảng 3.3 cho thấy, trong giai đoạn 2011-2015, trong bối cảnh

nền kinh tế cả nước đối mặt với nhiều khó khăn do những vấn đề nội tại của nền kinh tế

và chịu tác động không nhỏ của suy thoái kinh tế toàn cầu song tăng trưởng kinh tế của

vùng đạt khá. Trong giai đoạn này, tính chung cho toàn vùng, tốc độ tăng trưởng kinh

tế vẫn đạt khoảng 8,03%/năm, cao hơn trung bình chung của cả nước là 6%/năm.

Giai đoạn 2016-2020, các hoạt động liên kết của vùng được coi trọng gắn với đầu

tư phát triển, từng bước hình thành và phát triển hạ tầng giao thông kết nối liên vùng,

gắn kết các địa phương, phát triển khu kinh tế cửa khẩu và các hình thức hợp tác xuyên

biên giới. Nhiều địa phương đã khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế phát triển bứt phá,

tạo nên những điểm sáng trong phát triển công nghiệp, nông nghiệp như: Bắc Giang,

Thái Nguyên, Sơn La, Lào Cai... Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông của vùng cũng

từng bước được đầu tư mới và hình thành một số tuyến đường cao tốc kết nối với Thủ

đô Hà Nội, cải thiện liên kết nội vùng, hệ thống cảng biển khu vực phía Bắc, góp phần

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng của vùng đã được tăng lên

83

đáng kể, đạt 7,91%/năm trong giai đoạn 2016-2020 và lên tới 13,68% trong năm 2021-

2022 (Bảng 3.3). So với năm 2010, GRDP năm 2022 của vùng đã tăng lên gấp 2,78 lần.

Về lĩnh vực nông nghiệp, thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên cơ sở đánh

giá lợi thế và nhu cầu thị trường, trong giai đoạn 2017 - 2020, các tỉnh trong vùng Trung

du và miền núi Bắc bộ đã chuyển đổi khoảng 54 nghìn ha đất gieo trồng lúa kém hiệu

quả sang nuôi trồng thủy sản, trồng cây hàng năm cho giá trị kinh tế cao hơn từ 3 - 8

lần. Đến nay, đã hình thành được một số vùng lúa đặc sản theo hướng sản xuất hàng hóa

tập trung, chuyên canh, có thương hiệu sản phẩm, có thể kể đến như: nếp Tú Lệ, gạo

Séng Cù, tẻ nương Mộc Châu, nếp Cẩm…

Giai đoạn 2016 - 2021, diện tích cây ăn quả của vùng đã tăng từ 185 nghìn ha lên

267 nghìn ha và trở thành vùng cây ăn quả lớn thứ 2 trên cả nước. Một số loại cây ăn

quả đã được xây dựng thành vùng hàng hóa tập trung quy mô lớn như: vải thiều, nhãn,

cam, bưởi, xoài... Bên cạnh việc chú trọng sản xuất, trong vùng còn quan tâm đến đầu

tư công nghệ chế biến để nâng cao giá trị gia tăng cho các sản phẩm.

So với các vùng khác và cả nước, tăng trưởng kinh tế của vùng giai đoạn 2011-

2015 chỉ cao hơn vùng Đồng bằng sông Cửu Long chút ít và thấp hơn nhiều so với mức

trung bình cả nước. Sang giai đoạn 2016-2020, nhờ sự vươn lên của các tỉnh được xem

là các cực tăng trưởng của vùng như Thái Nguyên, Lào Cai, Bắc Giang, Phú Thọ, tăng

trưởng của vùng đã được cải thiện đáng kể, đạt 7,91%/năm. Giai đoạn 2021-2022, vùng

đã có những bước phát triển đột phá với mức tăng trưởng trung bình dẫn đầu cả nước,

đạt 13,68%. Trung bình cả giai đoạn 2011-2022, vùng TD&MNPB xếp thứ 2 trong 6 vùng và cao hơn mức trung bình cả nước (Bảng 3.4).

Bảng 3.4. Tăng trưởng kinh tế trung bình các vùng và cả nước các thời kỳ Đơn vị: %

Thời kỳ

Vùng 2011-2015 2016-2020 2021 - 2022 2011 - 2022

9,67

TD&MNPB 8,03 7,91 13,68 8,9

7,85

ĐBSH 11,61 8,95 6,63

6,65

BTB&DHMT 7,81 7,93 7,73

6,22

Taynguyen 6,94 6,96 5,12

5,80

ĐNB 6,82 6,46 4,11

7,53

ĐBSCL 6,25 6,89 1,92

Cả nước 8,27 7,63 5,42

Nguồn: TCTK - Niên giám thống kê cả nước và các địa phương các năm

84

Tăng trưởng kinh tế 6 vùng và cả nước (%)

16

14

12

10

8

6

4

2

0

TD&MNPB

ĐBSH

BTB&DHMT

Taynguyen

ĐNB

ĐBSCL

Cả nước

2011-2015

2016-2020

2021 - 2022

2011 - 2022

Biểu đồ 3.7. Tăng trưởng kinh tế các vùng và cả nước 2011-2022

Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh và cả nước

Đồng bằng sông Cửu Long 12%

Đồng bằng sông Hồng 28%

Đông Nam Bộ 35%

Trung du và miền núi phía Bắc 8%

Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 14%

Tây Nguyên 3%

Biểu đồ 3.8. Tỷ trọng trung bình tổng GRDP các vùng trong cả nước giai đoạn 2010-2022

Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh và cả nước

Về tăng trưởng của các địa phương trong vùng: Trong số 14 địa phương của

vùng, 4 tỉnh gồm Bắc Giang, Lào Cai, Thái Nguyên và Phú Thọ có mức tăng trưởng cao

và ổn định qua các năm. Các địa phương còn lại nhìn chung còn gặp nhiều khó khăn,

đạt mức tăng trưởng thấp và thiếu ổn định (Bảng 3.6 - Phụ lục 1).

85

Chẳng hạn, với tỉnh Thái Nguyên, sau khi tuyến đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai

đi vào hoạt động (2015), tỉnh ngày càng thu hút được nhiều Tập đoàn lớn trong và ngoài

nước như: Tập đoàn Samsung, Sunny Optech... Riêng năm 2021, Thái Nguyên đã cấp

mới và điều chỉnh tăng vốn cho 27 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn hơn 1 tỷ USD,

nâng tổng số dự án FDI còn hiệu lực tại Thái Nguyên lên tới 170 dự án với tổng vốn

đăng ký đạt 9,67 tỷ USD. Cùng với Thái Nguyên, tỉnh Bắc Giang tập trung cải thiện

môi trường đầu tư kinh doanh; huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng

kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, công nghiệp, đô thị, dịch vụ. Tỉnh có hơn

1.800 dự án, tổng số vốn xấp xỉ 11 tỷ USD. Liên tục những năm gần đây, Bắc Giang

luôn ở trong nhóm 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước về thu hút vốn đầu tư FDI. Năm

2021, dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức song tốc độ tăng GRDP của tỉnh

vẫn đạt 7,82%. Do tốc độ tăng trưởng hàng năm của các tỉnh khác nhau, nên tỷ trọng

đóng góp của các tỉnh vào sản lượng của vùng cũng khác nhau đáng kể. Tính trung bình

giai đoạn 2010-2022, tỉnh Bắc Giang đóng góp lớn nhất (21%); thứ đến là Thái Nguyển

Tăng trưởng kinh tế các tỉnh vùng TD&MNPB (%)

18

16

14

12

10

8

6

4

2

0

2011-2015

2016-2020

2011-2022

(17%); Phú Thọ (10%); Lào Cai, Sơn La và Hòa Bình có tỷ trọng đóng góp tương đương (7-8%); Các tỉnh còn lại đóng góp chỉ khoảng 2-3% (Xem Bảng 3.7 – Phụ lục 1)

Biểu đồ 3.9. So sánh tăng trưởng các tỉnh vùng TD&MNPB

Nguồn: Dữ liệu từ bảng 3.6 - Phụ lục 1

Có thể thấy GRDP của các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang chiếm trung bình tới

38% tổng GRDP toàn vùng trong giai đoạn này. Đây cũng là 2 tỉnh phát triển công

nghiệp, thu hút FDI lớn nhất khu vực Trung du và miền núi phía Bắc. Các tỉnh Cao

86

Bằng, Bắc Kạn, Điện Biên, Lai Châu đều có mức đóng góp vào tổng GRDP của vùng

chỉ xấp xỉ 2-3% hàng năm.

Nhờ tăng trưởng kinh tế được cải thiện trong giai đoạn 2015 - 2019, công tác

giảm nghèo đã đạt được thành tựu đáng kể. Tỷ lệ nghèo các tỉnh TD&MNPB giảm

nhanh, từ 38,72% (2005) xuống còn 31,38% (2010); 25,77% (2015) và 15,82% (2018).

Một số tỉnh thuộc vùng đã đạt được bước tiến đáng kể trong phát triển KT-XH (tăng

trưởng cao, năm sau cao hơn năm trước) như Thái Nguyên, Lào Cai, Lạng Sơn, Hòa

Bình, Phú Thọ, Sơn La; Đã có bước tiến đáng kể trong thu hút vốn đầu tư trong nước và

nước ngoài vào phát triển công nghiệp, du lịch; Đảm bảo an sinh xã hội; quan tâm công

tác xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Tuy vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành công nghiệp, dịch vụ còn chậm; Môi trường đầu tư một số địa phương chưa thuận

lợi để hấp dẫn đầu tư trong nước và nước ngoài; Quy mô kinh tế còn nhỏ bé; thu nhập

bình quân đầu người thấp hơn bình quân cả nước. Đến nay số liệu thống kê cho thấy,

thu nhập bình quân đầu người/tháng và chi tiêu bình quân đầu người/tháng theo giá hiện

hành của vùng vẫn thấp nhất trong 6 vùng kinh tế của cả nước.

Về chất lượng tăng trưởng, như phân tích ở phần trên, hiệu quả sử dụng nguồn

lực vốn vẫn còn thấp thể hiện qua hệ số ICOR vẫn còn cao vào loại nhất nhì trong cả

nước. Năng suất lao động của vùng vẫn thấp nhất trong cả nước. Mặc dù tăng trưởng

kinh tế của vùng có sự khởi sắc nhưng thực tế khu vực này vẫn là vùng nghèo và khó

khăn nhất của cả nước do xuất phát điểm thấp. Quy mô kinh tế vùng nhỏ, cơ cấu kinh

tế chưa hiện đại, chuyển dịch chậm; phát triển của các địa phương trong vùng chưa đồng

đều, hầu hết các sản phẩm công nghiệp chế biến vẫn ở dạng chế biến thô và gia công...

Nhiều địa phương trong vùng vẫn lúng túng trong chọn hướng phát triển đột phá và phát

huy thế mạnh liên kết. Tiềm năng, lợi thế của vùng vẫn chưa được khai thác hợp lý và

phát huy hiệu quả. Trung du và miền núi phía bắc vẫn là "vùng trũng" trong phát triển

và là "lõi nghèo" của cả nước, liên kết vùng còn yếu. Khoảng cách về trình độ phát triển

và thu nhập bình quân đầu người trong nội vùng so với bình quân chung của cả nước

tiếp tục gia tăng. Quy mô kinh tế còn nhỏ; tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, chất lượng

chưa cao. Cơ cấu nội ngành và giữa các ngành kinh tế chuyển dịch còn chậm. Các địa

phương trong vùng đều chưa cân đối được ngân sách. Hoạt động hợp tác, kết nối với

3.4. Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế

các địa phương ngoài vùng, với các tỉnh của Lào và Trung Quốc còn khiêm tốn…

Trong chương 2 luận án đã trình bày mô hình nghiên cứu, theo đó đầu tư công

tác động vào tăng trưởng kinh tế thông qua kết hợp mối quan hệ giữa đầu tư công đến

tổng cung và tổng cầu. Về phía tổng cung, tác động của đầu tư công đến sản lượng thông

87

qua tăng vốn sản xuất, cải thiện năng suất lao động và năng suất nhân tố tổng hợp (TFP).

Về phía tổng cầu, tác động của đầu tư công đến sản lượng thông qua làm tăng chi tiêu

của chính phủ, chi tiêu hộ gia đình, kích thích khu vực tư nhân và tác động vào thặng

dư xuất nhập khẩu. Từ đó, việc phân tích thực trạng tác động của đầu tư công đến tăng

3.4.1. Tác động của đầu tư công đến sản lượng thông qua tăng vốn sản xuất

trưởng kinh tế của vùng được thể hiện trên các khía cạnh theo mô hình nghiên cứu.

Vốn đầu tư có tác động đến tăng trưởng vốn sản xuất thông qua quá trình đầu tư

và là nhân tố thúc đẩy gia tăng sản lượng. Vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư công và vốn

đầu tư khu vực tư nhân, trong đó vốn đầu tư công có mục đích chủ yếu là xây dựng cơ

sở hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tạo nền tảng tiếp thu khoa học công

nghệ. Việc đánh giá trực tiếp tác động của đầu tư công đến sản lượng là rất khó thực hiện

do thiếu nguồn dữ liệu chi tiết, do đó có thể đánh giá gián tiếp qua đo lường năng suất của

vốn đầu tư nói chung và tỷ lệ đóng góp của vốn đầu tư công vào tổng vốn đầu tư xã hội.

Thời gian qua, đầu tư công của vùng đã đóng góp đáng kể vào gia tăng sản lượng

của vùng. Từ các số liệu thống kê về sản lượng và vốn đầu tư có thể tính được giá trị

sản lượng tạo ra trung bình trên một đồng vốn đầu tư (gọi tắt là năng suất của vốn đầu

tư) của Vùng TD&MNPB và các vùng khác trong cả nước, thể hiện trên Bảng 3.5.

Bảng 3.5. Giá trị sản lượng tạo ra trung bình trên một đồng vốn đầu tư

TD &

BTB &

Tây

ĐBSH

ĐNB

ĐBSCL Cả nước

Năm

MNPB

DHMT

Nguyên

2010

1,86

1,76

2,02

2,45

3,45

2,47

2,38

2011

1,97

1,90

2,16

2,58

3,15

2,57

2,42

2012

2,05

1,71

1,95

2,68

3,23

2,57

2,32

2013

1,79

1,73

1,89

2,55

3,57

2,45

2,33

2014

2,41

1,75

1,56

2,71

3,57

2,43

2,32

2015

1,62

2,25

1,53

2,63

3,50

2,43

2,38

2016

2,02

2,10

1,66

2,53

3,32

2,48

2,38

2017

1,95

1,95

1,80

2,69

3,24

2,51

2,34

2018

2,11

2,02

1,82

2,70

3,21

2,47

2,37

2019

2,12

2,02

1,80

2,51

3,27

2,58

2,38

2020

2,12

1,98

1,74

2,22

3,23

2,53

2,33

2021

2,01

2,17

1,63

1,57

3,49

3,41

2,49

2022

2,19

2,34

1,71

2,09

3,28

3,77

2,67

Đơn vị: Đồng

Nguồn: TCTK - Niên giám thống kê cả nước và các địa phương các năm.

88

3.4.2. Quan hệ giữa đầu tư công và năng suất lao động

Kết quả bảng 3.5 cho thấy, trong giai đoạn 2010-2022, năng suất vốn đầu tư của Vùng có được cải thiện, tuy nhiên với tốc độ chậm. Năm 2010, một đồng vốn đầu tư tạo ra được 1,86 đồng sản lượng, thì đến năm 2022, năng suất tăng lên là 2,19. Tuy nhiên, nếu so sánh với các vùng khác, năng suất vốn đầu tư của Vùng tương đương với vùng đồng bằng sông Hồng, cao hơn vùng Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung nhưng lại thấp hơn nhiều so với 3 vùng còn lại. Điều này cũng phù hợp với kết luận rút ra từ phân tích hiệu quả của vốn đầu tư đã phân tích ở mục 3.2.5. Mặc dù năng suất vốn đầu tư thấp, song do tỷ lệ vốn đầu tư công trên Tổng vốn đầu tư của vùng cao nhất trong 6 vùng của cả nước (Bảng 3.2- Phụ lục 1) nên có thể thấy, xét trên khía cạnh năng suất vốn trung bình thì tại vùng TD&MNPB vai trò của đầu tư công với tăng trưởng của vùng có phần lớn hơn so các vùng khác.

Năng suất lao động của vùng TD&MNPB tăng khá nhanh, trong giai đoạn 2011- 2015 là 10,6%/năm và giai đoạn 2016-2022 là 14,2%. Tuy nhiên vẫn thuộc loại thấp nhất trong 6 vùng của cả nước. Đến năm 2020, năng suất lao động của vùng vẫn thấp và xếp thứ 5 trong cả nước và chỉ cao hơn chút ít so với vùng Tây Nguyên. Hai năm 2021 và 2022, Vùng có sự bứt phá và tăng với tốc độ cao xấp xỉ 23,5%/năm và vươn lên xếp thứ 4 trong cả nước, cao hơn vùng ĐBSCL và Tây nguyên nhưng vẫn thấp hơn khá xa so với mức trung bình của cả nước (Bảng 3.6). Trong nội bộ Vùng, các tỉnh như Bắc Giang, Thái Nguyên, Lào Cai có Năng suất lao động trung bình cao hơn trung bình của Vùng, còn các địa phương còn lại đều thấp hơn của vùng. Đặc biệt, tỉnh Điện Biên chỉ đạt 76,4 triệu đồng so với trung bình chung toàn vùng là 136,4 triệu đồng (xem Bảng 3.8 - Phụ lục 1).

Bảng 3.6. Năng suất lao động trung bình của các vùng và cả nước (2018-2022)

Đơn vị: Triệu đồng (giá hiện hành)

Năm Vùng 2018 2019 2020 2021 2022

CẢ NƯỚC 129,1 141,0 150,1 173,0 188,7

Ðồng bằng sông Hồng 162,5 181,4 197,2 228,2 252,6

Trung du và miền núi phía Bắc 75,7 81,4 89,5 126,2 136,4

Bắc Trung Bộ và DHMT 87,1 97,7 103,9 125,3 139,2

Tây Nguyên 72,2 78,0 85,1 92,9 103,6

Ðông Nam Bộ 249,0 255,9 263,5 279,4 302,2

Ðồng bằng sông Cửu Long 85,9 94,5 99,7 110,8 123,6

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam

89

Trong Vùng, có 4 địa phương có năng suất lao động cao nổi trội hơn gồm Thái

Nguyên, Lào Cai, Bắc Giang và Phú Thọ, tuy nhiên chỉ có duy nhất tỉnh Thái Nguyên

có NSLĐ cao hơn trung bình cả nước. Các địa phương còn lại đều có NSLĐ thấp, đặc

biệt như Điện Biên và Hà Giang, chỉ xấp xỉ bằng 56% của trung bình vùng và 40,5% so

với trung bình cả nước.

Trong quan hệ với NSLĐ, Đầu tư công của vùng hầu như ít có tác động tích cực đến NSLĐ. Bảng 3.7 thể hiện mức tăng NSLĐ và tăng Vốn đầu tư công thời kỳ 2011-

2022 và khi biểu diễn trên biểu đồ 3.10 cho thấy không có quan hệ rõ rệt giữa đầu tư

công đến NSLĐ. Cụ thể, giai đoạn 2011-2015, khi đầu tư công giảm sút nhưng NSLĐ

vẫn ít chịu ảnh hưởng, ngược lại, thời kỳ 2016- 2022, khi đầu tư công tăng nhưng xu

hướng biến đổi của NSLĐ cũng không thay đổi nhiều. Thực tế đó cho thấy, mặc dù vốn

đầu tư công có tăng nhưng nhu cầu đầu tư cho cơ sở hạ tầng còn lớn, đầu tư cho các

chương trình mục tiêu có được chú trọng song chưa đủ để cải thiện chất lượng nguồn

nhân lực, năng lực công nghệ của vùng chậm được cải thiện, dẫn đến năng suất nhân tố

tổng hợp tăng chậm và ảnh hưởng đến NSLĐ của vùng.

Bảng 3.7. Tăng năng suất lao động và Vốn ĐTC vùng TD&MNPB

Đơn vị : %/năm

Tăng NSLĐ Tăng VĐTC Năm NSLĐ (1000 đ) ĐTC (tỷ đ)

2011 36200 42609.918 8,21 4,78

2012 41600 46247.341 14,92 8,54

2013 45700 46199.536 9,86 -0,10

2014 52100 46520.089 14,00 0,69

2015 55200 44846.608 5,95 -3,60

2016 62400 39995.26 13,04 -10,82

2017 68300 44065.35 9,46 10,18

2018 75700 47859.7 10,83 8,61

2019 81400 50511.732 7,53 5,54

2020 89500 57343.324 9,95 13,52

2021 126200 56155.327 41,01 -2,07

2022 136400 58535.72 7,77 4,24

Nguồn: Tổng cục Thống kê và NGTK các địa phương

Tăng VĐTC và tăng NSLĐ vùng TD&MNPB

50,00

40,00

30,00

20,00

10,00

0,00

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

-10,00

-20,00

Tăng NSLĐ

Tăng VĐTC

90

Biểu đồ 3.10. Quan hệ giữa tăng Vốn ĐTC và tăng NSLĐ vùng TD&MNPB

3.4.3. Quan hệ giữa đầu tư công và chi tiêu công và hộ gia đình

Nguồn: Từ số liệu bảng 3.7

Theo số liệu khảo sát mức sống dân cư (VHLSS) các năm giai đoạn 2010-2022,

tổng mức chi tiêu của một nhân khẩu bình quân trong một tháng tại vùng TD&MNPB

đã tăng lên từ 1,03 triệu đồng (2010) lên gấp đôi 2,095 triệu đồng năm 2020 và có giảm chút ít do hậu quả của đại dịch Covid (Bảng 3.8). Mặc dù vậy, so với 5 vùng còn lại,

tổng mức chi tiêu bình quân một nhân khẩu trong một tháng của vùng TD&MNPB vẫn

là thấp nhất, thể hiện trên biểu đồ 3.11.

Bảng 3.8. Tổng mức chi tiêu một nhân khẩu bình quân trong một tháng

Vùng Trung du và miền núi phía bắc

ĐTC (tỷ đ) Chi tiêu (1000đ) Năm

2011 42609,918 1030,5

2012 46247,341 1195,0

2013 46199,536 1366,5

2014 46520,089 1538,0

2015 44846,608 1596,5

91

ĐTC (tỷ đ) Chi tiêu (1000đ) Năm

39995,26 1655,0 2016

44065,35 1823,1 2017

47859,7 1991,2 2018

50511,732 2043,0 2019

57343,324 2094,8 2020

56155,327 2032,4 2021

58535,72 1970,0 2022

Tổng chi tiêu một nhân khẩu một tháng (1000 đ)

4500

4000

3500

3000

2500

2000

1500

1000

500

0

2010

2012

2014

2016

2018

2020

2022

ĐBSH

TD&MNPB

BTB&DHMT

TN

ĐNB

ĐBSCL

Nguồn: Số liệu điều tra thu nhập và mức sống hộ gia đình (VHLSS)

Biểu đồ 3.11. So sánh tổng mức chi tiêu một nhân khẩu bình quân một tháng giữa 6 vùng

Nguồn: Số liệu điều tra thu nhập và mức sống hộ gia đình (VHLSS)

Biểu diễn quy mô đầu tư công của vùng và tổng mức chi tiêu hộ gia đình trên

biểu đồ 3.12 cho thấy, trong giai đoạn 2011-2022 chi tiêu dùng dân cư có xu hướng tăng

lên cùng chiều với quy mô đầu tư công.

Đầu tư công và chi tiêu dùng dân cư

70000

60000

50000

40000

30000

20000

10000

0

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

ĐTC (tỷ đ)

Chi tiêu (100đ)

92

Biểu đồ 3.12. Quan hệ giữa đầu tư công và chi tiêu dùng của dân cư

Nguồn: Số liệu VHLSS và Niên giám thống kê các địa phương

Bên cạnh đó, theo báo cáo của Vụ Kế hoạch - Tài chính (Bộ Công Thương) về kết

quả thực hiện một số chỉ tiêu phát triển ngành Công Thương vùng Trung du và miền núi

phía Bắc giai đoạn 2011-2020 và giai đoạn 2021-2023, Thương mại nội địa phát triển mạnh,

tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ của cả vùng trong giai đoạn 2011-2020 tăng

bình quân 12%/năm, đứng thứ 2 cả nước cùng với vùng Đồng bằng sông Hồng và cao hơn

mức tăng bình quân chung của cả nước là 11,2%/năm. Những năm gần đây, giai đoạn 2021-

2023 đạt mức tăng bình quân 15,6%/năm, đứng thứ 4 cả nước. Kết cấu hạ tầng thương mại

cũng đã được quan tâm đầu tư đầu tư xây dựng. Điều này chứng tỏ, đầu tư công đã kích

3.4.4. Quan hệ giữa đầu tư công với đầu tư khu vực tư nhân

thích tổng cầu và gián tiếp tác động đến tăng trưởng kinh tế của vùng TD&MNPB.

Từ số liệu ở Bảng 3.1 trên đây cho thấy, tỷ lệ vốn nhà nước trên tổng vốn đầu tư xã hội của vùng TD&MNPB giai đoạn 2016-2022 là cao hơn 5 vùng còn lại và cả nước

(27,12% so với 23,91%). Điều này đồng nghĩa với việc đầu tư công của vùng tác động

đến đầu tư tư nhân còn yếu. Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn 2011-2022, bình quân

một đồng vốn đầu tư công thu hút được khoảng 2,2 đồng vốn đầu tư tư nhân. Tuy nhiên

xu hướng cải thiện rất chậm, thậm chí giai đoạn 2016-2022 có xu hướng giảm (từ 2,8

đồng năm 2016 giảm xuống còn 2,67 đồng vốn tư nhân năm 2022).

3.4.5. Quan hệ giữa đầu tư công và xuất khẩu

93

Theo báo cáo của Vụ Kế hoạch - Tài chính (Bộ Công Thương) về kết quả thực

hiện một số chỉ tiêu phát triển ngành Công Thương vùng Trung du và miền núi phía

Bắc giai đoạn 2011-2020 và giai đoạn 2021-2023, hoạt động xuất nhập khẩu của vùng

tuy còn nhỏ nhưng đã phát huy khai thác được lợi thế kinh tế biên mậu, kinh tế cửa

khẩu của các tỉnh trong khu vực. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân giai đoạn

2011-2020 của vùng tăng 42,2%/năm, đứng thứ nhất cả nước và cao hơn mức bình

quân chung của các nước là 14,7%/năm. Giai đoạn 2021-2023 đạt mức tăng bình quân

15,4%/năm, đứng thứ 3 cả nước. Cán cân thương mại chuyển từ nhập siêu 545 triệu

USD năm 2011 sang xuất siêu gần 11,4 tỷ USD vào năm 2020 và tăng lên 18,1 tỷ USD

vào năm 2023.

Tuy nhiên, theo số liệu thống kê từ TCTK và Cục thống kê các địa phương, kim

ngạch xuất khẩu cao chỉ tập trung vào một số ít tỉnh như Thái Nguyên, Bắc Giang và Phú Thọ. Các địa phương còn lại, kim ngạch xuất xuất rất nhỏ, tiêu biểu như Cao Bằng,

Bắc Cạn, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La. Phần lớn các địa phương trong Vùng có tỷ lệ xuất khẩu trên GRDP rất nhỏ, không đáng kể (Thể hiện ở Bảng 3.9 – Phụ lục 1).

Số liệu Bảng 3.9 (Phụ lục 1) cho thấy rõ quan hệ giữa đầu tư công và xuất khẩu. Các địa phương có tỷ lệ đầu tư công trên GRDP lớn thì Tỷ lệ xuất khẩu lại nhỏ,

ngược lại các địa phương như Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ với tỷ lệ đầu tư

công nhỏ nhưng tỷ lệ xuất khẩu lại lớn. Thực tế đó chỉ ra rằng đầu tư công của Vùng

chưa đủ để tạo nên cơ sở hạ tầng thuận lợi từ đó kích thích mở rộng quy mô công

nghiệp, đẩy mạnh liên kết sản xuất và tiêu thụ giữa các địa phương, thu hút đầu tư

trực tiếp nước ngoài nhất là các doanh nghiệp phụ trợ cho công nghiệp mũi nhọn

3.5. Kết luận rút ra từ thực trạng đầu tư công và tăng trưởng kinh tế

nhằm tăng cường xuất khẩu.

Từ phân tích thực trạng đầu tư công và tăng trưởng kinh tế trên đây Luận án rút

ra một số kết luận sau đây:

- Vùng Trung du và miền núi phía bắc là vùng đặc thù về điều kiện phát triển, là vùng có nhiều khó khăn mang tính chất toàn diện về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã

hội và an ninh quốc phòng. Cho đến nay, vùng vẫn là vùng trũng về trình độ phát triển

của cả nước, hơn nữa khoảng cách chênh lệch về phát triển vẫn tiếp tục bị nới rộng. Mặc

dù vậy, vùng lại có nhiều tiềm năng về tài nguyên khoáng sản và văn hóa, có vị trí chiến

lược về an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường và phát huy giá trị lịch sử truyền thống

cần được giữ gìn, phát huy và khơi thông để phát triển.

94

- Quy mô đầu tư công của vùng trong hơn 10 năm qua đã không ngừng tăng

lên, song thời kỳ đầu (2011-2015) tăng chậm và tăng nhanh ở thời kỳ 2016-2022, dẫn

đến tỷ lệ vốn Đầu tư công của vùng trên GRDP vào loại cao nhất trong các vùng của cả

nước. Cơ cầu vốn đầu tư công có sự chuyển dịch theo hướng cơ cấu lại đầu tư công,

theo đó tỷ lệ vốn đầu tư công trên tổng đầu tư đã giảm xuống, nhưng nguồn vốn NSNN

vẫn chiếm tỷ lệ cao (hơn các vùng khác) trong vốn đầu tư công. Nguồn vốn NSNN trung

ương chiếm tỷ lệ đại đa số, trong khi vốn NS địa phượng rất hạn chế. Về cơ cấu ĐTC

theo mục đích sử dụng, đã chuyển dịch đúng hướng tăng cường đầu tư cho Cơ sở hạ

tầng Giao thông, viễn thông, hạ tầng xã hội, tạo nên hệ thống cơ sở hạ tầng bước đầu

phục vụ tích cực cho sản xuất, đời sống và an ninh quốc phòng.

- Hiệu quả đầu tư nói chung và đầu tư công vẫn còn thấp so với các vùng khác do

nhiều yếu tố khách quan và chủ quan về quản lý, song yếu tố khách quan, nhất là địa hình

khó khăn, phức tạp, khí hậu khắc nghiệt là đặc thù riêng của vùng rất quan trọng. ICOR

cũng như tỷ lệ vốn đầu tư công và gia tăng sản lượng đều ở mức cao ở vùng trung du và

miền núi phía Bắc có thể phản ánh những khó khăn đặc thù của khu vực này trong việc sử

dụng vốn hiệu quả. Đây là khu vực địa lý có địa hình phức tạp, điều kiện tự nhiên khó khăn

hơn so với nhiều vùng khác, dẫn đến chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng cao hơn. Địa hình đồi

núi cản trở việc xây dựng đường sá và phát triển các công trình hạ tầng khác, khiến cho

việc triển khai các dự án đầu tư trở nên tốn kém và thời gian hoàn thành dài hơn. Vùng

trung du và miền núi phía Bắc có mức độ phát triển kinh tế thấp hơn, trình độ công nghệ

và kỹ năng lao động chưa cao. Những yếu tố này làm giảm khả năng tối ưu hóa sử dụng

vốn, khi mà lao động không được đào tạo đầy đủ để vận hành công nghệ tiên tiến, và cơ

sở hạ tầng công nghệ chưa được đầu tư đúng mức để hỗ trợ phát triển công nghiệp và dịch vụ. Sự thiếu hụt về nguồn nhân lực có trình độ và công nghệ hiện đại là một trong những

rào cản lớn nhất đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở khu vực này.

Yếu tố quản lý và thể chế cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích sự

khác biệt về ICOR. Ở nhiều vùng miền núi, sự quản lý thiếu hiệu quả, quy trình phê

duyệt dự án kéo dài, và sự thiếu minh bạch trong việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công

có thể làm giảm hiệu quả của các khoản đầu tư. Các chính sách khuyến khích đầu tư có

thể chưa được áp dụng một cách hiệu quả hoặc chưa phù hợp với điều kiện thực tế của

địa phương, dẫn đến việc sử dụng vốn kém hiệu quả.

- Tăng trưởng kinh tế của vùng TD&MNPB thời kỳ 10 năm qua vào loại khá và ổn định, nằm trong số 3 vùng có tăng trưởng cao nhất. Tuy nhiên, tăng trưởng không

đồng đều giữa các địa phương trong vùng, chủ yếu tập trung vào một số ít địa phương

như Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ và Lào Cai. Các địa phương còn lại tăng trưởng

95

thấp và thiếu ổn định. Đến nay, tỷ lệ đóng góp vào sản lượng cả nước của Vùng vẫn ở

mức thấp (8%) chỉ xếp trên vùng Tây Nguyên. Chất lượng tăng trưởng vẫn còn thấp và

chậm cải thiện, hiệu quả vốn đầu tư thấp thể hiện ICOR vào loại cao nhất cả nước, trong

khi đó năng suất lao động trung bình của vùng lại vào loại thấp nhất cả nước. Tăng

trưởng kinh tế khá đồng thời với thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia đã tác

động tích cực đến xóa đói giảm nghèo, tuy nhiên đến nay tỷ lệ hộ nghèo của vùng vẫn

cao nhất cả nước.

- Về quan hệ giữa đầu tư công với tăng trưởng kinh tế: Thời gian qua, đầu tư

công đã tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế thông qua các khía cạnh: tăng vốn sản

xuất đặc biệt là cải thiện cơ sở hạ tầng, kích thích chi tiêu nhất là chi tiêu hộ gia đình,

cải thiện năng suất lao động, đẩy mạnh xuất khẩu và kích thích đầu tư tư nhân. Tuy

nhiên mức độ ảnh hưởng của các yếu tố còn khác nhau, trong đó hiệu quả kích thích đầu

tư tư nhân và năng suất lao động chưa thật rõ nét. Hạn chế lớn nhất của vùng đến nay là

quy mô công nghiệp còn nhỏ bé, liên kết sản xuất và tiêu thụ giữa các địa phương còn

lỏng lẻo, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất là các doanh nghiệp phụ trợ cho công

nghiệp mũi nhọn nhằm tăng cường xuất khẩu mới chỉ tập trung vào một số ít địa phương,

trình độ phát triển của các địa phương trong vùng không đồng đều.

Tóm tắt chương 3

96

Chương 3 đã phân tích thực trạng phát triển, thực trạng đầu tư công, tăng trưởng

kinh tế và quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế tại vùng TD&MNPB. Thông

qua phân tích định tính và so sánh đã đi đến nhận định rằng TD&MNPB là vùng đặc thù

về điều kiện phát triển, còn nhiều khó khăn hơn các vùng khác. Đầu tư công trong giai

đoạn 2010-2022 có tăng về quy mô nhưng do nguồn vốn ngoài Nhà nước nhỏ bé nên tỷ

lệ đầu tư công trên tổng vốn đầu tư cao, cơ cấu vốn đầu tư công còn bất cập, công tác

quản lý đầu tư công còn nhiều hạn chế dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp. Vốn

ngân sách nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng cao trong vốn đầu tư công, cho thấy Vùng vẫn

phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn nhà nước, đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP)

chưa được triển khai đáng kể. Cơ cấu đầu tư công theo lĩnh vực đã có sự dịch chuyển

tích cực, tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, giáo dục, đào tạo nghề nhằm thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế và liên kết vùng. Phân tích mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế ở chương 3 cho thấy, mặc dù hiệu quả đầu tư còn thấp nhưng đầu tư công

đã đóng vai trò rất quan trọng trong tăng trưởng kinh tế và trong phát triển kinh tế - xã

hội của vùng. Đây là đặc điểm nổi bật trong quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng

kinh tế của Vùng TD&MNPB so với các vùng phát triển hơn trong cả nước.

CHƯƠNG 4 PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÙNG TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC

4.1. Phân tích tính đặc thù về điều kiện phát triển của vùng Trung du và miền núi phía bắc

4.1.1. Xác định chỉ số tổng hợp đo tính đặc thù về điều kiện phát triển vùng

97

Như đã trình bày trong phần phương pháp nghiên cứu ở chương 2, để đánh giá

mức độ đặc thù về điều kiện phát triển của vùng TD&MNPB và các địa phương trước

hết luận án xác định chỉ số tổng hợp phản ánh lợi thế phát triển vùng RAI (Regional

advantage index). Dựa vào chỉ số RAI đánh giá được mức độ đặc thù của vùng theo

logic: Vùng nào có Chỉ số lợi thế phát triển thấp thì vùng đó cũng được xem là vùng có

tính đặc thù cao. Để xác định chỉ số RAI, luận án sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA). Phương pháp này cũng đã được một số tác giả áp dụng, chẳng hạn

Đỗ Tuyết Nhung (2021) trong xây dựng chỉ số thể chế quản trị địa phương tổng hợp.

Quy trình được thực hiện như sau:

1. Xác định các vùng kinh tế trong cả nước (6 vùng như đã trình bày trong chương 2).

2. Lựa chọn các nhân tố về lợi thế phát triển.

3. Xác định thang đo các nhân tố.

4. Phân tích nhân tố khám phá nhằm kiểm định các nhân tố ảnh hưởng.

5. Xác định chỉ số lợi thế tổng hợp trên cơ sở điểm nhân tố đã được tính toán từ

phương pháp phân tích nhân tố.

Từ cơ sở lý thuyết đã phân tích ở chương 2 của Luận án cho thấy, lợi thế về điều

kiện phát triển của các vùng (theo tiếp cận năng lực cạnh tranh) phụ thuộc vào 3 nhóm

nhân tố lớn: Các yếu tố về điều kiện cạnh tranh vĩ mô; các yếu tố về điều kiện cạnh tranh

vi mô; các yếu tố về điều kiện tự nhiên. Trong đó:

Nhóm điều kiện cạnh tranh vĩ mô bao gồm 2 nhân tố: Cơ sở hạ tầng xã hội và bộ

máy quản lý nhà nước; Các chính sách về ngân sách và đầu tư công.

Nhóm điều kiện cạnh tranh vi mô bao gồm: Chất lượng môi trường kinh doanh;

trình độ phát triển của doanh nghiệp và trình độ phát triển cụm ngành. Tuy nhiên, trong

nghiên cứu này, do điều kiện hạn chế về dữ liệu, tác giả chưa đưa vào mô hình nghiên cứu yếu tố về trình độ phát triển cụm ngành.

Nhóm điều kiện tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế xã hội gồm 3 nhân tố: Điều

kiện tự nhiên; tài nguyên thiên nhiên và quy mô (Sản lượng, diện tích và dân số).

98

Ngoài ra, do đặc điểm phát triển Vùng của nước ta gắn liền với vấn đề an ninh,

quốc phòng biên giới, các giá trị về văn hóa - truyền thống - lịch sử… do đó NCS nhận

thấy cần bổ sung các nhân tố này khi đánh giá về điều kiện đặc thù. Tuy nhiên do hạn

chế về dữ liệu, hiện tại luận án chưa tính đến được các yếu tố như đã nói.

Tổng hợp các lý thuyết Kinh tế Phát triển, lý thuyết phát triển vùng và lý thuyết

● Dữ liệu nghiên cứu

cạnh tranh vùng/địa phương, luận án hình thành nên các khía cạnh phản ánh lợi thế phát triển vùng được thể hiện trên Bảng 4.1 (Phụ lục 2).

Luận án sử dụng dữ liệu địa phương bao gồm 63 tỉnh (Thành) trong cả nước trong

giai đoạn 13 năm (2010-2022). Nguồn dữ liệu phục vụ nghiên cứu được thu thập từ các

nguồn: Niên giám Thống kê cả nước giai đoạn 2010 - 2022, Niên giám thống kê 63

tỉnh/Thành các năm 2010-2022, Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam (2019-2022), Năng

lực cạnh tranh cấp tỉnh của VCCI hàng năm (2010-2022), kết quả khảo sát mức sống

dân cư Việt Nam (VHLSS các năm 2010-2022). Để thực hiện kiểm định thang đo và

phân tích nhân tố khám phá, trên cơ sở các số liệu thứ cấp thu thập được của các

tỉnh/thành qua các năm, tác giả đã tiến hành hệ thống hóa dữ liệu để chuyển đổi dữ liệu

theo thang đo likert -5 mức độ. Nhằm đạt được mục đích này, tác giả đã sắp xếp các

biến quan sát của các địa phương theo thống kê Ngũ phân vị, nghĩa là với 20% giá trị

thấp nhất của biến quan sát sẽ nhận giá trị 1, tiếp đến 20 % giá trị cao hơn nhận giá trị

2... cho đến 20 % giá trị cao nhất nhận giá trị 5.

Riêng Chỉ số tập trung lao động ngành công nghiệp chế biến của địa phương

(csttld) được tính bằng chỉ số Thương số vị trí (Location Quotient- LQ) của một ngành

lượng hóa mức độ tập trung của lao động làm việc trong ngành của địa phương so với cả nước. Chỉ số LQ được tính theo công thức:

(cid:3286)

(cid:512)(cid:3013)

(cid:3263)

(cid:512)(cid:3013)

(cid:3286) (cid:3013)(cid:3284) (cid:3263) (cid:3013)(cid:3284)

, trong đó:

LQi là thương số vị trí của ngành i; (cid:1838)(cid:1843)(cid:3036) (cid:3) (cid:3404) (cid:3)

Lki là số lao động làm việc trong ngành i của địa phương k;

Lk là tổng số lao động làm việc tại địa phương k;

LNi là số lao động làm việc trong ngành i của cả nước;

LN là số lao động làm việc trong cả nước.

Trong luận án, ngành được sử dụng để tính chỉ số tập trung lao động là ngành

công nghiệp chế biến, phản ánh trình độ phát triển của ngành công nghiệp chế biến của

các địa phương.

99

Kết quả, có được bảng tổng hợp dữ liệu gồm 819 quan sát được đo bằng thang

đo Likert - 5 mức độ cho các biến quan sát của 63 tỉnh/thành phố trong 13 năm (2010-

2022) phục vụ cho kiểm định và phân tích nhân tố.

· Kiểm định độ tin cậy của thang đo

Để tiến hành phân tích nhân tố khám phá, cần kiểm định sự phù hợp của số liệu

bằng phương pháp kiểm định Cronbach’s Alpha và điều kiện phân tích nhân tố khám

phá (KMO test và Bartlett test). Sử dụng phần mềm SPSS.26, thu được bảng kết quả

kiểm định:

Bảng 4.1. Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha về sự phù hợp của dữ liệu

Hệ số

Các khía cạnh Các biến quan sát Cronbach’s STT Alpha

1 Điều kiện tự nhiên diahinh, biengioi, khihau, dist 0,935

2 Quy mô danso, sumhhbl, thuNS, grdp 0,939

3 Điều kiện phát triển doanh nghiệp ldbqdn, tscddn, bqgrdp 0,756

4 Cơ sở hạ tầng xã hội tllddt, chikhcn, chiyte 0,861

5 Điều kiện vĩ mô dt_grdp, dtc_grdp, csttld 0,764

6 Dự trữ tài nguyên datdai, rung, khsan 0,691

Bảng 4.1 thể hiện hệ số Cronbch’s Alpha của các nhóm biến theo từng khía cạnh.

Theo lý thuyết, hệ số Cronbch’s Alpha >=0,6 thì các dữ liệu phân tích có thể được chấp

nhận. Qua phân tích, kết quả cho thấy, từ 27 biến quan sát dự kiến ban đầu, sau khi loại

● Phân tích nhân tố khám phá

bỏ các biến không phù hợp, còn lại 21 biến phục vụ phân tích nhân tố khám phá tiếp theo.

Như vậy, từ 25 biến quan sát ban đầu, sau kiểm định còn lại 20 biến quan sát đủ

điều kiện để thực hiện phân tích nhân tố. Kết quả cuối cùng có được Ma trận xoay gồm 20 biến lập thành 6 nhân tố như được trình bày ở Bảng 4.2 (Phụ lục 2)

Kiểm định KMO và Barlett (Bảng 4.2): Hệ số KMO là 0,865 > 0,6 cho thấy số liệu phù hợp cho phân tích nhân tố. Kiểm định Barlett nhằm xác định mức độ tương quan của các biến quan sát, kết quả Bảng 4.2 cho thấy giá trị sig. của Barlett test = 0, chứng tỏ các biến quan sát là có tương quan với nhau. Như vậy, các kết quả kiểm định

đều cho thấy dữ liệu thỏa mãn điều kiện phân tích nhân tố. Với 6 nhân tố (khía cạnh)

phản ánh đặc thù phát triển vùng/địa phương được kết luận qua phân tích nhân tố, thực

hiện kiểm định lại Cronbach’s Alpha, kết quả cho thấy số liệu phân tích là phù hợp.

100

Bảng 4.2. KMO and Bartlett's Test

Kaiser- Meyer – Olkin Measure of Sampling Adequacy 0,865

Approx. Chi - Square 13925,312 Bartlett’s Test of df 190 Sphericity Sig. 0,000

Từ kết quả phân tích nhân tố, có thể diễn giải các nhân tố xác định lợi thế phát

triển vùng (đặc thù về điều kiện phát triển) tại Bảng 4.3 như sau:

Bảng 4.3. Các nhân tố/khía cạnh cấu thành lợi thế phát triển vùng

Các biến số thành Định danh nhân tố Nhân tố phần của nhân tố

diahinh

biengioi Lợi thế tự nhiên 1. Điều kiện tự nhiên, an ninh biên giới khihau

dist

danso

sumhhbl 2. Quy mô địa phương Lợi thế quy mô thuNS

grdp

ldbqdn

3. Điều kiện phát triển doanh nghiệp tscddn Lợi thế vi mô bqgrdp

tylelddt

4. Cơ sở hạ tầng xã hội chikhcn Lợi thế hạ tầng xã

hội (HTXH) chiyte

dt_grdp

5. Điều kiện phát triển vĩ mô chisottld Lợi thế vĩ mô dtc_grdp

khsan

Lợi thế tài nguyên 6. Dự trữ tài nguyên datdai

rung

● Xây dựng chỉ số lợi thế tổng hợp đánh giá đặc thù về điều kiện phát triển vùng

101

Sáu nhân tố đã xác định bằng phân tích nhân tố trên đây được thuật toán tính toán

và được chuẩn hóa để đưa về thang điểm 10 theo phương pháp của VCCI & USAID

(2018) như sau:

RAIit =9* (Fit-minFit)/(maxFit-minFit)+ 1 (4.1)

Trong đó: RAI là giá trị biến lợi thế (Đặc thù phát triển) của tỉnh/thành phố sau

khi chuẩn hóa; F là điểm nhân tố được tính toán bằng phân tích nhân tố, minF là điểm

nhân tố thấp nhất và maxF là điểm nhân tố cao nhất trong chuỗi dữ liệu; i là chỉ số tỉnh

và t là chỉ số năm.

Phân tích nhân tố khám phá cho kết quả Tổng phương sai được giải thích trong

Bảng 4.4 sau đây:

Bảng 4.4. Tổng phương sai được giải thích (Total Variance Explained)

Rotation Sums of Squared Loadings Tỷ trọng nhân tố Component điều chỉnh (%) Total % of Variance Cumulative %

1 3.697 18.486 18.486 23.193

2 3.516 17.578 36.064 22.054

3 2.273 11.365 47.429 14.259

4 2.254 11.268 58.697 14.137

5 2.148 10.741 69.438 13.476

6 2.053 10.267 79.705 12.881

Nguồn: Tính toán từ bảng Total Variance Explained

Sử dụng tỷ trọng của các nhân tố trong việc giải thích sự thay đổi của tập hợp giá

trị (dựa trên Rotation Sums of Squared Loadings được điều chỉnh để tổng bằng 1 theo

bảng 4.5) có thể tính được chỉ số lợi thế tổng hợp theo công thức sau đây:

RAI = 0,23193 *Lợi thế tự nhiên+ 0,22054*Lợi thế quy mô + 0,14259* Lợi thế vi mô

+ 0,14137*Lợi thế HTXH+0,13476*Lợi thế vĩ mô+0,12881*Lợi thế tài nguyên (4.2)

Qua hệ thức (4.2) cho thấy, các nhân tố đóng góp nhiều cho lợi thế phát triển là

điều kiện tự nhiên (Địa hình thuận lợi, thời tiết ôn hòa, vị trí trung tâm…) và Lợi thế

quy mô (Dân số, sức cầu, sản lượng và thu ngân sách). Lợi thế về cạnh tranh vi mô và

cơ sở hạ tầng xã hội có trọng số đóng góp trung bình và cao hơn lợi thế về vĩ mô và tài

nguyên thiên nhiên.

4.1.2. Đánh giá tính đặc thù về điều kiện phát triển của vùng TD&MNPB

102

Dựa vào biểu thức (4.2), trên cơ sở dữ liệu các địa phương, ta tính được các chỉ

số phản ánh lợi thế (đặc thù) địa phương theo các năm. Như vậy, với 63 tỉnh/thành trong

cả nước, qua 13 năm quan sát (2010-2022), ta có Chỉ số lợi thế phát triển tổng hợp của

các địa phương gồm 819 giá trị. Chỉ số Lợi thế tổng hợp RAI được coi là biến đại diện

cho mức độ Đặc thù của các vùng/địa phương.

Từ kết quả tính chỉ số lợi thế tổng hợp của 63 tỉnh/thành trong cả nước giai đoạn

2010-2022 theo hệ thức (4.2), có thể tính được chỉ số lợi thế phát triển tổng hợp trung bình của các địa phương và vùng thể hiện ở bảng 4.5 sau đây:

CSLT

CSLT

CSLT

CSLT

CSLT

CSLT

Tỉnh

Tỉnh

Tỉnh

Tỉnh

vùng

Tỉnh

vùng

Tỉnh

vùng

Hà Nội

6,708

S. Trăng 4,716

BR- VT

5,045

V. Phúc

5,660

BạcLiêu

4,695

TP HCM

6,518

Đồng

B.Ninh

6,300

Cà Mau

4,990

Th. Hóa

6,238

Bằng

Bắc

H.Giang

3,889

Ng. An

Q.Ninh

6,259

5,636

Sông

Trung

C. Bằng

3,892

Hà Tĩnh

5,202

H.Dương 6,077

Hồng

Trung Du

Bộ

Bắc Cạn

H.Phòng 6,535

3,694

Q. Bình

4,346

H. Yên

5,717

T. Quang 3,492

Q. Trị

4,448

Và Miền

Duyên

Bảng 4.5. Chỉ số lợi thế địa phương và vùng trung bình (2010-2022)

Lào Cai

T.Bình

6,703

4,370

TT-Huế

5,088

Núi

Hải

Yên Bái

H.Nam

5,726

4,250

Đà Nẵng

6,041

N.Định

6,157

T.Nguyên 5,312

Q. Nam

5,347

Phía Bắc

Miền Trung

N. Bình

5,862

Lạng Sơn 4,095

Q.Ngãi

5,576

(6,155)

L.An

5,298

B. Giang 5,673

B. Định

5,945

Phú Thọ

T.Giang

6,070

5,613

Phú Yên

4,958

Đồng

Đ. Biên

Bến Tre

6,119

3,725

Kh.Hòa

6,048

Bằng

TràVinh

5,760

Lai Châu 3,447

N.Thuận

4,814

Sông

Sơn La

V. Long

5,015

4,217

B.Thuận

5,182

Cửu

H. Bình

K. Tum

4,243

Đ. Tháp

5,009

4,249

Long

A. Giang 5,235 Đông

B.Phước

4,787

Gia Lai

3,995

Tây Nguyên

K. Giang 5,281

T. Ninh

4,505

Đ. Lăk

4,542

(5,318)

(4,345)

Nam Bộ

Cần Thơ 5,653

B.Dương 6,094

Đ. Nông

3,798

(4,308) (5,348)

H. Giang 5,298

L. Đồng

5,148

5,944

Đ. Nai Nguồn: Tính toán từ kết quả phân tích nhân tố

(5,482)

103

Qua kết quả ở Bảng 4.5 cho thấy: Vùng TD&MNPB có chỉ số lợi thế thấp nhất,

tức là vùng có điều kiện phát triển đặc thù (khó khăn) nhất trong 6 vùng của cả nước

(RAI = 4,308), tiếp đến là vùng Tây Nguyên có điều kiện đặc thù thứ 2 với RAI = 4,345.

Vùng Đồng Bằng Sông Hồng có chỉ số lợi thế cao nhất (RAI= 6,155); Cao thứ hai là

vùng Đông Nam bộ (RAI = 5,482), 2 vùng còn lại là Bắc Trung bộ và Duyên Hải miền

Trung và vùng Đồng bằng sông Cửu Long có chỉ số trung bình xấp xỉ nhau (RAI = 5,348

và RAI = 5,318). Với chỉ số trung bình của 6 vùng là 5,159 cho thấy, hai vùng

TD&MNPB và Tây nguyên có lợi thế phát triển tổng hợp thấp hơn mức trung bình cả

nước, cũng là 2 vùng có tính đặc thù cao về điều kiện phát triển, trong đó vùng

TD&MNPB có tính đặc thù cao nhất.

Xét nội bộ vùng TD&MNPB, với khoảng thời gian xem xét 2010-2022, cho thấy

trong số 14 tỉnh, chỉ có 3 tỉnh có chỉ số lợi thế cao hơn mức trung bình của cả nước là

Phú Thọ (RAI = 5,713), Bắc Giang (RAI= 5,673) và Thái Nguyên (RAI=5,412). Vùng

hiện có 11/14 tỉnh có chỉ số lợi thế vào loại thấp nhất cả nước, điều này nói lên các địa

phương thực sự có nhiều khó khăn trong phát triển để đạt được trình độ phát triển trung

bình của cả nước. Về nguyên nhân và biểu hiện của thực trạng này, ở phần định lượng

một lần nữa củng cố thêm những nhận xét đã được đưa ra trong đánh giá thực trạng ở

chương 3 của luận án. Thật vậy, hệ thức (4.2) cho thấy các nhân tố như điều kiện tự

nhiên, lợi thế về quy mô, về cạnh tranh vi mô và cơ sở hạ tầng có trọng số đóng góp lớn

trong chỉ số lợi thế tổng hợp, tuy nhiên các nhân tố này lại có trị số nhỏ đối với hầu hết

các địa phương của vùng. Trong khi đó, các tỉnh thuộc vùng TD&MNPB có nguồn dự

trữ tài nguyên phong phú, song chưa có điều kiện khai thác, vẫn còn ở dạng tiềm năng,

4.2. Phân tích tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng Trung du và miền núi phía bắc

4.2.1. Mô hình tổng quát

do đó trọng số là nhỏ nhất trong hệ thức (4.2).

Như đã trình bày trong phần phương pháp nghiên cứu ở chương 2, để phân tích

tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế, luận án sử dụng mô hình hàm sản xuất

mở rộng dưới dạng Logarit sau đây:

(cid:3397) (cid:3) (cid:2013)(cid:1861)(cid:1872)(cid:3)(cid:4666)(cid:886)(cid:484)(cid:887)(cid:4667)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)

(cid:1864)(cid:1866)(cid:1859)(cid:1870)(cid:1856)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3404) (cid:3) (cid:2010)(cid:2868) (cid:3397) (cid:3) (cid:2010)(cid:2869)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1859)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2870)(cid:3)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2871)(cid:3)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1864)(cid:1854)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2872)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1858)(cid:1856)(cid:1861)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:890)(cid:1844)(cid:1827)(cid:1835)(cid:1861)(cid:1872) (cid:3397) (cid:3) (cid:1874)(cid:1861) (cid:3)

104

Trong đó grdp là tổng sản phẩm nội vùng/tỉnh, lb là lao động, ip là đầu tư tư nhân,

ig là vốn đầu tư công, fdi là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, RAI là chỉ số lợi thế phát

triển vùng/địa phương (Regional advantage index).

Mục đích ước lượng mô hình là đánh giá tác động của các biến số đến sản lượng của

các tỉnh/thành và vùng, trong đó đặc biệt là nghiên cứu tác động của đầu tư công đến tăng

trưởng sản lượng trong điều kiện có sự khác nhau về lợi thế phát triển giữa các tỉnh/thành

và vùng. Để thực hiện mục tiêu đó, mô hình ước lượng sẽ sử dụng biến tương tác giữa Đầu

tư công và Lợi thế phát triển vùng. Vì vậy mô hình ước lượng được điều chỉnh như sau:

(cid:3397) (cid:1874)(cid:1861) (cid:3397) (cid:3) (cid:2013)(cid:1861)(cid:1872)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:4666)(cid:886)(cid:484)(cid:889)(cid:4667)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)

(cid:1864)(cid:1866)(cid:1859)(cid:1870)(cid:1856)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3404) (cid:3) (cid:2010)(cid:2868) (cid:3397) (cid:3) (cid:2010)(cid:2869)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1859)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2870)(cid:3)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2871)(cid:3)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1864)(cid:1854)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2872)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1858)(cid:1856)(cid:1861)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2873)(cid:1844)(cid:1827)(cid:1835)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3) Phương trình (4.6) có thể viết lại như sau: (cid:3397) (cid:2010)(cid:888)(cid:3435)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1859)(cid:1861)(cid:1872) (cid:1499) (cid:3) (cid:1844)(cid:1827)(cid:1835)(cid:1861)(cid:1872) (cid:3439) (cid:3397) (cid:1874)(cid:1861) (cid:3) (cid:3397) (cid:3) (cid:2013)(cid:1861)(cid:1872)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:4666)(cid:886)(cid:484)(cid:888)(cid:4667)(cid:3)

(cid:1864)(cid:1866)(cid:1859)(cid:1870)(cid:1856)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3404) (cid:3) (cid:2010)(cid:2868) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2870)(cid:3)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2871)(cid:3)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1864)(cid:1854)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2872)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1858)(cid:1856)(cid:1861)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2873)(cid:1844)(cid:1827)(cid:1835)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3) (cid:3397) (cid:4666)(cid:2010)(cid:883) (cid:3397) (cid:2010)(cid:888)(cid:1844)(cid:1827)(cid:1835)(cid:1861)(cid:1872)(cid:4667)(cid:3)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1859)(cid:1861)(cid:1872) phản ánh mức độ Trong phương trình (4.7), giá trị của hệ số

tác động của đầu tư công đến sản lượng trong điều kiện tính đến đặc thù của các vùng/địa (cid:4666)(cid:2236)(cid:2778) (cid:3397) (cid:2236)(cid:2783) (cid:1499) (cid:2174)(cid:2157)(cid:2165)(cid:2191)(cid:2202)(cid:4667) phương. Rõ ràng: Nếu mang dấu dương, tác động của đầu tư công đến tăng trưởng

kinh tế sẽ tăng lên khi địa phương có lợi thế lớn hơn (cũng tức là tính đặc thù thấp hơn) và (cid:2236)(cid:2783) mang dấu âm, tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế sẽ giảm ngược lại; nếu

4.2.2. Mô tả các biến của mô hình và dữ liệu nghiên cứu

xuống khi địa phương có lợi thế cao hơn (cũng tức là tính đặc thù- khó khăn thấp hơn). (cid:2236)(cid:2783)

Nội dung và giả thiết về các biến số được trình bày trong Bảng 4.6 sau đây:

Bảng 4.6. Giải thích các biến sử dụng trong mô hình

Nội dung biến Vai trò Giả thiết TT Tên biến

1 lngrdp Logarit SP nội tỉnh Biến phụ thuộc ----

2 lnig Logarit vốn đầu tư công Biến độc lập Tác động tích cực (+)

3 lnip Logarit vốn đầu tư tư nhân Biến độc lập Tác động tích cực (+)

4 lnlb Logarit lao động làm việc Biến độc lập Tác động tích cực (+)

5 lnfdi Logarit vốn ĐTTTNN Biến độc lập Tác động tích cực (+)

6 RAI Chỉ số lợi thế tổng hợp Biến độc lập (+/-)

Biến RAI là chỉ số lợi thế tổng hợp, phản ánh tổng hợp lợi thế về phát triển của

vùng/địa phương đã được trình bày trong mục 4.1. Luận án đưa ra giả thiết rằng, chỉ số RAI cũng là chỉ số phản ánh nét đặc thù về điều kiện phát triển của các địa phương

105

theo nghĩa, địa phương có chỉ số RAI cao, tức là đặc thù khó khăn phát triển thấp và

ngược lại. Luận án cũng đã thực hiện kiểm định giả thiết đó và cho thấy, các tỉnh/vùng

có điều kiện phát triển khó khăn như vùng TD&MNPB, vùng Tây nguyên thì có chỉ

số RAI thấp. Ngược lại các địa phương có điều kiện thuận lợi như vùng Đồng Bằng

Sông Hồng, vùng Đông Nam bộ có chỉ số RAI cao, 2 vùng còn lại có chỉ số trung bình.

Ngoài biến RAI đã được tính toán trong mục 4.1 của Luận án, số liệu về các

biến khác đều được thu thập và tổng hợp từ Niên giám thống kê các tỉnh/Thành phố

trong cả nước, từ Niên giám thống kê cả nước, giai đoạn 2010-2022. Cụ thể:

- Số liệu về sản lượng (GRDP) được thu thập từ niên giám thống kê của cả nước và

của 63 tỉnh/thành phố, giai đoạn 2010 - 2022, đơn vị tính tỷ đồng theo giá cố định 2010.

- Số liệu về vốn đầu tư công bao gồm: vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn

tín dụng cho đầu tư và vốn khác được thu thập từ niên giám thống kê của 63 tỉnh/thành

phố trong cả nước, giai đoạn 2010 - 2022, đơn vị tính tỷ đồng theo giá cố định 2010.

- Số liệu về vốn FDI được thu thập từ niên giám thống kê của 63 tỉnh/thành phố

trong cả nước, giai đoạn 2010 - 2022, đơn vị tính tỷ đồng theo giá cố định 2010.

- Số liệu về vốn tư nhân bao gồm vốn tư nhân trong nước được thu thập từ niên

giám thống kê của 63 tỉnh/thành phố trong cả nước, giai đoạn 2010 - 2022, đơn vị tính tỷ đồng theo giá cố định 2010.

- Số liệu về lao động (lb - đơn vị tính 1000 người) và về tỷ trọng nông nghiệp

trong GRDP (sagr) tính theo %, được thu thập từ niên giám thống kê của 63 tỉnh/thành

4.2.3. Thực hiện các kiểm định về điều kiện ước lượng mô hình

phố trong cả nước, giai đoạn 2010 - 2022.

a. Thống kê mô tả các biến số

Bảng 4.7. Thống kê mô tả các biến dạng logarith

Mean Std. dev. Min Max Số quan sát Biến

lngrdp 819 10,51337 0,9369336 8,16166 13,81551

lnig 819 8,366626 0,7638218 7.001245 11,53294

lnip 819 9,035713 0,9611816 0,6931472 12,41119

lnlb 819 6,549648 0,569562 4,973971 8,481773

lnfdi 819 6,225593 2,871006 -0,9162908 11,24464

RAI 819 5,18506 0,89611 0,116683 7,10971

106

b. Hệ số tương quan các biến độc lập

Kiểm định Hệ số tương quan các biến cho thấy một số cặp biến có hệ số tương

quan cao, vì vậy khả năng tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến là khá lớn. Đặc biệt khi

đưa biến tương tác giữa đầu tư công và chỉ số lợi thế tổng hợp vào mô hình, khả năng

xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến là cao. Vì vậy cần kiểm định tính đa công tuyến.

c. Kiểm định đa cộng tuyến

Thông thường việc sử dụng biến tương tác giữa các biến liên tục thường dẫn đến

đa cộng tuyến nghiêm trọng. Luận án đã tiến hành kiểm định và kết quả cho thấy đúng

như vậy. Để khắc phục hiện tượng đa công tuyến, thay vì đưa các biến RAI, lnig và

RAI*lnig ta đưa các biến đã trung tâm hóa: rai_ttv2; lnig_ttv2 và biến tương tác

railnig_ttv2 vào mô hình, trong đó:

rai_ttv2 = rai_v2 - mean (rai_v2)

lnig_ttv2 = lnig_v2 - mean (lnig_v2)

railnig_ttv2 = rai_ttv2* lnig_ttv2

mean (rai_v2) = 4,308602 và mean (lnig_v2) = 8,024056 là giá trị trung bình

của dãy biến RAI và biến lnig của Vùng TD&MNPB (vùng 2).

Kết quả kiểm định cho ở bảng 4.8 chứng tỏ hiện tượng đa cộng tuyến đã được

khắc phục.

Bảng 4.8. Kiểm định đa cộng tuyến giữa các biến của mô hình

Mô hình với biến đã trung tâm hóa Mô hình với biến ban đầu

railnig

610.11

0.001639

rai_ttv2

4.56

0.219122

rai

430.38

0.002324

lnfdi

3.19

0.313965

lnig

38.82

0.025757

lnlb

2.72

0.367719

lnfdi

0.313965

lnip

3.19

2.00

0.499544

lnlb

2.72

0.367718

lnig_ttv2

1.61

0.621433

lnip

2.00

0.499544

railnig_ttv2

1.14

0.877233

Mean VIF

181.20

2.54

Biến VIF 1/VIF Biến VIF 1/VIF

d. Kiểm định tính dừng và đồng liên kết của các chuỗi dữ liệu các biến

Dữ liệu sử dụng cho ước lượng mô hình là dữ liệu bảng, với số đối tượng quan

sát là N=63 và thời gian nghiên cứu trong 13 năm (T=13). Do T< < N nên thông

107

thường việc kiểm định tính dừng và đồng liên kết không cần đặt ra. Tuy nhiên để

đảm bảo chắc chắn, tác giả đã thực hiện kiểm định đồng liên kết theo tiêu chuẩn

Westerlund, kết quả cho thấy các biến độc lập không có hiện tượng đồng liên kết, tức không tồn tại mối quan hệ dài hạn (Bảng 4.3 – Phụ lục 2). Vì vậy, để ước lượng mô hình (4.6) trên dữ liệu bảng, tác giả không sử dụng phương pháp ARDL mà sử

dụng các kỹ thuật ước lượng OLS (POOL), hiệu ứng tác động cố định (FEM), hiệu

ứng tác động ngẫu nhiên (REM), phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát khả

4.2.4. Ước lượng mô hình tác động của ĐTC đến sản lượng của vùng Trung

du và miền núi phía bắc theo mô hình FGLS

thi (FGLS) và phương pháp GMM.

a. Trường hợp mô hình không sử dụng biến tương tác

Trường hợp này, mô hình ước lượng có dạng sau:

(4.8)

(cid:1864)(cid:1866)(cid:1859)(cid:1870)(cid:1856)(cid:1868) (cid:3404) (cid:3) (cid:2010)(cid:2868) (cid:3397) (cid:3) (cid:2010)(cid:2869)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1838)(cid:1854)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:3) (cid:2010)(cid:2870)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1835)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2871)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1835)(cid:1859)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2872)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1832)(cid:1856)(cid:1861)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2873)(cid:1844)(cid:1827)(cid:1835)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) Trong mô hình này không đưa các biến sagr, tlldđt và open vì ảnh hưởng của

(cid:3)(cid:1847)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:1874)(cid:3036) các biến này đã được thể hiện trong biến RAI. Thực hiện ước lượng hồi quy dữ liệu

bảng theo quy trình từ hồi quy gộp (POOL), tác động cố định (FEM), tác động ngẫu

nhiên (REM), kiểm định Hausman để lựa chọn mô hình và khắc phục hiện tượng phương sai không đồng nhất bằng mô hình FGLS ta thu được kết quả trong bảng 4.9 sau đây:

Cần nói rõ hơn là, việc lựa chọn phương pháp Hồi quy dữ liệu bảng thông

thường trên đây là căn cứ vào lý thuyết mô hình khi dữ liệu sử dụng của luận án có

số đơn vị nghiên cứu là 63 tỉnh/thành, trong khi thời gian nghiên cứu chỉ gồm 13 năm

(2010-2022), tức N >> T, do vậy là phù hợp. Hơn nữa để đảm bảo yêu cầu, tác giả

cũng đã tiến hành các kiểm định về sự phụ thuộc chéo của các chuỗi dữ liệu, tính

dừng và tính đồng liên kết. Kết quả kiểm định cho thấy, các chuỗi có sự phụ thuộc

chéo, có tính dừng theo kiểm định thế hệ thứ hai và không có đồng liên kết (kiểm định Westerlund).

b. Trường hợp mô hình có sử dụng biến tương tác

Mô hình ước lượng có dạng sau:

(cid:3397) (cid:3) (cid:2010)(cid:891)(cid:3435)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1859)(cid:1861)(cid:1872) (cid:1499) (cid:3) (cid:1844)(cid:1827)(cid:1835)(cid:1861)(cid:1872)

(cid:1864)(cid:1866)(cid:1859)(cid:1870)(cid:1856)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3404) (cid:3) (cid:2010)(cid:2868) (cid:3397) (cid:3) (cid:2010)(cid:2869)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1859)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2870)(cid:3)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2871)(cid:3)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1864)(cid:1854)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2872)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1858)(cid:1856)(cid:1861)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2873)(cid:1844)(cid:1827)(cid:1835)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)

(cid:3439) (cid:3397) (cid:1874)(cid:1861) (cid:3) (cid:3397) (cid:3) (cid:2013)(cid:1861)(cid:1872)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:4666)(cid:886)(cid:484)(cid:891)(cid:4667)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)

108

Kết quả ước lượng được cho thể hiện trên bảng 4.9 sau đây:

Bảng 4.9. Kết quả ước lượng FGLS cho vùng TD&MNPB

lngrdp

Coefficient Std. err.

z

P>z

Std. err.

z

P>z

lngrdp

lnlb

.501314

.0566934 8.84 0.000

lnlb

.500997

.0566949 8.84 0.000

lnig_v2

.2805326

.0442287 6.34 0.000

lnig_ttv2

.2888557

.0464116 6.22 0.000

rai_v2

-.1387567

.0426228

-3.26 0.001

rai_ttv2

-.1417585

.0430618

-3.29 0.001

railnig_ttv2

.0412987

.0589724 0.70 0.484

Không có biến tương tác Có biến tương tác

lnip

.4023571

.031069 12.95 0.000

lnip

.4030445

.0309942 13.00 0.000

lnfdi

.0739547

.0078447 9.43 0.000

lnfdi

.0727925

.0078814 9.24 0.000

_cons

1.366871

.4055899 3.37 0.001

_cons

3.013106

.3544608 8.50 0.000

--- --- --- --- ---

Nguồn: Phụ lục 2 -Bảng 4.5 và 4.6.

Nhận xét: Khi ước lượng mô hình sản lượng của vùng bằng phương pháp FGLS

(bình phương nhỏ nhất tổng quát khả thi) trong cả hai trường hợp (không có biến tương

tác và có biến tương tác) cho thấy hầu hết các hệ số hồi quy đều có ý nghĩa thống kê,

giá trị của các hệ số là xấp xỉ nhau, tuy nhiên hệ số của biến tương tác là không có ý

nghĩa thống kê. Điều đó cho thấy, trong nội bộ vùng TD&MNPB, yếu tố lợi thế phát

triển (RAI) không ảnh hưởng đến mức độ tác động của Đầu tư công đối với sản lượng.

Nghĩa là, chênh lệch lợi thế giữa các địa phương trong vùng không có ảnh hưởng đến

quan hệ tác động của Đầu tư công đến sản lượng của các địa phương. Trên thực tế, trong 14 tỉnh của vùng, chỉ có 5 tỉnh là có lợi thế phát triển cao hơn mức trung bình của vùng,

còn lại 9 tỉnh khác có chỉ số lợi thế phát triển thấp hơn trung bình. Điều đó làm cho ảnh

hưởng của yếu tố lợi thế phát triển đến tác động của đầu tư công đối với sản lượng là

không rõ ràng. Mặc dù mô hình FGLS cho kết quả khá thống nhất khi đưa biến tương

tác vào mô hình, vấn đề khắc phục hiện tượng phương sai sai số thay đổi đã được khắc

phục, tuy nhiên vấn đề đặt ra là liệu có chắc chắn rằng biến tương tác trong mô hình là

không có ý nghĩa thống kê, liệu có vấn đề nội sinh làm giảm độ tin cậy của mô hình ước

lượng? Để trả lời câu hỏi đó, NCS đã thực hiện kiểm định tính nội sinh bằng kiểm định

Durbin - Wo Hausman.

Kiểm định tính nội sinh các biến (Kiểm định Durbin - Wo Hausman)

Để tiến hành xác định mô hình nghiên cứu có bị hiện tượng nội sinh hay nói cách

khác là có chứa biến nội sinh hay không, ta sử dụng kiểm định Durbin Wu- Hausman

để kiểm tra, cụ thể tiến hành theo các bước sau đây:

109

Bước 1: Tiến hành hồi quy mô hình cần xác định biến nội sinh bằng phương pháp

ivregress 2sls với lần lượt phép thử cho từng biến độc lập trong mô hình với trễ của

chúng là biến công cụ.

Bước 2: Kiểm tra mô hình đã hồi quy bằng test nội sinh trong Stata.

Bước 3: Từ kết quả p-value của kiểm định Durbin Wu - Hausman, bác bỏ hoặc

chấp nhận H0: Biến không bị nội sinh. Nếu chấp nhận thì biến đó không nội sinh, ngược

lại nếu bác bỏ, tức là biến bị nội sinh.

Với phương pháp kiểm định trên, thực hiện với tất cả các biến độc lập, ta có kết

quả sau đây (Bảng 4.10) (Xem thêm Phụ lục 2 -Bảng 4.4).

Bảng 4.10. Kết quả kiểm định tính nội sinh các biến

Durbin Wu - Hausman Kết luận Biến số

lnig .403597 .398471 Ngoại sinh

(p = 0.5252) (p = 0.5281)

Nội sinh lnip 8.92561 8.91278

(p = 0.0028) (p = 0.0029)

lnlb .861305 .850881 Ngoại sinh

(p = 0.3534) (p = 0.3566)

Nội sinh lnfdi 13.2157 13.2729

(p = 0.0003) (p = 0.0003)

RAI .006702 .006613 Ngoại sinh

(p = 0.9348) (p = 0.9352)

Qua kiểm định cho thấy, trong 6 biến độc lập có 2 biến (lnip và lnfdi) là nội sinh,

các biến còn lại là biến ngoại sinh. Vì vậy cần khắc phục tính nội sinh bằng việc sử dụng

phương pháp ước lượng GMM (Phương pháp mô men tổng quát).

c. Ước lượng tác động của Đầu tư công đến sản lượng Vùng Trung du và

miền núi phía bắc theo mô hình GMM

Mô hình có dạng:

(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)

(cid:1864)(cid:1866)(cid:1859)(cid:1870)(cid:1856)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3404) (cid:3) (cid:2010)(cid:2868) (cid:3397) (cid:3) (cid:2010)(cid:2869)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1859)(cid:1870)(cid:1856)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047)(cid:2879)(cid:2869) (cid:3397) (cid:3) (cid:2010)(cid:2870)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1859)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2871)(cid:3)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2872)(cid:3)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1864)(cid:1854)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2873)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1858)(cid:1856)(cid:1861)(cid:3036)(cid:3047)

(cid:3397) (cid:2010)(cid:2874)(cid:1844)(cid:1827)(cid:1835)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3) (cid:3397) (cid:3) (cid:2010)(cid:889)(cid:3435)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1859)(cid:1861)(cid:1872) (cid:1499) (cid:3) (cid:1844)(cid:1827)(cid:1835)(cid:1861)(cid:1872) (cid:3439) (cid:3397) (cid:3) (cid:3397)(cid:1874)(cid:1861) (cid:3) (cid:3397) (cid:3) (cid:2013)(cid:1861)(cid:1872)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:4666)(cid:886)(cid:484)(cid:883)(cid:882)(cid:4667)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3) ước lượng GMM của tác giả Arellano & Bond (1991) là một phương pháp được

thiết kế thích hợp với mô hình dữ liệu bảng (Panel Data) và có đặc tính mẫu bao gồm

110

nhiều đối tượng và thời gian quan sát không dài. Phương pháp GMM giúp giải quyết

vấn đề nội sinh mà các phương pháp ước lượng thông thường như OLS, FEM, REM

hay FGLS không thể giải quyết được. Một số kiểm định quan trọng trong phương pháp

GMM bao gồm: Tương quan chuỗi bậc 1 AR(1), tương quan chuỗi bậc 2 AR(2), kiểm

định Hasen/Sagan Test để kiểm tra tính phù hợp của các biến công cụ sử dụng trong mô

hình. Nói chung, điều kiện thỏa mãn cần thiết cho các kiểm định này là P > 0,05 (ngoại

trừ kiểm định AR(1) yêu cầu P< 0,05). Mô hình cần được thỏa mãn với số biến công cụ

sử dụng <= số đối tượng trong mẫu.

Sử dụng lệnh Stabond2 trên Stata 17, thu được kết quả trên bảng 4.11 sau đây:

Coefficient

Bảng 4.11. Kết quả ước lượng GMM hàm sản lượng vùng TD&MNPB

.8097898

.0807682

10.03

0.000

Std. err. t P >t lngrdp

0.060

rai_ttv2

-.3399108

.1653218

-2.06

lnig_ttv2

.2843143

.0625248

4.55

0.001

0.983

railnig_ttv2

.0017965

.080441

0.02

0.144

lnip

.1416015

.0910992

1.55

lnfdi

.0508591

.0196781

2.58

0.023

lnlb

.1682239

.0670062

2.51

0.026

_cons

-.5203045

.6539941

-0.80

0.441

LngrdpL1.

Nguồn: Phụ lục 2- Bảng 4.7

Bảng 4.12. So sánh kết quả ước lượng theo GMM và FGLS của vùng TD&MNPB

Coefficient Std. err.

.8097898

.0807682 10.03 0.000

Phương pháp GMM Phương pháp FGLS lngrdp t P >t Coefficient Std. err. t P >t

rai_ttv2

-.3399108

.1653218

-.1417585

.0430618

-3.29

0.001

lnig_ttv2

.2843143

.0625248

.2888557

.0464116

6.22

0.000

-2.06 0.060 0.001 4.55 0.983 0.144

railnig_ttv2 lnip

.0017965 .1416015

.080441 .0910992

0.02 1.55

.0412987 .4030445

.0589724 .0309942

0.70 13.00

0.484 0.000

lnfdi lnlb _cons

.0508591 .1682239 -.5203045

.0196781 .0670062 .6539941

0.023 2.58 2.51 0.026 -0.80 0.441

.0727925 .500997 3.013106

.0078814 .0566949 .3544608

9.24 8.84 8.50

0.000 0.000 0.000

LngrdpL1. --- --- --- ---

Nguồn: Kết quả lấy từ bảng 4.10 và bảng 4.12

111

Nhận xét: Kết quả ước lượng mô hình bằng phương pháp GMM đảm bảo thỏa mãn tất cả các tiêu chuẩn kiểm định. Bảng 4.7 - Phụ lục 2 cho thấy: Kiểm định tự tương quan đối với AR(1) có P= 0,018 < 0,05; đối với chuỗi AR(2) có P= 0,573 > 0,05. Các kiểm

định Sargan và Hansen đều có P > 0,3 chứng tỏ các biến công cụ được sử dụng phù hợp.

Số biến công cụ sử dụng = số đối tượng trong mẫu =14 là thỏa mãn yêu cầu. Do đã xử lý

biến nội sinh nên mô hình GMM có độ tin cậy cao hơn và được NCS sử dụng cho phân tích. Theo kết quả bảng 4.11, biến lnig_ttv2 có ý nghĩa thống kê tốt và giá trị = 0,2843143 (xấp xỉ trong mô hình FGLS – so sánh ở Bảng 4.12), tức là đầu tư công có tác động tích

cực đến sản lượng của vùng. Biến tương tác railnig_ttv2 không có ý nghĩa thống kê, chứng

tỏ trong nội bộ Vùng, sự khác nhau về lợi thế phát triển giữa các địa phương không ảnh

hưởng đến mức tác động của Đầu tư công đến sản lượng. Ngoại trừ biến lnip (đầu tư tư

nhân), còn lại các biến lnfdi, lnlb đều có ý nghĩa thống kê và tác động tích cực đến sản

lượng là phù hợp với giả thiết.

d. Tác động của đầu tư công đến thu nhập bình quân đầu người của vùng

Coefficient

Bảng 4.13. Kết quả ước lượng tác động của ĐTC đến TNBQ đầu người của vùng

0,7102245

0,0600591

11,83

lngrdp_per L1. lnig_ttv2 RAI_ttv2 RAIlnig_ttv2 lnip lnfdi lnlb _cons

0,345863 -0,3973251 0,0258451 0,1180108 0,0611332 0,0318474 -0,4885117

0,1267883 0,1989201 0,1926357 0,1258186 0,0167417 0,0775022 1,127472

2,73 -2,00 0,13 0,94 3,65 0,41 -0,43

0,000 0,017 0,067 0,895 0,365 0,003 0,688 0,672

Std. err. t P >t Lngrdp_per

Nguồn: Phụ lục 2 – Bảng 4.8

Nhận xét: Phụ lục 2- Bảng 4.8 cho thấy các tiêu chuẩn kiểm định đều thỏa mãn

tốt yêu cầu ước lượng. Với kết quả ước lượng ở bảng 4.13 trên cho thấy, vốn đầu tư

công có tác động mạnh đến thu nhập bình quân đầu người tại Vùng (biến lnig_ttv2 với

hệ số = 0,345863 và có ý nghĩa thống kê); biến tương tác (RAIlnig_ttv2) không có ý

nghĩa thống kê, cho thấy sự khác nhau về lợi thế giữa các địa phương không ảnh hưởng

đến mức tác động của đầu tư công đến thu nhập bình quân đầu người. Với Hệ số của

biến Đầu tư tư nhân (lnip) và lao động (lnlb) không có ý nghĩa thống kê, nói lên rằng

trong nội bộ vùng TD&MNPB, đầu tư tư nhân và lao động thời gian qua không ảnh

hưởng đến thu nhập bình quân đầu người.

112

e. Tác động của đầu tư công đến Năng suất lao động của vùng

Coefficient

Bảng 4.14. Kết quả ước lượng tác động của ĐTC đến NSLĐ của vùng

.5463431

.0875847

6.24

0.000

Std. err. t P >t Lnnsld_v2

0.062

lnig_ttv2

.1268412

.0621806

2.04

0.082

RAI_ttv2

-.0799984

.0425118

-1.88

0.021

RAIlnig_ttv2

.1246483

.0473215

2.63

0.002

lnip

.2692194

.0683578

3.94

0.026

lnfdi

.0329087

.0131313

2.51

0.003

lnlb

-.3702286

.0992397

-3.73

0.011

_cons

1.564222

.5239914

2.99

lnnsldL1.

Nguồn: Phụ lục 2 – Bảng 4.9

Nhận xét: Bảng 4.9 - Phụ lục 2 cho thấy các tiêu chuẩn kiểm định đều thỏa mãn

tốt yêu cầu ước lượng. Với kết quả ước lượng ở bảng 4.14 cho thấy, hệ số của biến đầu

tư công có ý nghĩa thống kê ở mức 10% cho thấy đầu tư công có ảnh hưởng đến năng

RAIlnig_ttv2 có ý nghĩa thống kê, cho thấy ảnh hưởng của đầu tư công đến NSLĐ có

suất lao động của vùng tuy không lớn và độ tin cậy không cao. Biến tương tác

xu hướng tăng lên ở các địa phương có chỉ số lợi thế phát triển cao hơn. Nói cách

khác, các địa phương có chỉ số lợi thế cao hơn, ảnh hưởng của đầu tư công đến NSLĐ

cũng cao hơn. Ngoài ra, các biến khác cũng có tác động tích cực đến NSLĐ. Tuy

nhiên biến lao động lại tác động ngược chiều với NSLĐ của vùng, cụ thể khi số lao

động tăng lên, NSLĐ của vùng lại giảm xuống, đồng nghĩa với việc sản lượng tăng

chậm hơn tốc độ tăng lao động, phản ánh chuyển dịch cơ cấu lao động của vùng có

xu hướng bất lợi đối với tăng trưởng sản lượng.

g. Tác động của Đầu tư công đến Đầu tư tư nhân của vùng

Bảng 4.15. Kết quả ước lượng tác động ĐTC lên ĐT tư nhân của vùng

Coefficient

TD&MNPB

1.12842

.191346

5.90

0.000

Std. err. t P >t lnip

0.119

lnig_ttv2

-.4110983

.2461105

-1.67

0.000

RAI_ttv2

.5640312

.0907638

6.21

0.481

RAIlnig_ttv2

-.0555072

.0764259

-0.73

lnipL1.

Coefficient

113

0.000

lnfdi

-.1979594

.0386659

-5.12

0.022

lnlb

.2907893

.1120455

2.60

0.184

_cons

-1.986628

1.414647

-1.40

Std. err. t P >t lnip

Nguồn: Phụ lục 2 – Bảng 4.10 Nhận xét: Bảng 4.10 - Phụ lục 2 cho thấy các tiêu chuẩn kiểm định đều thỏa mãn tốt yêu cầu ước lượng. Với kết quả ước lượng ở bảng 4.15 cho thấy hệ số của biến đầu

tư công (lnig_ttv2) và biến tương tác (RAIlnig_ttv2) không có ý nghĩa thống kê, chứng tỏ

4.3. Tác động của đầu tư công đến sản lượng của cả nước (Mô hình GMM)

đầu tư công không có ảnh hưởng đến đầu tư tư nhân của vùng.

Để so sánh tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế giữa vùng

TD&MNPB với cả nước, qua đó kiểm định xem yếu tố đặc thù về điều kiện phát triển

có ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa đầu tư công với sản lượng hay không NCS đã thực

hiện ước lượng mô hình chung của cả nước với dữ liệu bảng bao gồm 63 tỉnh/thành phố

(6 vùng kinh tế) trong cả nước. Do các biến độc lập lnip và lnfdi là nội sinh nên phương

pháp ước lượng được sử dụng là GMM. Mô hình ước lượng chung có dạng:

(cid:1864)(cid:1866)(cid:1859)(cid:1870)(cid:1856)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3404) (cid:3) (cid:2010)(cid:2868) (cid:3397) (cid:3) (cid:2010)(cid:2869)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1859)(cid:1870)(cid:1856)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047)(cid:2879)(cid:2869) (cid:3397) (cid:3) (cid:2010)(cid:2870)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1859)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2871)(cid:3)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2872)(cid:3)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1864)(cid:1854)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2873)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1858)(cid:1856)(cid:1861)(cid:3036)(cid:3047) Trong mô hình (4.11), như đã trình bày, khi đưa biến tương tác giữa các biến liên (cid:3439) (cid:3397) (cid:1874)(cid:1861) (cid:3) (cid:3397) (cid:3) (cid:2013)(cid:1861)(cid:1872)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:4666)(cid:886)(cid:484)(cid:883)(cid:883)(cid:4667) (cid:3397) (cid:2010)(cid:2874)(cid:1844)(cid:1827)(cid:1835)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3) (cid:3397) (cid:3) (cid:2010)(cid:889)(cid:3435)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1861)(cid:1859)(cid:1861)(cid:1872) (cid:1499) (cid:3) (cid:1844)(cid:1827)(cid:1835)(cid:1861)(cid:1872) tục sẽ xẩy ra hiện tượng đa cộng tuyến, nên cần phải thay bằng các biến đã trung tâm

hóa. Vì vậy mô hình ước lượng được viết lại như sau:

(cid:1864)(cid:1866)(cid:1859)(cid:1870)(cid:1856)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3404) (cid:3) (cid:2010)(cid:2868) (cid:3397) (cid:3) (cid:2010)(cid:2869)(cid:1864)(cid:1866)(cid:1859)(cid:1870)(cid:1856)(cid:1868)(cid:3036)(cid:3047)(cid:2879)(cid:2869) (cid:3397) (cid:3) (cid:2010)(cid:2870)(cid:142)(cid:144)(cid:139)(cid:137)(cid:820)(cid:150)(cid:150)(cid:2919)(cid:2930) (cid:3397) (cid:574)(cid:2871)(cid:3)(cid:142)(cid:144)(cid:139)(cid:146)(cid:2919)(cid:2930) (cid:3397) (cid:574)(cid:2872)(cid:3)(cid:142)(cid:144)(cid:142)(cid:132)(cid:2919)(cid:2930) (cid:3397) (cid:574)(cid:2873)(cid:142)(cid:144)(cid:136)(cid:134)(cid:139)(cid:2919)(cid:2930) (cid:3397) (cid:574)(cid:2874)(cid:148)(cid:131)(cid:139)(cid:820)(cid:150)(cid:150)(cid:3)(cid:820)(cid:2919)(cid:2930) (cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3) (cid:3397) (cid:3) (cid:574)(cid:889)(cid:3435)(cid:142)(cid:144)(cid:139)(cid:137)(cid:820)(cid:150)(cid:150)(cid:139)(cid:150) (cid:1499) (cid:3) (cid:148)(cid:131)(cid:139)(cid:820)(cid:150)(cid:150)(cid:139)(cid:150)(cid:3439) (cid:3397) (cid:152)(cid:139) (cid:3) (cid:3397) (cid:3) (cid:578)(cid:139)(cid:150)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:4666)(cid:886)(cid:484)(cid:883)(cid:884)(cid:4667) Trong đó: rai_ttit = raiit - mean(raiit), với i và t; mean(raiit) = 5.18506

(cid:1482)

i và t; mean (lnigit) = 8.366626 lnig_ttit = lnig - mean (lnigit), với (cid:1482) Với dữ liệu từ 63 tỉnh/thành phố trong cả nước giai đoạn 2010-2022 ta có giá trị

trung bình tính được ở bảng sau:

Variable | Obs Mean Std. dev. Min Max -------------+--------------------------------------------------------- RAI | 819 5.18506 .89611 3.116683 7.10971 lnig | 819 8.366626 .7638218 7.001245 11.53294

114

Trên cơ sở dữ liệu bảng, ước lượng bằng phương pháp GMM, sử dụng lệnh

Stabond2 trên Stata 17 ta có kết quả ở bảng 4.16 sau:

Coefficient

Bảng 4.16. Ước lượng tác động ĐTC đến sản lượng- mô hình GMM cho cả nước

.8436533

.0478162

17.64

0.000

lngrdpL1.

0.001

RAI_TT

-.3314292

.09595

-3.45

0.001

lnig_TT

.1396891

.0436393

3.20

0.050

RAIlnig_TT

-.0393184

.0200597

-1.96

0.011

lnip

.0562443

.02223

2.53

0.002

lnfdi

.0730209

.0236443

3.09

0.004

lnlb

.1813754

.0635685

2.85

_cons

0.111

-.4380507

.2746268

-1.60

Std. err. t P >t lngrdp

Nguồn: Phụ lục 2 – Bảng 4.11

Nhận xét: Bảng 4.11- Phụ lục 2 cho thấy, kết quả ước lượng mô hình bằng phương pháp GMM đảm bảo thỏa mãn tất cả các tiêu chuẩn kiểm định. Cụ thể: Kiểm

định tự tương quan đối với AR(1) có P= 0,001 < 0,05; đối với chuỗi AR(2) có P= 0,832

> 0,05. Các kiểm định Sargan và Hansen đều có xác suất tương ứng P = 0,401 và P=

0,726 chứng tỏ các biến công cụ được sử dụng phù hợp. Số biến công cụ sử dụng là 19

< số đối tượng trong mẫu (=63) là thỏa mãn yêu cầu.

Với kết quả ước lượng ở bảng 4.16 cho thấy, hệ số của biến đầu tư công > 0 và có ý nghĩa thống kê ở mức > 99%, cho thấy đầu tư công có ảnh hưởng đến tích cực đến

sản lượng. Ngoài ra, các biến khác như đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư tư nhân, lao

động đều có ý nghĩa thống kê và hệ số dương nên có tác động tích cực đến sản lượng,

trong đó lao động có tác động đến sản lượng lớn hơn cả.

Biến tương tác RAIlnig_ttv2 có ý nghĩa thống kê, tuy nhiên hệ số ước lượng có giá trị âm (-.0393184), cho thấy ảnh hưởng của đầu tư công đến sản lượng có xu hướng

giảm xuống ở các địa phương có chỉ số lợi thế phát triển cao hơn mức trung bình của

cả nước. Nói cách khác, các địa phương có chỉ số lợi thế cao hơn tính từ mức trung

bình cả nước, ảnh hưởng của đầu tư công đến sản lượng sẽ thấp hơn. Cụ thể, theo kết

quả ước lượng, hệ số tác động của đầu tư công đến sản lượng với ảnh hưởng của chỉ

số lợi thế sẽ là: (0,1396891 - 0,0393184*RAI_tt). Với chỉ số RAI_tt cả nước = 5,18506,

có thể ước lượng được mức tác động của đầu tư công đến sản lượng của các vùng trong

cả nước như ở bảng sau (Bảng 4.17):

115

Bảng 4.17. Tác động của đầu tư công đến sản lượng của 6 vùng trong cả nước

RAI trung Vùng Chỉ số RAI_tt Hệ số tác động Thứ tự bình vùng

4,308

1 Đồng bằng Sông Hồng 6,155 0,96994 0,101552

0,174174 2 TD&MN phía bắc -0,87706

4,345

3 Bắc TB& DH Miền trung 5,348 0,16294 0,133282

0,172718 4 Tây Nguyên -0,84006

5 Đông Nam bộ 5,482 0,29694 0,128013

6 Đồng bằng sông Cửu Long 5,318 0,13294 0,134462

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 4.17 cho thấy, tác động của đầu tư công đến sản lượng tại vùng

TD&MNPB là cao nhất, thứ đến là Vùng Tây Nguyên, Đồng bằng SCL, Bắc TB& DH

Miền trung, Đông Nam bộ và thấp nhất là vùng Đồng bằng Sông Hồng. Từ đó có thể

đi đến kết luận tổng quát là: Thời gian qua, đầu tư công ở Việt Nam có tác động tích

cực đến sản lượng và tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên ở các vùng có điều kiện đặc thù

về điều kiện phát triển (khó khăn) mức tác động cao hơn so với các vùng có lợi thế

phát triển cao hơn (Đặc thù thấp hơn).

Kết hợp bảng 4.13 (Phương pháp GMM) và bảng 4.16 ta có bảng 4.18 như sau:

Bảng 4.18. So sánh kết quả mô hình GMM cả nước và vùng TD&MNPB

Mô hình chung cả nước Mô hình cho vùng TD&MNPB

Coefficient Std. err.

.8436533

.0478162 17.64 0.000

.8097898

.0807682 10.03 0.000

lngrdpL1.

RAI_TT

-.3314292

.09595

-3.45

0.001

-.3399108

.1653218

-2.06

0.060

.1396891

.2843143

lnig_TT

.0436393 3.20

0.001

.0625248 4.55

0.001

RAIlnig_TT -.0393184

.0200597 -1.96

0.050

.0017965

.080441

0.02

0.983

lnip

.0562443

.02223

2.53

0.011

.1416015

.0910992 1.55

0.144

lnfdi

.0730209

.0236443 3.09

0.002

.0508591

.0196781 2.58

0.023

lnlb

.1813754

.0635685 2.85

0.004

.1682239

.0670062 2.51

0.026

_cons

-.4380507

.2746268 -1.60

0.111

-.5203045

.6539941

-0.80

0.441

t P >t t P >t Coefficient Std. err. lngrdp

Nguồn: Tổng hợp từ bảng 4.13 và 4.16

So sánh kết quả ước lượng 2 mô hình thể hiện trên bảng 4.18 cho phép đưa ra các

kết luận sau đây:

116

- Thứ nhất, tác động của đầu tư công đến sản lượng của vùng TD&MNPB cao

hơn gấp đôi so với trung bình cả nước, thể hiện ở hệ số ước lượng biến lnig_TT trong mô

hình của Vùng TD&MNPB = 0,2843143 so với trong mô hình cả nước là 0,1396891.

- Thứ hai, trên phạm vi cả nước tác động của đầu tư công chịu ảnh hưởng của

yếu tố lợi thế phát triển. Hệ số của biến tương tác RAIlnig_TT bằng -0,0393184 và có

ý nghĩa thống kê cho thấy đối với các vùng có chỉ số lợi thế cao hơn mức trung bình cả

nước thì khi lợi thế càng cao, tác động của ĐTC đến Tăng trưởng kinh tế càng giảm.

Ngược lại, đối với các vùng có lợi thế thấp hơn mức trung bình cả nước (RAI =5,18506),

tác động của ĐTC đến tăng trưởng có xu hướng tăng lên khi chỉ số lợi thế tăng lên. Thực

tế, từ số liệu tính toán được về chỉ số RAI ở phần trên, chỉ có 2 vùng có chỉ số lợi thế

thấp hơn trung bình cả nước là vùng TD&MNPB (RAI = 4,308) và Vùng Tây Nguyên

(RAI = 4,345). Đó cũng chính là các vùng đặc thù về điều kiện phát triển (khó khăn

hơn) và theo Bảng 4.18 hai vùng này mức tác động của đầu tư công đến sản lượng là

cao nhất cả nước, tương ứng là 0,174174 và 0,172718. Từ đây có thể kết luận: Với các

vùng có lợi thế về điều kiện phát triển cao hơn mức trung bình cả nước, tác động của

đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm khi chỉ số lợi thế càng cao, ngược

lại với các vùng đặc thù, tác động của đầu tư công đến tăng trưởng không chỉ cao hơn

các vùng còn lại mà mức tác động sẽ tiếp tục duy trì cho đến khi chỉ số lợi thế đạt mức

trung bình của cả nước. Kết luận này có thể coi là một phát hiện mới từ mô hình định lượng và sẽ được phân tích kỹ ở phần sau.

- Thứ ba, tại vùng TD&MNPB, tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh

tế không chịu ảnh hưởng của yếu tố lợi thế (Hệ số ước ượng của biến tương tác

RAIlnig_ttv2 không có ý nghĩa thống kê). Điều này cho thấy, đối với các tỉnh trong nội

bộ vùng, tác động của đầu tư công đến tăng trưởng không chịu ảnh hưởng bởi lợi thế

phát triển của địa phương. Kết luận này là phù hợp bởi vì trong số 14 tỉnh trong vùng,

chỉ có 3 tỉnh (Phú Thọ, Thái Nguyên và Bắc Giang) có chỉ số lợi thế cao hơn mức trung

bình của vùng, còn lại 11 tỉnh có chỉ số thấp và khá tương đồng nhau.

- Với các biến số còn lại như FDI và LB, trong mô hình cả nước và mô hình Vùng

TD&MNPB các hệ số đều có giá trị dương và có ý nghĩa thống kê, thể hiện tác động

tích cực đến sản lượng, tuy nhiên mức tác động ở vùng thấp hơn mức tác động ở mô

hình cả nước. Riêng, với biến Đầu tư tư nhân (lnip), mô hình cả nước cho giá trị dương

và có ý nghĩa thống kê, trong khi ở mô hình Vùng lại không có ý nghĩa thống kê. Điều

này cho thấy, đầu tư tư nhân tại vùng TD&MNPB chưa cho thấy có tác động đến sản

lượng của vùng. Nói cách khác, đầu tư tư nhân ở vùng TD&MNPB chưa phát huy được

vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

4.4. Kết quả và thảo luận từ các mô hình phân tích định lượng

117

Từ các mô hình phân tích định lượng đã thực hiện trên đây có thể rút ra các kết

4.4.1. Vùng TD&MNPB có tính đặc thù cao nhất trong cả nước về điều kiện phát triển

luận sau đây:

Phân tích định lượng bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá đã chỉ ra về

mặt thực nghiệm vùng TD&MNPB là vùng có chỉ số lợi thế phát triển tổng hợp

thấp nhất trong cả nước (hệ số RAI = 4,308), tức cũng là vùng có điều kiện đặc thù

khó khăn nhất trong cả nước. Tiếp đến là vùng Tây Nguyên có điều kiện đặc thù

cao thứ 2 với RAI = 4,345 và vùng Đồng bằng sông Cửu Long có chỉ số RAI =

5,318. Với chỉ số trung bình của 6 vùng trong cả nước là 5,159 cho thấy, hai vùng

TD&MNPB và Tây nguyên có lợi thế phát triển tổng hợp thấp hơn mức trung bình

cả nước, cũng là 2 vùng có tính đặc thù cao về điều kiện phát triển, trong đó vùng

TD&MNPB có tính đặc thù cao nhất.

Xét nội bộ vùng TD&MNPB, với khoảng thời gian xem xét 2010-2022, cho thấy

trong số 14 tỉnh, chỉ có 3 tỉnh có chỉ số lợi thế cao hơn mức trung bình của cả nước là

Phú Thọ (RAI = 5,713), Bắc Giang (RAI= 5,673) và Thái Nguyên (RAI=5,412). Còn

lại 11/14 tỉnh có chỉ số lợi thế vào loại thấp nhất cả nước, điều này nói lên rằng các địa

4.4.2. Trong nội bộ vùng TD&MNPB yếu tố đặc thù không ảnh hưởng đến

quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế

phương thuộc vùng thực sự có nhiều khó khăn về điều kiện phát triển.

Mô hình hồi quy sản lượng của vùng TD&MNPB theo phương pháp GMM cho

thấy, đầu tư công có tác động tích cực đến sản lượng của vùng. So với các nhân tố khác

như đầu tư trực tiếp nước ngoài, lao động, đầu tư tư nhân thì tác động của đầu tư công

đến sản lượng là lớn nhất. Đặc biệt, trong phạm vi vùng mô hình định lượng cho thấy,

ảnh hưởng của yếu tố đặc thù địa phương không có ý nghĩa thống kê trong tác động đến

quan hệ giữa giữa đầu tư công và sản lượng. Kết quả này là phù hợp bởi hầu hết các địa

phương trong vùng (11/14 tỉnh) có chỉ số lợi thế thấp và khá tương đồng, chỉ có 3 tỉnh

4.4.3. Tác động của ĐTC đến tăng trưởng kinh tế ở vùng đặc thù cao hơn ở các vùng khác

(Phú Thọ, Thái Nguyên và Bắc Giang) có chỉ số xấp xỉ trung bình cả nước.

Từ mô hình định lượng cả nước (cho cả 6 vùng) cho thấy, tác động của đầu tư

công đến sản lượng ở Vùng TD&MNPB là cao nhất, tiếp đến theo thứ tự giảm dần là

118

Vùng Tây Nguyên, vùng ĐB Sông Cửu Long, vùng Bắc Trung bộ và DHMT, vùng

Đông Nam bộ và vùng ĐB Sông Hồng. Xu hướng này hoàn toàn ngược lại với xu hướng

tăng chỉ số lợi thế phát triển.

Một trong những lý do giải thích cho kết luận trên là ở vai trò của đầu tư công

trong việc tạo ra cơ sở hạ tầng làm nền tảng và động lực cho tăng trưởng. Ở những vùng

đặc thù, thời gian qua cơ sở hạ tầng đã được hoàn thiện một bước đáng kể tạo nên động

lực lớn cho tăng trưởng kinh tế. Kết luận này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Junjie

Hong, Zhaofang Chu & Qiang Wang (2011). Các tác giả đã phát triển một phép đo đa

chiều về cơ sở hạ tầng giao thông và xem xét mối liên hệ giữa cơ sở hạ tầng giao thông

và tăng trưởng kinh tế khu vực. Mô hình dữ liệu bảng được ước tính bằng cách sử dụng

dữ liệu từ mẫu của 31 tỉnh của Trung Quốc từ năm 1998 đến năm 2007. Kết quả cung

cấp bằng chứng thuyết phục rằng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải đóng vai trò quan

trọng trong tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, hạ tầng giao thông đường bộ góp phần nhiều

hơn vào tăng trưởng kinh tế ở những địa phương có hạ tầng giao thông đường bộ kém.

Thực tế đó, cho phép kết luận: Thời gian qua, đầu tư công ở Việt Nam có tác

động tích cực đến sản lượng và tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên ở các vùng có điều kiện

đặc thù về điều kiện phát triển (khó khăn) mức tác động cao hơn so với các vùng có lợi

4.4.4. Tác động của ĐTC ở vùng TD&MNPB cao gấp 2 lần so với trung bình cả nước

thế phát triển cao hơn (Đặc thù thấp hơn).

So sánh mô hình tổng thể cả nước và của vùng TD&MNPB cho thấy, trung bình

tác động của Đầu tư công đến sản lượng ở vùng TD&MNPB cao hơn gấp đôi so với

trung bình cả nước (hệ số của biến lnig_TT tương ứng là 0,2843143 ở vùng TD&MNPB

và 0,1396891 đối với cả nước).

Kết luận này phù hợp với kết luận từ nghiên cứu của Nguyễn Đoan Trang (2018).

Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã chia theo 3 vùng: Đồng bằng sông Hồng (vùng

1), Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung (vùng 2) và vùng kinh tế phía nam (vùng 3),

từ đó rút ra kết luận đóng góp của đầu tư công vào tăng trưởng ở vùng khó khăn hơn

cao hơn ở các vùng khác.

Kết luận trên của luận án cũng khá phù hợp với kết quả Nghiên cứu của Junjie

Hong, Zhaofang Chu & Qiang Wang (2011). Các tác giả đã phát triển một phép đo

đa chiều về cơ sở hạ tầng giao thông và xem xét mối liên hệ giữa cơ sở hạ tầng giao

thông và tăng trưởng kinh tế khu vực. Mô hình dữ liệu bảng được ước tính bằng cách

119

sử dụng dữ liệu từ mẫu của 31 tỉnh của Trung Quốc từ năm 1998 đến năm 2007. Kết

quả cung cấp bằng chứng thuyết phục rằng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải đóng vai

trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, hạ tầng giao thông đường bộ góp

phần nhiều hơn vào tăng trưởng kinh tế ở những địa phương có hạ tầng giao thông

đường bộ kém.

Thực tế đó, cho phép kết luận: Thời gian qua, đầu tư công ở Việt Nam có tác

động tích cực đến sản lượng và tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên ở các vùng có điều kiện

đặc thù về điều kiện phát triển (khó khăn) mức tác động cao hơn so với các vùng có lợi

thế phát triển cao hơn (Đặc thù thấp hơn).

Kết luận trên là hoàn toàn có cơ sở, thể hiện trên hai khía cạnh sau đây:

- Trước hết cần khẳng định rằng, mức độ tác động cao hơn của vốn đầu tư công

đến tăng trưởng ở vùng TD&MNPB không nói lên tính hiệu quả về sử dụng vốn đầu tư

công. Trên góc độ nguồn lực cho tăng trưởng, nó nói lên cơ chế tăng trưởng của vùng

này vẫn là tăng trưởng kinh tế dựa chủ yếu vào vốn đầu tư, trong khi tỷ trọng Vốn đầu

tư công trong tổng vốn đầu tư xã hội của Vùng là cao nhất trong cả nước.

- Nếu so sánh mô hình chung cả nước và vùng TD&MNPB cho thấy, trên phạm

vi cả nước tác động của các yếu tố lao động, đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư tư nhân

đến sản lượng cao hơn so với các chỉ số tương ứng trong mô hình của vùng. Điều này

thể hiện, trên phạm vi vùng vai trò của các yếu tố lao động và vốn đầu tư tư nhân chưa

được phát huy tốt, trong khi đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng với số lượng còn rất

4.4.5. Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng của vùng TD&MNPB qua các kênh tác động

nhỏ so với các vùng khác và chưa có tác động đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của vùng.

Xem xét các mô hình cụ thể về tác động của đầu tư công đến thu nhập bình quân

đầu người, đến đầu tư tư nhân và đến năng suất lao động cũng cho phép rút ra một số

nhận xét đáng chú ý. Cụ thể:

(i) Tác động của đầu tư công đến Thu nhập bình quân có dấu dương, trị số lớn và

có ý nghĩa thống kê, tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tích cực nhưng có giá trị

nhỏ, trong khi đầu tư tư nhân và lao động không có tác động đến Thu nhập bình quân

đầu người. Điều này chứng tỏ, đầu tư công thông qua tác động vào thu nhập bình quân

đầu người, có tác dụng tạo cầu tích cực và từ đó tác động vào tăng trưởng kinh tế. Tác

động này như lý thuyết trong chương 2 đã chỉ ra thuộc loại tác động gián tiếp của đầu

tư công đến tăng trưởng kinh tế.

120

(ii) Với mô hình năng suất lao động, tác động của đầu tư công đến năng suất lao

động của vùng là tích cực, nhưng giá trị hệ số nhỏ và có ý nghĩa thống kê thấp (P=

0,062). Điều đó chứng tỏ, đầu tư công chưa thực sự đóng góp vào tăng năng suất lao động tại vùng TD&MNPB. Loại tác động này thuộc kênh tác động trực tiếp của đầu tư công đến tăng trưởng.

(iii) Với mô hình đầu tư tư nhân, tác động của đầu tư công đến đầu tư tư nhân

là không có ý nghĩa thống kê (với P=0,119). Tức là, tại vùng TD&MNPB, nghiên cứu

thực nghiệm chưa cho thấy đầu tư công có tác động kích thích hay kìm hãm đầu tư tư nhân. Điều này cũng có nghĩa là kênh tác động gián tiếp của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế là hạn chế.

(iv) Với mô hình sản lượng, tác động của đầu tư công đến sản lượng có hệ số ước

lượng khá lớn = 0,2843143 và có ý nghĩa thống kê và đây là cơ chế tác động mang tính chất trực tiếp từ tác động của vốn sản xuất.

(v) Trong mô hình tác động đến thu nhập bình quân đầu người, biến lao động

không có ý nghĩa thống kê, cho thấy số lượng lao động của vùng không ảnh hưởng đến

thu nhập bình quân đầu người vố hệ số lb không có ý nghĩa thống kê. Đây là cơ chế tác động gián tiếp giữa đầu tư công với tăng trưởng kinh tế.

Như vậy, nếu xem xét 5/7 kênh tác động (trong đó có 3 kênh tác động gián tiếp

và hai kênh tác động trực tiếp) có thể đi đến nhận định: Đầu tư công tại vùng TD&MNPB

thời gian qua đã tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua 2 kênh chủ yếu là Kích

thích cầu (thông qua tác động vào thu nhập bình quân đầu người và chi tiêu công) và

trực tiếp tạo vốn sản xuất. Hai kênh NSLĐ và ĐT tư nhân chưa được khơi thông bởi đầu

tư công. Kênh tác động TFP chưa có dữ liệu để phân tích. Kênh cán cân thương mại

chưa có điều kiện phân tích định lượng, nhưng qua phân tích định tính ở chương 3 cho

thấy trong những năm gần đây, đầu tư công đã có tác động tích cực đến xuất khẩu hàng

hóa, tuy nhiên mới tập trung ở số ít địa phương như Bắc Giang, Thái Nguyên, Lào Cai.

Qua phần lớn kênh đã xem xét, có thể thấy tác động của đầu tư công đến tăng trưởng

kinh tế tại vùng TD&MNPB mới chỉ biểu hiện về mặt số lượng theo chiều rộng mà chưa

có tác động về mặt chất lượng. Với một nền kinh tế mà lợi thế cạnh tranh còn thấp như

vùng TD&MNPB, cơ chế tăng trưởng phụ thuộc chủ yếu vào tăng trưởng vốn thì tác

động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ở mức cao hơn của nền kinh tế là điều dễ

chấp nhận. Như vậy, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, việc gia tăng vốn đầu tư công để

bổ sung nguồn vốn cho vùng này là một hướng đi cần thiết trong thời kỳ trung hạn tới,

tuy nhiên cần đặc biệt chú ý nâng cao hiệu quả đầu tư.

4.5. Nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế của vùng TD&MNPB

4.5.1. Môi trường thể chế

121

Trong giai đoạn 2010-2022, thể chế kinh tế ở nước ta đã từng bước được hoàn

thiện và đạt được những thành tựu lớn. Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 2013, Luật

Đất đai (sửa đổi), Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách cùng nhiều luật quan trọng khác

để từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thúc

đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Những văn bản quy phạm

pháp luật này về cơ bản đã tạo hành lang pháp lý cho đầu tư, sản xuất kinh doanh. Việt

Nam đã dần hình thành đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, vận

hành cơ bản thông suốt, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Thị trường hàng hóa,

dịch vụ; Thị trường tài chính, tiền tệ phát triển; Thị trường bất động sản; Thị trường lao

động; Thị trường khoa học - công nghệ; Thị trường một số loại dịch vụ công cơ bản,

nhất là về y tế, giáo dục có bước phát triển mới, huy động được các nguồn lực ngoài

ngân sách nhà nước tham gia. Công cuộc cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh

doanh luôn được chú trọng và đẩy mạnh và đạt được các thành tựu bước đầu.

Tuy vậy, vẫn tồn tại nhiều yếu kém trong thể chế kinh tế, gây ra nhiều điểm nghẽn

cản trở hoạt động kinh doanh, đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Hệ thống luật pháp, cơ

chế, chính sách chưa hoàn chỉnh, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước chậm

được đổi mới; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế chưa đáp ứng yêu cầu

phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;… chất lượng xây dựng,

hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, một số luật mới ban hành đã

phải sửa đổi; các quy định chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo, nhiều quy định

còn khó khăn, cản trở việc thực thi, gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chưa tạo

môi trường thực sự thuận lợi để thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và nước

ngoài, khơi thông nguồn lực trong dân. Phân cấp, phân quyền chưa xác định rõ vai

trò của nhà nước và vai trò của thị trường. Các nghị quyết luôn nhấn mạnh yêu cầu

phát triển các loại thị trường nhân tố sản xuất nhưng trong thực thi thì khác, nguồn

lực đất đai, tài nguyên, vốn, giá cả… vẫn được phân bổ theo mệnh lệnh hành chính hơn

là cơ chế thị trường.

Do các hạn chế về thể chế kinh tế, đã hạn chế nguồn lực, tiến độ, kết quả và hiệu

quả đầu tư công. Một ví dụ minh họa là hiện nay đang có hàng nghìn dự án là vật chứng

của các dự án và hàng nghìn dự án đầu tư công, đầu tư tư nhân đang bị treo, tắc nghẽn

do pháp luật chồng lấn, không tương thích.

4.5.2. Cơ chế, chính sách đầu tư công

122

Cơ chế chính sách đầu tư công bao gồm hệ thống pháp luật, trước hết là Luật đầu

tư công và các luật khác liên quan, các chính sách, quy định nhằm điều chỉnh và hỗ trợ

công tác triển khai hoạt động đầu tư công.

Trong giai đoạn nghiên cứu của Luận án (2011-2022), chính sách đầu tư công

của Việt Nam đã nhiều lần được điều chỉnh theo hướng ngày một hoàn thiện. Có thể

phân ra các giai đoạn như sau:

· Từ năm 2014 trở về trước: Trước khi Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 ra đời, Chính phủ đã ban hành nhiều chỉ thị nhằm tăng cường quản lý vốn đầu tư công, đặc

biệt là đối với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước (NSNN), vốn trái phiếu chính phủ

(TPCP) và tập trung giải quyết nợ xây dựng cơ bản (XDCB) tại các bộ, ngành và địa

phương. Năm 2013, Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế của Chính phủ đã được quyết định

triển khai, trong đó tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công là một trong 3 nội dung

tái cơ cấu quan trọng, nhằm vào 3 mục tiêu chính: Huy động hợp lý các nguồn lực cho

đầu tư phát triển; Đổi mới cơ bản cơ chế phân bổ và quản lý, sử dụng vốn, khắc phục

tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán và lãng phí, nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước; Mở

rộng tối đa phạm vi và cơ hội cho đầu tư tư nhân.

Với hệ thống thể chế về quản lý đầu tư công ngày càng được hoàn thiện, chủ

trương tái đầu tư công đã từng bước thu được kết quả khích lệ: Tỷ trọng vốn đầu tư bình

quân của khu vực nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2011 - 2015 đã

giảm mạnh; Tốc độ tăng vốn đầu tư bình quân của khu vực nhà nước cũng có xu hướng

giảm: Giai đoạn 2011 - 2014 là 10,9% so với 14,9% của giai đoạn 2006 - 2010; Tỷ

trọng vốn đầu tư từ NSNN trong tổng vốn của khu vực kinh tế nhà nước, giai đoạn 2011

- 2014 đạt 48,05%, giảm mạnh so với 55,84% của giai đoạn 2006 - 2010. Từng bước

hạn chế được tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, thiếu đồng bộ. Cơ chế phân cấp quản

lý đầu tư đã tiếp tục được hoàn thiện và quản lý thống nhất về mục tiêu, danh mục dự

án, chương trình theo quy hoạch, tăng cường trách nhiệm chất lượng giám sát trong việc bảo đảm tiến độ công trình. Cơ chế phân bổ vốn đầu tư được đổi mới theo hướng minh

bạch hóa, thực hiện cân đối vốn đầu tư theo kế hoạch trung hạn đối với cả vốn NSNN,

vốn TPCP và các chương trình mục tiêu quốc gia.

· Giai đoạn từ 2015-2019: Luật đầu tư công 2014 (Luật số 49/2014/QH13) ra đời là một bước tiến lớn trong việc hoàn thiện thể chế về quản lý đầu tư công, đảm bảo

tính hệ thống, đồng bộ và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình quản lý chương trình, dự

án đầu tư công. Trên cơ sở Luật đầu tư công 2014, nhiều văn bản, quy định hướng dẫn

123

ra đời nhấn mạnh thực hiện nghiêm quy định của Luật Đầu tư công và các văn bản

hướng dẫn quy định về quản lý vốn đầu tư, xử lý nợ đọng XDCB từ nguồn NSNN và

vốn Trái phiếu chính phủ (TPCP); khẩn trương rà soát, hoàn thiện kế hoạch đầu tư công

trung hạn 5 năm 2016 - 2020.

Như vậy có thể nói, từ thời kỳ 2016-2020 đã hình thành khung pháp luật tương

đối đồng bộ, thống nhất trong quản lý hoạt động đầu tư công. Luật Đầu tư công số

49/2014/QH13 được Quốc hội thông qua đã tạo ra hệ thống pháp luật đồng bộ để quản

lý toàn bộ quá trình đầu tư công, từ chủ trương đầu tư, thẩm định nguồn vốn đối với các

chương trình, dự án sử dụng vốn đầu tư công; lập, thẩm định, phê duyệt kế hoạch đầu

tư, triển khai thực hiện kế hoạch; theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra kế hoạch đầu tư

công. Nhờ đó góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công; khắc phục

tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, nâng cao hiệu quả đầu tư theo đúng mục tiêu, định

hướng của chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; thúc đẩy cơ cấu

lại đầu tư và cơ cấu lại các ngành, vùng lãnh thổ; cơ bản bảo đảm tương quan hợp lý

giữa phát triển kinh tế - xã hội và an sinh xã hội, giữa các ngành, lĩnh vực, các địa

phương, vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng

khó khăn khác, chống thất thoát, lãng phí; bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quản

lý đầu tư công. Cơ chế phân cấp quản lý đầu tư đã tiếp tục được hoàn thiện và quản lý thống

nhất về mục tiêu, danh mục dự án, chương trình theo quy hoạch, tăng cường trách nhiệm

chất lượng giám sát trong việc bảo đảm tiến độ công trình. Cơ chế phân bổ vốn đầu tư được

đổi mới theo hướng minh bạch hóa, thực hiện cân đối vốn đầu tư theo kế hoạch trung hạn

đối với cả vốn NSNN, vốn TPCP và các chương trình mục tiêu quốc gia. Các chương trình

mục tiêu quốc gia đã được giảm thiểu, từ 16 chương trình mục tiêu quốc gia trong giai đoạn 2011-2015, cắt giảm còn hai chương trình là: Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới

và giảm nghèo bền vững trong giai đoạn 2016-2020. Đây là chủ trương đúng đắn nhằm

giải quyết những vấn đề có tầm quốc gia và tập trung được nguồn lực, khắc phục được

sự dàn trải và tạo điều kiện để tổ chức có hiệu quả các chương trình.

Mặc dù vậy, xét trên bình diện cả nước, đầu tư công vẫn còn nhiều bất cập, cụ thể:

- Đầu tư từ ngân sách nhà nước còn dàn trải; hiệu quả đầu tư một số công trình hạ

tầng chưa cao.

- Việc giải quyết dứt điểm nợ đọng XDCB nhằm đảm bảo an ninh tài chính, an

toàn nợ công và bền vững ngân sách chưa đạt hiệu quả.

- Phân bổ vốn đầu tư công theo ngành, địa phương chưa hợp lý, nguồn vốn đầu tư

còn dàn trải.

124

- Cơ cấu vùng miền trong đầu tư cũng chưa hợp lý, chất lượng quy hoạch phát triển

chưa hiệu quả.

- Còn vướng mắc trong giải ngân vốn đầu tư công, tình trạng kéo dài tiến độ, thậm

chí có dự án chậm so với tiến độ hàng chục năm, làm gia tăng chi phí đầu tư.

- Thu hút đầu tư ngoài nhà nước phục vụ đầu tư công còn hạn chế.

- Công tác quản lý vốn đầu tư công vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế.

Trên phạm vi vùng TD&MNPB, bên cạnh tuân thủ cơ chế chính sách đầu tư công

chung, Vùng còn nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của Đảng và nhà nước trong đầu tư phát

triển. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị (NQ 37-NQ/TW khóa IX ngày 01-7-2004)

và Kết luận số 26-KL/TW ngày 02-8-2012 về tiếp tục thực hiện NQ 37-NQ/TW nhằm

đẩy mạnh phát triển KT-XH và bảo đảm quốc phòng, an ninh đến năm 2020 của vùng

TD&MNPB, Chính phủ đã triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ cho Vùng. Chính

sách đầu tư của Chính phủ cho vùng TD&MNPB là một trong những chính sách quan

trọng để giúp đẩy mạnh phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo trong khu vực này. Chính

sách đầu tư này bao gồm các hình thức hỗ trợ đa dạng như tài chính, phát triển hạ tầng,

giáo dục, y tế, nông nghiệp, du lịch, và bảo tồn môi trường.

Sự hỗ trợ của Chính phủ đối với Vùng, tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây:

- Đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trước hết là cơ sở hạ tầng giao thông.

- Đầu tư xây dựng các dự án thủy điện nhằm phát triển năng lượng điện tại Vùng.

- Đầu tư xây dựng các dự án cấp nước và xử lý nước thải để đảm bảo nguồn nước

sạch cho cộng đồng và sản xuất nông nghiệp.

- Đầu tư vào các ngành nghề chủ đạo của vùng như nông nghiệp, lâm nghiệp, du

lịch và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ.

- Cung cấp vốn tín dụng và giảm lãi suất cho các doanh nghiệp trong vùng để họ

có thể phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh.

- Tạo điều kiện thuận lợi hơn cho thu hút đầu tư trong và ngoài nước đến Vùng

bằng việc đưa ra các chính sách thuế, phí và giải pháp giảm thiểu rủi ro.

- Nhiều chính sách hỗ trợ giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao trình độ kiến thức

và kỹ năng cho người dân: Cung cấp học bổng và chi phí học tập cho học sinh và sinh

viên trong vùng nhằm khuyến khích họ tiếp cận giáo dục và đào tạo; Tổ chức các khóa

đào tạo nghề và chương trình huấn luyện cho người lao động trong vùng, giúp nâng cao

trình độ kỹ năng và tạo điều kiện cho việc tìm kiếm việc làm tốt hơn.

125

Tóm lại, cơ chế chính sách đầu tư công và chính sách hỗ trợ phát triển vùng

TD&MNPB đã có tác dụng giải quyết các khó khăn và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

của vùng thời gian qua. Tuy nhiên đầu tư công của Vùng vẫn còn nhiều hạn chế biểu hiện

trên các mặt sau đây:

- Quy mô vốn đầu tư công còn khiêm tốn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển

của Vùng do nguồn vốn nội tại rất hạn chế, Ngân sách địa phương nhỏ, đầu tư tư nhân ít,

thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài không đáng kể.

- Hiệu quả thực hiện các chính sách hỗ trợ của Nhà nước còn hạn chế do thiếu sự

phối hợp đồng bộ và hiệu quả giữa Chính phủ, các bộ ngành, chính quyền địa phương,

cộng đồng và người dân, trong đó sự thiếu chủ động của các địa phương trong vùng là

một nguyên nhân quan trọng.

- Năng lực quản trị địa phương còn yếu, thể hiện qua chỉ số năng lực cạnh tranh

cấp tỉnh của đại đa số các địa phương còn rất thấp so với các vùng khác.

- Công tác quản lý đầu tư công còn yếu cả trong nhận thức và cả trong kỹ năng

thực hiện.

Những hạn chế trên đây đã ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả đầu tư công và làm

hạn chế đóng góp của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế của Vùng. Sự phát triển kinh

tế - xã hội của Vùng đến nay được đánh giá là chưa tương xứng với tiềm năng và các

4.5.3. Các nhân tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của Vùng

nguồn lực đầu tư, nhất là vốn đầu tư của Nhà nước.

Vùng TD&MNPB có địa hình bao gồm chủ yếu là núi cao và trung bình, chia cắt

và hiểm trở nhất cả nước. Điều kiện khí hậu khá khắc nghiệt, mùa hè gió mùa

Tây Nam nóng khô, mưa nhiều, mùa đông gió mùa Đông Bắc lạnh, khô, ít mưa. Chế độ

gió tạo ra thời tiết có phần khắc nghiệt, gây khô nóng, hạn hán, sương muối trở ngại cho

sản xuất và sinh hoạt, đồng thời gây lũ ống, lũ quét vào mùa mưa tác động xấu đến đời

sống và chất lượng các công trình xây dựng. Điều này dẫn đến suất đầu tư cao, hiệu quả

đầu tư đạt thấp. Hơn nữa, do đặc điểm địa hình chủ yếu là rừng núi nên vùng được xem

như lá phổi xanh của lãnh thổ phía bắc của đất nước, có vai trò đặc biệt quan trọng trong

việc bảo vệ môi trường và cần được đầu tư xứng đáng để duy trì và bảo vệ môi trường

sinh thái đang có nguy cơ bị hủy hoại.

Về văn hóa - xã hội và truyền thống, vùng có tỷ lệ đồng bào dân tộc ít người cao nhất cả nước, với trình độ văn hóa thấp, phong tục còn lạc hậu phần nào ảnh hưởng đến

nhận thức, tính chủ động hạn chế trong việc đóng góp và thực hiện chủ trương chính sách

126

đầu tư công cũng như hưởng thụ các thành quả do đầu tư công mang lại. Với vị trí chiến

lược về an ninh - quốc phòng, việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của đất nước đòi hỏi nguồn

4.5.4. Trình độ phát triển của nền kinh tế

đầu tư lớn, chi phối hiệu quả đầu tư cho tăng trưởng.

Thực tế hiện nay Vùng TD&MNPB vẫn là vùng nghèo và khó khăn nhất của cả

nước do xuất phát điểm thấp. Quy mô kinh tế vùng nhỏ, cơ cấu kinh tế lạc hậu, chuyển

dịch chậm; Cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội còn lạc hậu; phát triển của các địa phương trong

vùng chưa đồng đều, hầu hết các sản phẩm công nghiệp chế biến vẫn ở dạng chế biến thô

và gia công; Trình độ nhân lực thấp, năng suất lao động và thu nhập của vùng vẫn thấp

nhất trong cả nước ... Tiềm năng, lợi thế của vùng vẫn chưa được khai thác hợp lý và phát

huy hiệu quả. Khoảng cách về trình độ phát triển và thu nhập bình quân đầu người trong

nội vùng so với bình quân chung của cả nước tiếp tục gia tăng. Các địa phương trong vùng

đều chưa cân đối được ngân sách. Hoạt động hợp tác, kết nối với các địa phương ngoài vùng, với các tỉnh của Lào và Trung Quốc còn hạn chế.

Những đặc điểm trên đây có ảnh hưởng hai mặt đến mối quan hệ giữa đầu tư công

và tăng trưởng kinh tế. Một mặt, nếu đầu tư công đảm bảo chất lượng và hiệu quả sẽ có

tác dụng cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo cơ sở mở rộng thị trường, tăng cường liên kết kinh

tế, mở rộng quy mô sản xuất, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường ứng dụng

tiến bộ công nghệ sẽ là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, do trình độ phát

triển thấp, nhu cầu vốn đầu tư lớn khó đảm bảo, khả năng triển khai và hấp thụ vốn đầu

tư công hạn chế, ít có tác động lan tỏa...thì sẽ hạn chế vai trò tác động của đầu tư công

đến tăng trưởng kinh tế. Với trình độ công nghệ và kỹ năng lao động chưa cao làm giảm

khả năng tối ưu hóa sử dụng vốn, khi mà lao động không được đào tạo đầy đủ để vận hành

công nghệ tiên tiến, và cơ sở hạ tầng công nghệ chưa được đầu tư đúng mức để hỗ trợ

4.5.5. Quy mô, chất lượng và hiệu quả của đầu tư công

phát triển công nghiệp và dịch vụ.

Thực tế trong hơn 10 năm qua quy mô đầu tư công của Vùng đã không ngừng tăng

lên, song thời kỳ đầu (2011-2015) tăng chậm và tăng nhanh hơn ở thời kỳ 2016-2022.

Mặc dù tỷ lệ vốn Đầu tư công của vùng trên GRDP vào loại cao nhất trong các vùng của

cả nước, song do quy mô của GRDP của vùng nhỏ nên về mặt giá trị tuyệt đối, vốn đầu

tư công của vùng vẫn nhỏ, thấp hơn nhiều so với nhu cầu vốn của Vùng. Cơ cấu vốn đầu

tư công tuy có sự chuyển dịch theo hướng cơ cấu lại đầu tư công, theo đó tỷ lệ vốn đầu tư

công trên tổng đầu tư đã giảm xuống, nhưng nguồn vốn NSNN vẫn chiếm tỷ lệ cao (hơn

các vùng khác) trong vốn đầu tư công. Về cơ cấu ĐTC theo mục đích sử dụng, đã chuyển

127

dịch đúng hướng tăng cường đầu tư cho Cơ sở hạ tầng Giao thông, tuy nhiên hạ tầng viễn

thông, hạ tầng xã hội, hạ tầng cung cấp nước chưa đáp ứng được nhu cầu của Vùng.

Về hiệu quả đầu tư nói chung và đầu tư công nói riêng vẫn còn thấp so với các

vùng khác do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan về quản lý, song yếu tố khách quan,

nhất là địa hình khó khăn, phức tạp, khí hậu khắc nghiệt là đặc thù riêng của vùng rất quan

trọng. ICOR cũng như tỷ lệ vốn đầu tư công và gia tăng sản lượng đều ở mức cao ở vùng

TD&MNPB có thể phản ánh những khó khăn đặc thù của khu vực này trong việc sử dụng

vốn hiệu quả. Đây là khu vực địa lý có địa hình phức tạp, điều kiện tự nhiên khó khăn hơn

so với nhiều vùng khác, dẫn đến chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng cao hơn. Địa hình đồi núi

cản trở việc xây dựng đường sá và phát triển các công trình hạ tầng khác, khiến cho việc

triển khai các dự án đầu tư trở nên tốn kém và thời gian hoàn thành dài hơn. Sự thiếu hụt

về nguồn nhân lực có trình độ và công nghệ hiện đại là một trong những rào cản lớn nhất

đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở khu vực này.

Yếu tố quản lý và thể chế cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích sự

khác biệt về ICOR. Ở nhiều địa phương vùng miền núi, sự quản lý thiếu hiệu quả, quy

trình phê duyệt dự án kéo dài và sự thiếu minh bạch trong việc sử dụng nguồn vốn đầu tư

công làm giảm hiệu quả của các khoản đầu tư. Các chính sách khuyến khích đầu tư chưa

được áp dụng một cách hiệu quả hoặc chưa phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương,

dẫn đến việc sử dụng vốn kém hiệu quả.

Tóm tắt chương 4

128

Chương 4 tập trung phân tích định lượng với 2 nội dung: Kiểm định tính đặc

thù về điều kiện phát triển và phân tích tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh

tế của Vùng.

Để kiểm định tính đặc thù, luận án đã sử dụng phương pháp phân tích nhân tố

khám phá để tính toán chỉ số RAI (Chỉ số lợi thế phát triển tổng hợp của vùng), làm chỉ

số đo lường tính đặc thù của vùng. Với giá trị chỉ số RAI nhỏ nhất trong các vùng, vùng

TD&MNPB được đánh giá là vùng đặc thù nhất, tiếp đến là vùng Tây Nguyên.

Trong phân tích tác động, chương 4 phân chia theo 2 phần: Phần đầu phân tích cho

vùng đặc thù (TD&MNPB) với mô hình Cobb-Douglas lần lượt theo các kỹ thuật POOL,

FEM, REM, FGLS, GMM để đi đến lựa chọn kết quả của mô hình GMM và rút ra kết

luận. Trong phần đầu, các mô hình GMM cũng được ước lượng để phân tích tác động của

đầu tư công đến Năng suất lao động, đầu tư tư nhân và thu nhập bình quân đầu người của

Vùng. Phần 2, ước lượng mô hình GMM với dữ liệu cả nước để so sánh và đánh giá tác

động trên vùng đặc thù so với các vùng khác và cả nước.

Từ kết quả phân tích định lượng, Luận án đã rút ra được các kết luận: Tác động

của Đầu tư công đến sản lượng ở vùng TD&MNPB cao hơn gấp đôi so với trung bình cả

nước; Trong nội bộ vùng TD&MNPB yếu tố đặc thù không ảnh hưởng đến quan hệ giữa

đầu tư công và tăng trưởng kinh tế; Đầu tư công tác động tích cực đến thu nhập bình

quân đầu người của Vùng TD&MNPB; Đầu tư công tác động yếu đến tăng Năng suất

lao động của Vùng; Đầu tư công chưa có tác động đến đầu tư tư nhân của Vùng; Tác

động của ĐTC đến tăng trưởng ở vùng đặc thù cao hơn ở các vùng khác; Đặc biệt, với các vùng đặc thù, tác động của đầu tư công đến tăng trưởng không chỉ cao hơn các

vùng còn lại mà xu thế tác động cao sẽ tiếp tục duy trì cho đến khi chỉ số lợi thế đạt

mức trung bình của cả nước.

Cuối cùng, chương 4 đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ tác động

của đầu tư công đến sản lượng của vùng TD&MNPB. Các nhân tố bao gồm: Môi

trường thể chế chung; Cơ chế, chính sách đầu tư công; Điều kiện tự nhiên, kinh tế và

xã hội của Vùng; Trình độ phát triển của vùng; Quy mô, chất lượng và hiệu quả của

đầu tư công của Vùng.

CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

5.1. Các kết luận

129

Trong luận án này tác giả đã cố gắng phân tích và đánh giá tác động của đầu tư

công đến tăng trưởng kinh tế của TD&MNPB, một vùng được giả thiết là có tính đặc thù về điều kiện phát triển (khó khăn trong phát triển trên nhiều tiêu chí đánh giá). Đây cũng là chủ đề mà từ trước tới nay có rất ít công trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng như ở nước

ngoài thực hiện một cách trực tiếp. Trong khi nghiên cứu trực tiếp tại Vùng, luận án đồng thời so sánh với 5 vùng khác và cả nước với mong muốn đưa ra được các kết luận khách quan và tin cậy nhất.

Trình tự nghiên cứu của luận án cũng là thứ tự các chương được kết cấu của luận án bắt đầu từ nghiên cứu tổng quan; hình thành cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu; phân tích định tính đặc điểm tự nhiên- kinh tế- xã hội của vùng và thực trạng đầu tư công,

tăng trưởng kinh tế và quan hệ giữa đầu tư công với tăng trưởng kinh tế; phân tích định lượng tác động của đầu tư công đến tăng trưởng của vùng; cuối cùng đưa ra kết luận và kiến nghị chính sách.

Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua thu thập dữ liệu, tổng hợp, phân tích, so sánh, suy luận...được minh họa qua việc tính toán các tiêu chí, chỉ tiêu, lập biểu bảng, sơ đồ và đồ thị, từ đó rút ra các kết luận khách quan và phù hợp.

Nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua thu thập và tổng hợp số liệu từ các nguồn: Tổng cục thống kê, Cục thống kê các địa phương, các niên giám thống kê cả

nước và 63 tỉnh thành trong cả nước giai đoạn 2010-2022 đối với các chỉ tiêu liên quan, số liệu khảo sát mức sống hộ gia đình của Việt Nam (VLHSS) từ 2010-2022, Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2010-2022 và từ nhiều nguồn khác..., sử dụng phương

pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA) để kiểm định và tính toán chỉ tiêu lợi thế phát triển tổng hợp (được sử dụng để so sánh đánh giá điều kiện đặc thù của Vùng), sử dụng mô hình Hàm sản xuất Cobb - Douglas với các biến thể phù hợp của dữ liệu bảng và phần

mềm SPSS, STATA để ước lượng, đánh giá và phân tích ảnh hưởng của đầu tư công đến tăng trưởng sản lượng của Vùng từ cả 2 khía cạnh Cung và Cầu.

Từ phân tích tổng quan các công trình nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm, từ

thực trạng đầu tư công, tăng trưởng kinh tế và tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế của Vùng theo 2 cách tiếp cận định tính và định lượng, Luận án rút ra một số kết luận sau đây:

130

· Vùng Trung du và miền núi phía bắc là vùng đặc thù về điều kiện phát triển

Phân tích định tính và định lượng đều cho thấy, TD&MNPB là vùng khó khăn,

đặc thù nhất cả nước. Đây là vùng khó khăn toàn diện về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã

hội và an ninh quốc phòng. Cho đến nay, vùng vẫn là vùng trũng về trình độ phát triển

của cả nước, hơn nữa khoảng cách chênh lệch về phát triển giữa Vùng với các vùng

khác và cả nước vẫn chưa được thu hẹp. Mặc dù vậy, vùng lại có nhiều tiềm năng về tài

nguyên khoáng sản và văn hóa, có vị trí chiến lược về an ninh quốc phòng, bảo vệ môi

trường và phát huy giá trị lịch sử truyền thống cần được giữ gìn, phát huy và khơi thông

để phát triển.

· Về thực trạng đầu tư công

- Quy mô đầu tư công của vùng trong hơn 10 năm qua đã không ngừng tăng

lên, song thời kỳ đầu (2011-2015) tăng chậm và tăng nhanh ở thời kỳ 2016-2022, dẫn

đến tỷ lệ vốn Đầu tư công trên GRDP của Vùng vào loại cao nhất trong các vùng của cả

nước. Mặc dù vậy, quy mô vốn đầu tư của vùng vẫn khiêm tốn, chưa đáp ứng được yêu

cầu phát triển của Vùng do quy mô nền kinh tế vùng nhỏ bé, tích lũy nội bộ thấp và khu

vực tư nhân kém phát triển.

- Cơ cấu vốn đầu tư công có sự chuyển dịch phù hợp với chủ trương cơ cấu lại

đầu tư công, theo đó tỷ lệ vốn đầu tư công trên tổng đầu tư đã giảm xuống, nhưng nguồn

vốn NSNN vẫn chiếm tỷ lệ cao (hơn các vùng khác) trong vốn đầu tư công. Nguồn vốn

NSNN trung ương chiếm tỷ lệ đại đa số, trong khi vốn NS địa phượng rất hạn chế. Về

cơ cấu ĐTC theo mục đích sử dụng, đã chuyển dịch đúng hướng tăng cường đầu tư cho

Cơ sở hạ tầng Giao thông, hạ tầng xã hội, tạo nên hệ thống cơ sở hạ tầng bước đầu phục

vụ tích cực cho sản xuất, đời sống và an ninh quốc phòng. Mặc dù vậy, cơ sở hạ tầng

vẫn là khâu yếu của vùng, cơ sở hạ tầng giao thông còn khó khăn, cơ sở hạ tầng viễn

thông chậm cải thiện, cơ sở hạ tầng điện, nước, môi trường, xã hội còn nhiều bất cập.

- Hiệu quả đầu tư nói chung và đầu tư công vẫn còn thấp so với các vùng khác

do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan về quản lý, song yếu tố khách quan, nhất là địa

hình khó khăn, phức tạp, khí hậu khắc nghiệt là đặc thù riêng của vùng rất quan trọng.

ICOR cũng như tỷ lệ vốn đầu tư công và gia tăng sản lượng đều ở mức cao ở vùng

TD&MNPB có thể phản ánh những khó khăn đặc thù của khu vực này trong việc sử

dụng vốn hiệu quả. Đây là khu vực địa lý có địa hình phức tạp, điều kiện tự nhiên khó

khăn hơn so với nhiều vùng khác, dẫn đến chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng cao hơn. Địa

hình đồi núi cản trở việc xây dựng đường sá và phát triển các công trình hạ tầng khác,

khiến cho việc triển khai các dự án đầu tư trở nên tốn kém và thời gian hoàn thành dài

131

hơn. Vùng TD&MNPB có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn, trình độ công nghệ và kỹ

năng lao động chưa cao... làm giảm khả năng tối ưu hóa sử dụng vốn, khi mà lao động

không được đào tạo đầy đủ để vận hành công nghệ tiên tiến, cơ sở hạ tầng công nghệ

chưa được đầu tư đúng mức để hỗ trợ phát triển công nghiệp và dịch vụ. Sự thiếu hụt về

nguồn nhân lực có trình độ và công nghệ hiện đại là một trong những rào cản lớn nhất

đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở khu vực này.

Yếu tố quản lý và thể chế cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích sự

khác biệt về ICOR. Ở các địa phương miền núi, sự quản lý thiếu hiệu quả, quy trình phê

duyệt dự án kéo dài, và sự thiếu minh bạch trong việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công

có thể làm giảm hiệu quả của các khoản đầu tư. Các chính sách khuyến khích đầu tư

chưa được áp dụng một cách hiệu quả hoặc chưa phù hợp với điều kiện thực tế của địa

phương, dẫn đến việc sử dụng vốn kém hiệu quả.

· Tăng trưởng kinh tế của vùng TD&MNPB

Tăng trưởng kinh tế của vùng TD&MNPB thời kỳ qua vào loại khá và ổn định,

tăng nhanh trong những năm gần đây, nằm trong số 3 vùng có tăng trưởng cao nhất. Tuy

nhiên, tăng trưởng không đồng đều giữa các địa phương trong vùng, chủ yếu tập trung

vào một số ít địa phương như Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ và Lào Cai. Các địa

phương còn lại tăng trưởng thấp và thiếu ổn định. Đến nay, tỷ lệ đóng góp vào sản lượng

cả nước của Vùng vẫn ở mức thấp (8%), chỉ xếp trên vùng Tây Nguyên. Chất lượng

tăng trưởng vẫn còn thấp và chậm cải thiện, hiệu quả vốn đầu tư thấp thể hiện ICOR vào

loại cao nhất cả nước, năng suất lao động trung bình của vùng thấp nhất cả nước. Nhờ

tăng trưởng kinh tế khá trong những năm gần đây đồng thời với thực hiện các Chương

trình mục tiêu quốc gia đã tác động tích cực đến xóa đói giảm nghèo, tuy nhiên đến nay

tỷ lệ hộ nghèo của vùng vẫn cao nhất cả nước.

· Tác động đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế của vùng TD&MNPB

Kết quả phân tích định lượng cho thấy, đầu tư công đã tác động nhất định đến

tăng trưởng kinh tế thông qua các khía cạnh: tăng vốn sản xuất đặc biệt là cải thiện cơ

sở hạ tầng, kích thích chi tiêu nhất là chi tiêu hộ gia đình, cải thiện năng suất lao động,

đẩy mạnh xuất khẩu và kích thích đầu tư tư nhân. Cụ thể:

Tác động của ĐTC đến sản lượng ở vùng TD&MNPB cao và gấp 2 lần so với

trung bình cả nước

So sánh kết quả ước lượng mô hình tổng thể cả nước và của vùng TD&MNPB

cho thấy, trung bình tác động của Đầu tư công đến sản lượng ở vùng TD&MNPB cao

132

hơn gấp đôi so với trung bình cả nước (hệ số của biến lnig_TT tương ứng là 0,2843143

ở vùng TD&MNPB và 0,1396891 đối với cả nước).

Trong nội bộ vùng TD&MNPB yếu tố đặc thù không ảnh hưởng đến quan hệ

giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế

Mô hình hồi quy sản lượng của vùng TD&MNPB theo phương pháp GMM cho

thấy, đầu tư công có tác động tích cực đến sản lượng của vùng. So với các nhân tố khác

như đầu tư trực tiếp nước ngoài, lao động, đầu tư tư nhân thì tác động của đầu tư công

đến sản lượng là lớn nhất (Kết luận này cùng hoàn toàn phù hợp với kết luận từ nghiên

cứu của Nguyễn Đoan Trang (2018)). Đặc biệt, trong phạm vi vùng mô hình định lượng

cho thấy, ảnh hưởng của yếu tố đặc thù địa phương không có ý nghĩa thống kê trong tác

động đến quan hệ giữa giữa đầu tư công và sản lượng. Kết quả này là phù hợp bởi hầu

hết các địa phương trong vùng (11/14 tỉnh) có chỉ số lợi thế thấp và khá tương đồng, chỉ

có 3 tỉnh (Phú Thọ, Thái Nguyên và Bắc Giang) có chỉ số xấp xỉ trung bình cả nước.

Đầu tư công tác động tích cực đến thu nhập bình quân đầu người của Vùng

TD&MNPB

GRDP bình quân đầu người cũng là một chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế.

Thực hiện ước lượng mô hình tác động của ĐTC đến TNBQ đầu người của vùng cho

thấy vốn đầu tư công có tác động mạnh đến thu nhập bình quân đầu người tại Vùng và

sự khác nhau về lợi thế giữa các địa phương trong vùng không ảnh hưởng đến mức tác

động của đầu tư công đến thu nhập bình quân đầu người. Ngoài ra, đầu tư tư nhân và

lao động thời gian qua không ảnh hưởng đến thu nhập bình quân đầu người của vùng.

Điều này kết hợp với kết luận phân tích định tính ở chương 3 cho thấy, đầu tư công thời

gian qua chưa kích thích được đầu tư tư nhân và chưa có tác động đáng kể đến chất

lượng nguồn nhân lực của vùng. Điều naỳ cho thấy, đầu tư công chưa có tác động tích

cực đến tăng trưởng kinh tế thông qua kênh kích thích đầu tư tư nhân.

Đầu tư công tác động yếu đến tăng Năng suất lao động của Vùng

Mô hình nghiên cứu Tác động của đầu tư công đến Năng suất lao động của vùng

cho thấy đầu tư công có ảnh hưởng yếu đến năng suất lao động của vùng và các địa

phương có chỉ số đặc thù thấp hơn, ảnh hưởng của đầu tư công đến NSLĐ cũng cao hơn.

Tuy nhiên kết quả ước lượng mô hình cũng cho thấy, biến lao động tác động tiêu cực

đến NSLĐ của vùng, cụ thể khi số lao động tăng lên, NSLĐ của vùng lại giảm xuống,

đồng nghĩa với việc sản lượng tăng chậm hơn tốc độ tăng của lao động, phản ánh chuyển

dịch cơ cấu lao động của vùng có xu hướng bất lợi đối với tăng trưởng sản lượng.

133

Đầu tư công chưa có tác động đến đầu tư tư nhân của Vùng

Kết quả ước lượng mô hình tác động của đầu tư công đến đầu tư tư nhân cho

hệ số của biến đầu tư công (lnig_ttv2) và biến tương tác (RAIlnig_ttv2) không có ý

nghĩa thống kê, chứng tỏ đầu tư công chưa có ảnh hưởng đến đầu tư tư nhân của

vùng. Từ đó có thể kết luận, đầu tư công chưa kích thích được đầu tư tư nhân của

Vùng, vì thế tác động của đầu tư tư nhân đến gia tăng sản lượng còn hạn chế so với

các vùng khác và cả nước.

Tác động của ĐTC đến tăng trưởng ở vùng đặc thù cao hơn ở các vùng khác

Cũng từ mô hình định lượng cả nước (bao gồm cả 6 vùng) cho thấy, tác động của

đầu tư công đến sản lượng ở Vùng TD&MNPB là cao nhất, tiếp đến theo thứ tự giảm

dần là Vùng Tây Nguyên, vùng ĐB Sông Cửu Long, vùng Bắc Trung bộ và DHMT,

vùng Đông Nam bộ và vùng ĐB Sông Hồng. Xu hướng này hoàn toàn ngược lại với xu

hướng tăng chỉ số lợi thế phát triển.

Thực tế đó, cho phép kết luận: Thời gian qua, đầu tư công ở Việt Nam có tác

động tích cực đến sản lượng và tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên ở các vùng có điều kiện

đặc thù về điều kiện phát triển (khó khăn) mức tác động cao hơn so với các vùng có lợi

thế phát triển cao hơn (Đặc thù thấp hơn). Hơn nữa, với các vùng có lợi thế về điều kiện

phát triển cao hơn mức trung bình cả nước, tác động của đầu tư công đến tăng trưởng

kinh tế có xu hướng giảm khi chỉ số lợi thế càng cao, ngược lại với các vùng đặc thù,

tác động của đầu tư công đến tăng trưởng không chỉ cao hơn các vùng còn lại mà xu thế

tác động cao sẽ tiếp tục duy trì cho đến khi chỉ số lợi thế đạt mức trung bình của cả nước.

Phân tích các nhân tố tác động đến quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế cũng

đã cho thấy ảnh hưởng của các nhân tố ở các mực độ khác nhau. Các nhân tố bao gồm:

Môi trường thể chế chung; Cơ chế, chính sách đầu tư công; Điều kiện tự nhiên, kinh tế

và xã hội của Vùng; Trình độ phát triển của vùng; Quy mô, chất lượng và hiệu quả của

5.2. Kiến nghị chính sách

đầu tư công của Vùng.

Kết quả nghiên cứu định tính và định lượng của Luận án cho thấy đầu tư công có

vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của vùng TD&MNPB - một vùng đặc thù

về điều kiện phát triển. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, đối với những vùng đặc thù (Như

Tây Nguyên) vai trò của đầu tư công với tăng trưởng kinh tế cũng quan trọng không kém.

Ngoài ra, với những vùng đặc thù về điều kiện phát triển, mức độ tác động của đầu tư công

cao hơn các vùng khác và mức tác động đó sẽ tiếp tục được duy trì cho đến khi chỉ số lợi

thế phát triển tổng hợp (RAI) cân bằng với chỉ số trung bình của cả nước.

134

Từ kết luận trên đây, luận án đề xuất các kiến nghị giải pháp sau đây nhằm phát

huy vai trò tác động tích cực của Đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế của Vùng

TD&MNPB, các vùng đặc thù về điều kiện phát triển, thúc đẩy các vùng phát triển

nhanh và bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển so với các vùng khác và cả nước.

· Tăng quy mô phân bổ vốn đầu tư công cho vùng TD&MNPB và các vùng đặc

thù về điều kiện phát triển

Luận án đã chỉ ra vùng TD&MNPB hiện tại là vùng có lợi thế phát triển thấp nhất

so với các vùng khác trong cả nước cũng là vùng có tính đặc thù cao nhất trong cả nước.

Qua phân tích thực trạng đầu tư công cũng cho thấy quy mô vốn đầu tư công

trung bình các địa phương trong vùng cũng thấp nhất. Trong khi vốn đầu tư công được

xác định gồm vốn ngân sách nhà nước (Trung ương và địa phương), vốn tín dụng và

vốn khác thì cả 3 nội dung này đều có giá trị tuyệt đối rất nhỏ so với các vùng khác trong

cả nước. Chính vì vậy, trong điều kiện phát triển thấp, các nguồn vốn khác như tín dụng,

nguồn vốn khác khó huy động, ngân sách địa phương cho đầu tư công hạn hẹp thì tăng

nguồn vốn ngân sách nhà nước trung ương cho vùng là cần thiết và hợp lý. Theo tác giả,

trong điều kiện hiện nay, việc san sẻ quỹ đầu tư công từ các địa phương và vùng phát triển

cho các địa phương và vùng khó khăn là việc nên làm và hợp lý nhằm tạo điều kiện cho

các vùng kém phát triển giảm bớt khoảng cách chênh lệch phát triển so với các vùng khác.

Tính hợp lý ở đây có thể được lý giải bởi các lý do: Các tỉnh phát triển đã được hưởng lợi

trong quá trình phát triển về nhiều mặt từ vùng kém phát triển như thị trường, nguồn lao

động, năng lượng, an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường (không khí và nguồn nước)…

Việc tăng NSNNTW có thể được thực hiện bằng việc nghiên cứu hoàn thiện cơ

chế phân bổ vốn khi xây dựng kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn theo hướng ưu tiên

hơn đối với các vùng khó khăn, đặc thù về điều kiện phát triển. Cơ chế phân bổ vốn đầu

tư công trung hạn hiện nay (quyết định số 26/2020/QĐ-TTg ngày 14/9/2020 về quy định

chi tiết một số điều của Nghị quyết số 973/2020/UBTVQH14 ngày 08 tháng 7 năm 2020

của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ

vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025) còn nhiều bất cập, thể

hiện tính bình quân cao dẫn đến phân tán nguồn vốn và hiệu quả đầu tư thấp. Đặc biệt

trong cơ cấu tính điểm phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách Trung ương trong

nước bổ sung có mục tiêu cho ngân sách địa phương, cơ cấu điểm cho tiêu chí bổ sung

là rất thấp và chưa hợp lý. Thực tế cho thấy, các địa phương và vùng có điều kiện khó

khăn rất cần được tập trung nguồn vốn để đầu tư vào các dự án có tác dụng tạo động lực

để phát triển, dẫn đến hiệu quả đầu tư sẽ cao hơn đứng trên giác độ toàn quốc.

135

· Cần có cơ chế và chính sách đặc thù cho vùng TD&MNPB để tạo nguồn vốn

đảm bảo cho đầu tư công

Như kết luận trên đây, vùng TD&MNPB đến nay vẫn đang là khu vực "thấp nhất"

cả về kinh tế, văn hóa, xã hội… của cả nước. Nhiều vấn đề như xóa đói giảm nghèo, bảo

đảm an ninh, phòng chống tội phạm, ứng phó thiên tai, y tế, giáo dục… đã và sẽ còn tồn

tại lâu dài không dễ khắc phục trong ngắn hạn. Để vùng nhanh chóng khắc phục được

các yếu điểm về điều kiện phát triển, tạo động lực mới cho tăng trưởng nhằm sớm

đưa kinh tế - xã hội của vùng đuổi kịp sự phát triển của cả nước, thời gian tới cần tập

trung triển khai dự án cơ sở hạ tầng giao thông, kết nối giao thông của vùng với Bắc

Lào, Nam Trung Quốc; kết nối giao thông với vùng đồng bằng sông Hồng và Thủ đô

Hà Nội; triển khai chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; phát

triển kinh tế lâm nghiệp; vừa phát triển, giữ rừng "giữ lá phổi và nguồn nước cho

miền Bắc" vừa lo sinh kế cho người dân; phát triển vùng dược liệu và nông sản đặc

sản tập trung; phát triển kinh tế du lịch, thị trường tín chỉ carbon; đẩy mạnh kết nối,

hợp tác kinh tế, thương mại, du lịch qua biên giới giữa các tỉnh trong vùng với các

địa phương ven biên giới của Trung Quốc và Lào; đảm bảo an ninh chủ quyền vùng

biên của đất nước.

Những định hướng phát triển trên đây yêu cầu nguồn lực đầu tư rất lớn trong khi

nguồn lực nội bộ của vùng rất hạn chế, đòi hỏi sự hỗ trợ tích cực của Trung ương với cơ

chế chính sách đặc thù.

Kiến nghị nghiên cứu để ban hành cơ chế đặc thù áp dụng cho vùng TD&MNPB

bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:

- Cơ chế đặc thù về thị trường tín chỉ carbon;

- Nâng khoán kinh phí bảo vệ rừng;

- Sửa đổi và bổ sung chính sách tài chính, chính sách thuế cho các dự án thủy

điện quan trọng, nhằm tăng tỷ trọng nguồn thu được phân bổ cho các địa phương trong

vùng Trung du và miền núi phía Bắc.

- Sửa đổi và bổ sung các chính sách thuế đối với hoạt động xuất nhập khẩu tại

các cửa khẩu nhằm tăng tỷ trọng nguồn thu được phân bổ cho các địa phương trong

vùng Trung du và miền núi phía Bắc.

- Nâng trần tỉ lệ vay để giúp các tỉnh có thêm nguồn lực đầu tư phát triển các dự

án hạ tầng trọng điểm,…

- Có chiến lược phát triển du lịch cho người dân vùng dân tộc thiểu số;

136

· Cần có cơ chế đặc thù về Hợp tác đối tác công tư (PPP) tại vùng TD&MNPB

Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Public Private Partnership - PPP) là

phương thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp tác có thời hạn giữa Nhà nước và nhà

đầu tư tư nhân thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng dự án PPP nhằm thu hút nhà

đầu tư tư nhân tham gia dự án PPP.

Trong chương 3, Luận án đã phản ánh thực trạng số lượng dự án theo hình thức

PPP ở vùng TD&MNPB là rất ít do khó thu hút các nhà đầu tư. Nguyên nhân chủ yếu

là do các dự án (CSHT) ở vùng miền núi khó khăn, chi phi đầu tư cao, lưu lượng thấp,

thời gian hoàn vốn kéo dài 20 - 30 năm, việc bù đắp chi phí và thu lợi nhuận cho các

nhà đầu tư là rất khó khăn.

Ngày 18/6/2020 Quốc hội khóa 14 đã thông qua Luật Đầu tư theo phương thức

đối tác công tư, có hiệu lực từ ngày 01-01-2021. Ngày 29-3-2021 Chính phủ đã ban hành

Nghị định số 35/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật đầu tư theo

phương thức đối tác công tư, trong đó có ghi rõ các ưu đãi trong lựa chọn nhà đầu tư. Tuy

nhiên để thu hút các nhà đầu tư tham gia vào các dự án PPP ở Vùng, cần có cơ chế đặc

thù so với quy định chung của Luật. Theo tác giả, Luật PPP cần tạo ra cơ chế khuyến

khích nhà đầu tư phát huy năng lực, trình độ khoa học công nghệ, khả năng quản lý, sáng

tạo, chấp nhận rủi ro… khi thực hiện dự án PPP ở vùng TD&MNPB. Cơ chế đặc thù có

thể bao gồm các nội dung chủ yếu như: Tỷ lệ vốn NSNN tham gia vào dự án không hạn chế (Hiện nay đề xuất không quá 70%); Chi phí về suất đầu tư cần được xác định khách

quan và phù hợp với điều kiện đặc thù của địa hình vùng núi; Trần tỷ lệ vay và thời hạn

trả nợ cho ngân hàng cần được nâng lên (hiện nay là 15 năm); mức doanh thu bắt đầu chia

sẻ rủi ro cũng cần quy định linh hoạt sao cho hấp dẫn hơn nhà đầu tư so với quy định hiện

nay của Luật... Các bổ sung về cơ chế đặc thù cần thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm lợi

ích của nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP, người sử dụng và Nhà nước, tạo điều kiện

để nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP thu hồi vốn và có lợi nhuận.

· Hoàn thiện cơ cấu đầu tư công vùng TD&MNPB

Về cơ cấu theo nguồn vốn, thời gian qua trong cơ cấu vốn đầu tư công của vùng, vốn ngân sách nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo (68%), việc huy động các nguồn vốn

vay và từ các nguồn vốn khác của Vùng còn hạn chế. Trong điều kiện vốn NSNN hạn

chế, việc tăng cường huy động các nguồn vốn vay và vốn đầu tư khác là rất quan trọng

nhằm tăng quy mô vốn đầu tư công cho vùng.

Về cơ cấu theo lĩnh vực, hiện tại các dữ liệu về cơ cấu này còn khó khăn nên

chưa có được đánh giá đầy đủ. Tuy nhiên, trên thực tế vùng TD&MNPB còn bất cập lớn

137

cơ sở hạ tầng giao giao thông. Thời gian qua với sự nỗ lực của Chính phủ, các tuyến

đường cao tốc như đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Thái Nguyên, Bắc Giang

- Lạng Sơn, Hà Nội - Hòa Bình đã được hoàn thành góp phần giảm thiểu thời gian và

chi phí vận chuyển hàng hóa giữa các vùng. Tuy nhiên, một số địa phương xa hơn như

Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Cao Bằng…CSHT giao thông vẫn còn khó khăn. Đặc biệt

hệ thống giao thông bằng đường nhánh kết nối với các trục chính vẫn còn lạc hậu. Ngoài

ra, cơ sở hạ tầng khác vẫn còn trong tình trạng thấp kém hơn nhiều so với các vùng khác.

Vì vậy, hoàn thiện đầu tư công trong thời gian tới cần ưu tiên các loại hình sau đây:

- Trước hết, hạ tầng giao thông là một trong những yếu tố quan trọng nhất cần

được tập trung đầu tư phát triển. Cần ưu tiên vốn đầu tư thực hiện các dự án cơ sở hạ

tầng giao thông kết nối vùng với Bắc Lào, Nam Trung Quốc, với vùng đồng bằng sông

Hồng và Thủ đô Hà Nội. Bên cạnh hệ thống giao thông đường bộ cần phát huy giao

thông đường sắt và cả các tuyến đường thủy nội địa để nâng cao khả năng kết nối liên

vùng. Việc xây dựng và nâng cấp các tuyến đường cao tốc, cầu đường và cảng nội địa

là vô cùng cần thiết để cải thiện khả năng lưu thông hàng hóa và con người.

- Cơ sở hạ tầng năng lượng cũng đóng vai trò then chốt trong việc phát triển kinh

tế vùng. Nguồn cung cấp năng lượng ổn định và hiệu quả là yếu tố quyết định đối với

việc thu hút đầu tư và phát triển các ngành công nghiệp. Vùng có tiềm năng lớn về thủy

điện, nhưng việc khai thác và phát triển các dự án thủy điện cần đảm bảo tính bền vững,

tránh những tác động tiêu cực đến môi trường và cộng đồng địa phương. Ngoài ra, cần

đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo như điện gió và điện mặt trời để đa dạng hóa

nguồn cung cấp năng lượng và giảm phụ thuộc vào các nguồn năng lượng truyền thống.

Việc phát triển mạng lưới điện nông thôn cũng là một ưu tiên, giúp cải thiện đời sống

của người dân và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế ở các khu vực khó khăn.

- Hạ tầng nước sạch và vệ sinh môi trường là một lĩnh vực khác cần được chú

trọng phát triển. Việc cung cấp nước sạch không chỉ cải thiện sức khỏe và chất lượng

cuộc sống của người dân mà còn là điều kiện cần thiết để thu hút đầu tư vào các ngành

công nghiệp và dịch vụ. Đối với vùng trung du và miền núi, việc xây dựng các hệ thống

cung cấp nước sạch và xử lý nước thải cần được thực hiện đồng bộ với các dự án phát

triển đô thị và công nghiệp. Bên cạnh đó, cần có các chương trình nâng cao nhận thức

cộng đồng về tầm quan trọng của việc bảo vệ nguồn nước và vệ sinh môi trường, từ đó

thúc đẩy sự tham gia của người dân vào các hoạt động bảo vệ môi trường.

- Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) là cần thiết để hỗ

trợ các hoạt động kinh tế và cải thiện chất lượng dịch vụ công. Vùng TD&MNPB có

138

nhiều địa phương vẫn còn hạn chế về khả năng tiếp cận Internet và các dịch vụ viễn

thông. Để khắc phục điều này, cần đầu tư vào hạ tầng viễn thông, mở rộng mạng lưới

Internet băng thông rộng và các dịch vụ công trực tuyến. Điều này không chỉ giúp kết

nối vùng xa xôi với các trung tâm kinh tế lớn mà còn mở ra cơ hội cho phát triển kinh

tế số, giáo dục từ xa, và các dịch vụ y tế điện tử.

- Phát triển hạ tầng giáo dục và y tế cũng là một phần quan trọng của chiến lược

phát triển cơ sở hạ tầng. Đầu tư vào các cơ sở giáo dục và y tế không chỉ giúp nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực mà còn cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân. Đặc

biệt, cần chú trọng đến việc đào tạo và phát triển đội ngũ giáo viên, bác sĩ và nhân viên

y tế để nâng cao chất lượng dịch vụ đối với đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa.

- Hạ tầng đô thị cũng cần được phát triển đồng bộ với các ngành khác. Quy hoạch

đô thị bền vững, bao gồm việc xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới và các cơ

sở hạ tầng công cộng, là cần thiết để hỗ trợ phát triển kinh tế và cải thiện môi trường

sống cho người dân. Cần có các chính sách khuyến khích đầu tư vào phát triển đô thị,

đặc biệt là ở các thành phố trung tâm và các khu vực có tiềm năng phát triển.

- Phát triển cơ sở hạ tầng cần có sự phối hợp giữa các cấp chính quyền và sự tham

gia của khu vực tư nhân. Hợp tác công tư (PPP) có thể là một giải pháp hiệu quả để huy

động nguồn lực đầu tư và tăng cường hiệu quả quản lý các dự án hạ tầng. Chính quyền

cần tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân tham gia vào các dự án phát triển hạ

tầng thông qua các chính sách ưu đãi và khung pháp lý rõ ràng. Đồng thời, cần có cơ

chế giám sát và đánh giá độc lập để đảm bảo các dự án được thực hiện đúng tiến độ và

đạt được các mục tiêu đề ra.

Về cơ cấu theo địa phương trong nội bộ vùng:

Vùng TD&MNPB bao gồm 14 tỉnh nhưng trình độ phát triển không đồng đều.

Ngoài 4 tỉnh có trình độ phát triển cao hơn gồm Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ và

Lào Cai, các tỉnh còn lại có trình độ phát triển gần như thấp nhất trong cả nước xét trên tất

cả các tiêu chí. Trong điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội khó khăn, nguồn thu NS địa

phương hạn hẹp, khu vực đầu tư tư nhân yếu kém, các địa phương này rất hạn chế nguồn

lực vốn cho đầu tư phát triển. Vì vậy, trên cơ sở cơ chế đặc thù cho vùng, Hội đồng điều

phối Vùng TD&MNPB cần tham mưu chính sách điều chỉnh hợp lý cơ cấu đầu tư công

nội bộ vùng để hỗ trợ nguồn vốn cho các địa phương khó khăn có điều kiện phát triển.

· Nâng cao hiệu quả đầu tư công của vùng TD&MNPB và vùng đặc thù

Kết quả nghiên cứu của Luận án đã chỉ ra mức độ tác động của đầu tư công đến

sản lượng và thu nhập bình quân đầu người ở vùng đặc thù là cao hơn so với các vùng

139

khác. Tuy nhiên hiệu quả đầu tư công ở vùng TD&MNPB lại đạt thấp. Nguyên nhân

khách quan là do điều kiện tự nhiên, khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp…và nguyên

nhân chủ quan thuộc về trình độ quản lý, tiến độ giải ngân chậm, chất lượng các dự án

đạt thấp…vẫn là nguyên nhân chủ yếu.

Tiến độ giải ngân chậm có liên quan đến nhiều yếu tố bao gồm sự bất cập trong

thể chế chính sách về lĩnh vực đất đai, tài nguyên, môi trường, đấu thầu dự án, thi công

xây dựng…; sự yếu kém trong tổ chức triển khai thực hiện đầu tư, dẫn đến kéo dài thời

hạn đầu tư làm cho hiệu quả đầu tư đạt thấp. Vì vậy, cần điều chỉnh quy định pháp lý,

giảm thủ tục hành chính quản lý và sử dụng vốn đầu tư công. Đẩy mạnh cải cách thủ tục

hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xử lý thủ tục đầu tư công, tăng

cường quản lý đất đai, nhất là nguồn gốc đất, quy hoạch sử dụng các loại đất, hạn chế

tối đa việc điều chỉnh phương án đền bù, bảo đảm tiến độ giải phóng mặt bằng; nghiên

cứu và có những giải pháp hữu hiệu để tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm thực hiện,

đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa, tác động đối với nền kinh

tế. Tập trung giải quyết công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ tái định cư kịp

thời, đúng quy định cho người dân, bảo đảm đúng pháp luật và hài hòa lợi ích của Nhà

nước và người dân, đảm bảo nhanh tiến độ thực hiện dự án. Đối với nhóm nguyên nhân

thứ hai, cần tăng cường tổ chức triển khai quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân

vốn đầu tư công, xử lý kịp thời các điểm nghẽn trong giải ngân vốn đầu tư công. Kiểm

soát chặt chẽ sự cần thiết, quy mô từng dự án theo đúng quy hoạch, mục tiêu đã được

duyệt, bảo đảm hiệu quả đầu tư và kết quả đầu ra của từng dự án; nâng cao chất lượng

công tác lựa chọn tư vấn trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị dự án.

· Tăng cường công tác quản lý đầu tư công ở vùng TD&MNPB

Trong những năm gần đây, thực tế mức độ giải ngân vốn đầu tư công của vùng

cũng còn chậm, chẳng hạn năm 2022-2023 tập trung chủ yếu vào 9 tỉnh vùng núi và

biên giới. Nguyên nhân phổ biến được các địa phương đưa ra là do phải mất nhiều thời

gian để hoàn thành thủ tục đầu tư, giải phóng mặt bằng, xác định nguồn vật liệu san lấp,

chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng, đất lúa sang mục đích khác…Bên cạnh đó, sự

yếu kém trong công tác quản lý đầu tư công cũng là một nguyên nhân quan trọng. Trong

thời gian tới cần hoàn thiện quản lý đầu tư công hướng vào các nội dung sau đây:

- Xác định đúng chủ trương đầu tư và quyết định chương trình, dự án đầu tư công

Căn cứ, điều kiện để xác định chủ trương đầu tư đã được Luật Đầu tư công nêu rõ

là “Phù hợp với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch có liên

quan theo quy định của pháp luật về quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền quyết định

140

hoặc phê duyệt” và “Phù hợp với khả năng cân đối nguồn vốn đầu tư công và khả năng

huy động các nguồn vốn khác đối với chương trình, dự án sử dụng nhiều nguồn vốn”. Thời

gian qua, do hiệu quả thực hiện Luật đầu tư công, Luật Quy hoạch chưa cao, các văn

bản pháp luật khác còn thiếu tính đồng bộ, việc phê duyệt chủ trương đầu tư một số dự

án còn mang tính hình thức. Việc đưa ra quá nhiều căn cứ cho việc định hướng đầu tư

dẫn đến định hướng quá dàn trải, không lựa chọn được những dự án thực sự cần thiết

cho địa phương. Do vậy để định hướng đầu tư có hiệu quả cần nghiên cứu thống nhất

các văn bản hướng dẫn chi tiết về tiêu chuẩn, phạm vi, quy mô các dự án dựa trên vai

trò của các dự án đối với điều kiện phát triển của từng địa phương theo quy hoạch, chiến

lược phát triển đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Trên địa bàn vùng TD&MNPB, hiện nay Quy hoạch vùng TD&MNPB giai đoạn

2021-2030, tầm nhìn đến 2050 đã được phê duyệt với “Nhiệm vụ trọng tâm và khâu đột

phá trong thời kỳ quy hoạch là: Tập trung phát triển kết cấu hạ tầng, ưu tiên phát triển

hệ thống giao thông kết nối với Thủ đô Hà Nội, vùng đồng bằng sông Hồng, tiểu vùng

Bắc Trung Bộ và với Trung Quốc, Lào. Đẩy nhanh tiến độ, chuẩn bị và khởi công xây

dựng các tuyến đường sắt tốc độ cao Lạng Sơn - Hà Nội, Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng -

Quảng Ninh. Xây dựng, nâng cấp hạ tầng logistics, hạ tầng các khu kinh tế cửa khẩu, các

khu du lịch, hạ tầng thông tin, truyền thông và hạ tầng kinh tế số” (Quyết định 369/QĐ-

TTg). Về giao thông đường bộ, giai đoạn 2021-2030 có dến 8/14 dự án giao thông quan

trọng ở Miền Bắc được xác định theo quy hoạch này. Đây là những căn cứ quan trọng để

đề xuất chủ trương đầu tư công trên cơ sở cân nhắc đến khả năng nguồn vốn.

- Hoàn thiện công tác lập, thẩm định và giao kế hoạch đầu tư công

Kế hoạch đầu tư công là bước tiếp sau quyết định chủ trương đầu tư công. Kế

hoạch đầu tư công được phân chia theo thời gian (gồm kế hoạch trung hạn và hàng năm);

kế hoạch theo cấp độ quản lý (Quốc gia, Cơ quan bộ ngành trung ương và địa phương); Kế hoạch theo nguồn vốn (NSTW, NSĐP và Nguồn thu hợp pháp của cơ quan nhà

nước). Kế hoạch đầu tư cần được xây dựng một cách khách quan, có căn cứ khoa học,

đảm bảo tính hiệu quả và khả thi. Việc phối hợp các kế hoạch trong một thể thống nhất

là rất phức tạp, đòi hỏi các cấp, các ngành và địa phương phải có sự phối hợp chặt chẽ,

có tính trách nhiệm cao theo đòi hỏi về mặt nội dung và thời gian.

Hiện tại, đối với vùng TD&MNPB, những khó khăn biểu hiện ở các khía cạnh

như nguồn nhân lực, phương tiện, nguồn dữ liệu thiếu hệ thống và đầy đủ...là các trở

ngại lớn đối với yêu cầu xây dựng kế hoạch đầu tư. Một trong những yêu cầu khách

quan là kế hoạch đầu tư công phải gắn liền với chu trình ngân sách, trong khi những dự

141

báo về dự toán ngân sách luôn là thách thức đối với các nhà quản lý liên quan rất nhiều

đến phương pháp tiên hành.

Vì vậy, trong thời gian tới cần có giải pháp phù hợp khắc phục các trở ngại trên

đây nhằm đưa công tác xây dựng, thẩm định và giao kế hoạch đầu tư công đạt hiệu quả.

- Nâng cao năng lực của Cơ quan chuyên môn quản lý đầu tư công

Cơ quan chuyên môn quản lý đầu tư công là đơn vị có chức năng quản lý đầu tư

công thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư; đơn vị được giao quản lý đầu tư công của Bộ, cơ

quan trung ương, địa phương; phòng, ban có chức năng quản lý đầu tư công thuộc Ủy

ban nhân dân cấp huyện, cấp xã. Cơ quan chuyên môn quản lý đầu tư công tổ chức theo

dõi, kiểm tra kế hoạch đầu tư công thuộc cơ quan, đơn vị quản lý với những nội dung

gồm: Tình hình thực hiện quy định của pháp luật về đầu tư công; Việc lập, thẩm định,

phê duyệt, giao kế hoạch đầu tư công; Việc lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện các

chương trình, dự án được bố trí trong kế hoạch đầu tư công; Tình hình thực hiện kế

hoạch đầu tư công; Tình hình nợ đọng xây dựng cơ bản, lãng phí, thất thoát trong đầu

tư công.

Khảo sát tại một số địa phương ở vùng TD&MNPB tác giả nhận thấy Cơ quan

chuyên môn quản lý đầu tư công chưa được tổ chức cụ thể, chức năng nhiệm vụ chưa

được quán triệt đầy đủ, do vậy công tác quản lý đầu tư công còn mang tính chất chỉ đạo

chung của cấp ủy, chính quyền các cấp. Do vậy vai trò quản lý nhà nước về đầu tư công

chưa được phát huy, năng lực, ý thức, trách nhiệm và tính chủ động, tự chịu trách nhiệm

của các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư công trên địa bàn còn nhiều hạn chế. Các

chương trình và dự án đầu tư chưa được kiểm soát chặt chẽ về phạm vi, quy mô theo

đúng mục tiêu, lĩnh vực, chương trình đã phê duyệt. Việc sử dụng vốn hiệu quả còn

thấp, không tránh khỏi thất thoát, lãng phí trong đầu tư. Các dự án còn tồn tại, vướng

mắc về quyết toán chậm được xử lý dứt điểm; nợ đọng xây dựng chưa được giải quyết

triệt để. Tình trạng khá phổ biến ở nhiều địa phương trong Vùng là tiến độ giải ngân

nguồn vốn đầu tư công chưa đạt yêu cầu, một số dự án còn điều chỉnh nhiều lần, chậm

tiến độ.

Để thực hiện hiệu quả công tác đầu tư công trong thời gian tới, việc hoàn thiện

tổ chức và nâng cao năng lực của cơ quan chuyên môn quản lý đầu tư công ở các địa

phương là hết sức cần thiết. Cơ quan chuyên môn cần được củng cố, kiện toàn đội ngũ,

nâng cao năng lực để chủ động rà soát, tham mưu ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng

dẫn trong hoạt động đầu tư công. Tăng cường hoạt động kiểm tra để kịp thời tháo gỡ

khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai các dự án đầu tư công. Thực hiện

142

nghiêm công tác giám sát, đánh giá đầu tư theo quy định tại Nghị định số 84/2015/NĐ-

CP ngày 30/9/2015 và Nghị định số 01/NĐ-CP ngày 1/1/2020 của Chính phủ. Tăng

cường thanh tra, kiểm tra các dự án đầu tư, xử lý nghiêm các chủ thể có vi phạm trong

hoạt động đầu tư xây dựng, đặc biệt là các vi phạm gây thất thoát, lãng phí vốn ngân

sách nhà nước, vi phạm về chất lượng công trình xây dựng. Đẩy mạnh ứng dụng công

nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư xây

dựng, nhất là trong công tác thẩm định dự án, thanh quyết toán vốn đầu tư.

· Nâng cao năng lực nội tại vùng TD&MNPB và các vùng đặc thù để cải thiện

lợi thế phát triển và đuổi kịp trình độ phát triển của cả nước

Chủ trương tái cơ cấu kinh tế, trong đó có tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư

công theo Quyết định số 339/QĐ - TTg đến nay đã thực hiện được gần 10 năm. Kết quả thực hiện đã thu được nhiều kết quả quan trọng, hạn chế được tình trạng đầu tư

dàn trải, phân tán và lãng phí, kém hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

theo hướng hiệu quả và bền vững. Mặc dù vậy, tái đầu tư công vẫn còn những hạn chế

nhất định: Nhiều quyết định đầu tư chưa căn cứ vào nhu cầu của thị trường, Hiệu quả

kinh tế chưa phải là ưu tiên so với các cân nhắc về chính trị, xã hội, phát triển đồng

đều các vùng miền. Đó là một thực tế khách quan do còn có sự phát triển không đồng

đều giữa các vùng miền bởi sự khác biệt về lợi thế phát triển. Tuy nhiên, theo tác giả,

giai đoạn từ nay đến 2030, các vùng đặc thù cần nỗ lực phấn đấu để sớm thoát khỏi

vùng trũng phát triển của đất nước, tiến tới xóa khoảng cách chênh lệch về trình độ

phát triển với các vùng khác và cả nước. Muốn vậy vùng TD&MNPB cũng như các

vùng đặc thù khác cần thực hiện tốt các nội dung chủ yếu sau đây:

- Hoàn thiện môi trường thể chế và năng lực quản trị địa phương

Cải thiện môi trường thể chế là một yếu tố then chốt trong việc tăng cường tác

động của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế, đặc biệt ở các vùng có điều kiện địa

lý và kinh tế - xã hội đặc thù như vùng TD&MNPB. Với nhiều tiềm năng phát triển về

nông nghiệp, du lịch, tài nguyên thiên nhiên, thowng mại vùng biên..., nếu môi trường

thể chế và năng lực quản trị địa phương được hoàn thiện sẽ tạo động lực thúc đẩy việc

sử dụng vốn đầu tư công nhằm khai thác tối ưu các nguồn lực cho phát triển nhanh và

bền vững.

Để cải thiện môi trường thể chế, cần chú trọng vào việc tăng cường quản lý và

điều hành từ phía chính quyền địa phương. Trước hết cần nâng cao năng lực quản lý

cho đội ngũ cán bộ, đảm bảo kiến thức và kỹ năng cần thiết để thực thi các chính sách

một cách hiệu quả và minh bạch. Các chương trình đào tạo thường xuyên và cập nhật

143

kiến thức về quản lý công có thể giúp đội ngũ này đáp ứng được yêu cầu ngày càng

cao của công việc. Hơn nữa, cần có cơ chế đánh giá và giám sát hiệu quả hoạt động

của các cơ quan nhà nước để đảm bảo sự minh bạch và trách nhiệm giải trình. Điều

này sẽ không chỉ làm tăng niềm tin của người dân mà còn tạo động lực cho các nhà

đầu tư khi thấy rõ sự cam kết của chính quyền trong việc phát triển kinh tế.

Cải cách hành chính là một bước quan trọng trong việc cải thiện môi trường thể

chế. Việc đơn giản hóa và chuẩn hóa các thủ tục hành chính sẽ giúp tiết kiệm thời gian

và chi phí cho cả người dân và doanh nghiệp. Cần đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông

tin vào việc xử lý các thủ tục hành chính, xây dựng các cổng dịch vụ công trực tuyến

để người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận và thực hiện các thủ tục. Điều này

không chỉ giúp tăng tính minh bạch mà còn làm giảm thiểu nguy cơ tham nhũng và

quan liêu.

Bên cạnh đó, việc xây dựng một hệ thống pháp lý rõ ràng và ổn định cũng là

một phần không thể thiếu của môi trường thể chế. Do đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ

giữa các cơ quan lập pháp và hành pháp trong việc xây dựng và điều chỉnh các chính

sách, quy định liên quan đến đầu tư.

Ngoài ra, sự tham gia của cộng đồng địa phương trong quá trình hoạch định và

thực hiện các chính sách phát triển cũng là một yếu tố quan trọng. Khi người dân địa

phương được tham gia vào quá trình ra quyết định, họ sẽ có cảm giác sở hữu và trách

nhiệm đối với các dự án đầu tư công, từ đó tăng cường sự ủng hộ và hợp tác. Điều này

có thể thực hiện thông qua việc tổ chức các cuộc họp công khai, tham vấn cộng đồng,

và đảm bảo tiếng nói của người dân được lắng nghe và phản ánh trong các chính sách.

Một yếu tố khác cần lưu ý là tăng cường sự minh bạch trong quản lý ngân sách và đầu tư công. Điều này đòi hỏi phải có hệ thống kế toán công khai và rõ ràng, cùng

với các báo cáo tài chính được kiểm toán định kỳ. Sự minh bạch này không chỉ giúp

ngăn chặn tham nhũng mà còn tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng cho các

nhà thầu và doanh nghiệp khi tham gia vào các dự án đầu tư công.

Cải thiện môi trường thể chế cần hướng đến việc thúc đẩy sự phát triển của khu

vực kinh tế tư nhân. Chính quyền các địa phương nên tạo điều kiện cho khu vực tư

nhân tham gia vào các dự án đầu tư công thông qua các hình thức hợp tác công tư

(PPP) hoặc các chính sách ưu đãi đầu tư. Việc khuyến khích sự tham gia của khu vực

tư nhân không chỉ giúp giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước mà còn tận dụng

được nguồn lực, kinh nghiệm và sự linh hoạt của khu vực này trong việc thực hiện các

dự án.

144

Cuối cùng, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các cấp chính quyền từ trung ương

đến địa phương trong việc thực hiện các chính sách phát triển. Sự phối hợp này đảm

bảo rằng các chính sách và dự án đầu tư công không chỉ phù hợp với chiến lược phát

triển quốc gia mà còn đáp ứng được nhu cầu và điều kiện thực tế của từng địa phương.

Đồng thời, cần có cơ chế giám sát và đánh giá độc lập để đảm bảo các chính sách và

dự án được thực hiện đúng tiến độ và đạt được các mục tiêu đề ra.

- Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực

Việc đầu tư vào giáo dục là một bước đi cơ bản và quan trọng nhất trong chiến

lược phát triển nguồn nhân lực. Giáo dục không chỉ cung cấp kiến thức mà còn phát

triển kỹ năng và tư duy cho người dân. Ở vùng TD&MNPB, hệ thống giáo dục còn

gặp nhiều hạn chế về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên và tài liệu giảng dạy. Do đó,

việc cải thiện cơ sở hạ tầng giáo dục, bao gồm xây dựng và nâng cấp trường học, cung

cấp trang thiết bị dạy học hiện đại, là rất cần thiết. Bên cạnh đó, cần có các chương

trình đào tạo và phát triển chuyên môn cho giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giảng

dạy. Tăng cường hơn nữa việc đưa giáo dục đến các vùng sâu, vùng xa thông qua các

chính sách hỗ trợ học bổng và phát triển giáo dục từ xa. Bằng cách tập trung vào giáo

dục, đào tạo kỹ năng, cải thiện sức khỏe, thúc đẩy bình đẳng giới, và khuyến khích khởi nghiệp, vùng TD&MNPB có thể tạo ra một lực lượng lao động mạnh mẽ và có

năng lực.

Đào tạo nghề và phát triển kỹ năng cho lao động địa phương cũng là một khía

cạnh quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực. Với sự phát triển của các ngành công

nghiệp và dịch vụ, nhu cầu về lao động có kỹ năng ngày càng tăng. Cần đẩy mạnh

thành lập các trung tâm đào tạo nghề với các khóa học thực hành gắn với nhu cầu thực tế của thị trường lao động, linh hoạt và thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng

của công nghệ và yêu cầu công việc. Cần tăng cường sự hợp tác giữa các doanh

nghiệp, cơ sở đào tạo và chính quyền địa phương để đảm bảo chương trình đào tạo

đáp ứng nhu cầu thị trường lao động và tạo cơ hội việc làm cho người dân địa phương.

Một yếu tố quan trọng khác trong phát triển nguồn nhân lực là cải thiện sức

khỏe và điều kiện sống của người dân. Do đó, cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng y tế, nâng

cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là ở những vùng khó tiếp cận. Các

chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng, khám chữa bệnh miễn phí hoặc giá rẻ, và

nâng cao nhận thức về phòng ngừa bệnh tật là rất cần thiết. Bên cạnh đó, cải thiện điều

kiện sống, như cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường, và nhà ở, cũng đóng vai trò

quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

145

Công tác phát triển nguồn nhân lực không thể thiếu sự chú trọng đến việc bình đẳng

giới và tạo cơ hội cho mọi thành phần trong xã hội. Các chương trình hỗ trợ phụ nữ tham

gia vào lực lượng lao động, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp và dịch vụ, sẽ không

chỉ cải thiện vị thế kinh tế của họ mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Ngoài ra, phát

triển nguồn nhân lực còn liên quan đến việc khuyến khích tinh thần khởi nghiệp và đổi mới

sáng tạo. Việc hỗ trợ khởi nghiệp, thông qua các chương trình đào tạo, tư vấn và cung cấp vốn, sẽ giúp người dân địa phương tự tạo ra việc làm và cải thiện kinh tế gia đình.

Phát triển nguồn nhân lực cũng cần sự hỗ trợ từ các chính sách và chiến lược

quốc gia. Chính phủ cần đóng vai trò định hướng và tạo ra môi trường thuận lợi cho

việc phát triển nguồn nhân lực thông qua các chính sách về giáo dục, lao động, y tế và

phát triển kinh tế. Hợp tác quốc tế cũng có thể đóng góp vào việc nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực, thông qua các chương trình trao đổi, học bổng, và hỗ trợ kỹ thuật từ

các tổ chức quốc tế và các quốc gia phát triển.

- Khai thác tiềm năng kinh tế - xã hội

Khai thác tiềm năng kinh tế - xã hội địa phương là một yếu tố quan trọng trong

chiến lược phát triển bền vững của bất kỳ khu vực nào, đặc biệt là đối với vùng

TD&MNPB. Tuy nhiên, để chuyển đổi những tiềm năng thành động lực kinh tế thực

sự, cần có cách tiếp cận toàn diện và bền vững. Đối với ngành nông nghiệp, cần đầu

tư vào cơ sở hạ tầng thủy lợi, áp dụng các kỹ thuật canh tác hiện đại và phát triển các

sản phẩm nông nghiệp chế biến có giá trị gia tăng cao. Đối với ngành du lịch xây dựng

cơ sở hạ tầng du lịch chất lượng. Khai thác khoáng sản cần được thực hiện với sự kiểm

soát chặt chẽ về môi trường.

Đầu tiên, việc khai thác tiềm năng kinh tế - xã hội vùng này cần bắt đầu từ việc phát triển nông nghiệp. Vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho nhiều loại cây trồng

đặc sản như chè, quế, hồi, và các loại dược liệu. Để phát huy tiềm năng này, cần áp

dụng các kỹ thuật canh tác hiện đại và bền vững nhằm nâng cao năng suất và chất

lượng sản phẩm. Đồng thời, cần đẩy mạnh việc xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm nông nghiệp đặc sản, tăng cường xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường tiêu

thụ, cả trong nước và quốc tế. Việc phát triển nông nghiệp hữu cơ và các sản phẩm

nông nghiệp chế biến có giá trị gia tăng cao sẽ góp phần cải thiện thu nhập cho người

dân địa phương và bảo vệ môi trường sinh thái.

Song song với phát triển nông nghiệp, phát triển du lịch bền vững cũng là một

phương hướng quan trọng để khai thác tiềm năng kinh tế - xã hội của vùng. Vùng

TD&MNPB có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Sapa, Mù Cang Chải, Hà

146

Giang,… với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và văn hóa bản địa đặc sắc. Phát triển du

lịch cộng đồng, du lịch sinh thái và du lịch văn hóa sẽ không chỉ mang lại nguồn thu

cho địa phương mà còn giúp bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống và nâng cao nhận

thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường. Để thực hiện điều này, Nhà nước cần hỗ trợ

để Vùng xây dựng chiến lược phát triển du lịch vùng dân tộc ít người, cần xây dựng

cơ sở hạ tầng du lịch chất lượng, đào tạo nguồn nhân lực du lịch chuyên nghiệp và phát triển các sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn.

Khai thác và phát triển tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững là một yếu tố

không thể thiếu. Vùng trung du và miền núi phía Bắc có nguồn tài nguyên khoáng sản

dồi dào, tuy nhiên, việc khai thác cần được thực hiện một cách cẩn trọng để không gây

hại đến môi trường và đời sống của người dân. Cần thiết lập các quy định và tiêu chuẩn

nghiêm ngặt đối với hoạt động khai thác khoáng sản, đồng thời thúc đẩy việc ứng dụng

công nghệ hiện đại vào quá trình khai thác và chế biến. Ngoài ra, việc phát triển các

dự án năng lượng tái tạo, như thủy điện nhỏ, điện gió và điện mặt trời, cũng cần được

xem xét để đa dạng hóa nguồn cung cấp năng lượng và bảo vệ môi trường.

Một khía cạnh quan trọng khác trong việc khai thác tiềm năng kinh tế - xã hội

địa phương là phát triển các ngành công nghiệp chế biến, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản. Việc xây dựng các nhà máy chế biến nông sản ngay tại địa phương

không chỉ giúp tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm mà còn tạo ra nhiều việc làm cho

người dân. Các ngành công nghiệp chế biến cần được phát triển theo hướng bền vững,

sử dụng công nghệ tiên tiến để tiết kiệm năng lượng và giảm thiểu tác động tiêu cực

đến môi trường. Ngoài ra, việc hỗ trợ và thúc đẩy khởi nghiệp trong lĩnh vực chế biến

nông sản cũng sẽ góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của địa phương.

- Tăng cường hợp tác và liên kết vùng

Đầu tư công và tăng trưởng kinh tế của vùng TD&MNPB cũng cần đặt trong

tổng thể của cả nước. Đối với những vùng đặc thù cần có những chính sách ưu tiên

đầu tư cho các mục đích cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân, đem đến công bằng xã hội và phát triển các ngành kinh tế có thế mạnh một cách bền vững, bảo vệ

môi trường, ổn định an ninh quốc phòng. Điều này cần có sự phối hợp chặt chẽ của

chính quyền địa phương trong việc thực hiện các mục tiêu, chính sách phục vụ lợi ích

của cả vùng và của cả nước, tránh tình trạng cát cứ, thiếu liên kết giữa các địa phương

và liên kết vùng.

Thực tiễn phát triển của vùng TD&MNPB thời gian qua cho thấy, các hoạt động

liên kết của vùng đã được coi trọng gắn với đầu tư phát triển, từng bước hình thành và

147

phát triển hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, gắn kết các địa phương và phát triển

khu kinh tế cửa khẩu và các hình thức hợp tác xuyên biên giới. Hình thành một số khu

nông nghiệp chất lượng cao, vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh có giá trị, như

tại các tỉnh Sơn La, Bắc Giang. Bước đầu phát triển được hệ thống các khu du lịch

nghỉ dưỡng thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, như tại các tỉnh Lào Cai, Hà

Giang, Điện Biên, Cao Bằng, Bắc Kạn,...

Tuy nhiên, liên kết nội vùng và liên kết với các vùng khác như vùng đồng bằng sông

Hồng, vùng Thủ đô, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Miền Trung còn yếu. Hiệu quả liên

kết đạt thấp, không gian phát triển bị chia cắt theo địa giới hành chính, tư duy “mạnh ai nấy

làm” nên chưa phát huy được tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng.

Quy hoạch vùng trung du và miền núi phía Bắc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn

đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 369/QĐ-TTg

ngày 4/5/2024. Trong quy hoạch đã thể hiện rất rõ phương hướng và nội dung đẩy

mạnh liên kết nội vùng và ngoại vùng của vùng TD&MNPB, thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau: (i)Thứ nhất, tập trung phát triển hạ tầng kết nối vùng; (ii) Thứ hai, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển vùng và liên kết vùng đủ mạnh; (iii) Thứ ba, tăng cường phối hợp và liên kết trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực, trong phát triển khoa học và công nghệ; (iv) Thứ tư, liên kết các địa phương trong khai thác tiềm

năng, lợi thế về phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, du lịch và kinh tế cửa khẩu; (v)

thứ năm, tích cực xử lý các vấn đề mang tính chất vùng như môi trường, sinh thái, sử

dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, an ninh nguồn nước, an ninh rừng.

Như vậy, phương hướng liên kết nội vùng và ngoại vùng đã được xác định một

cách khá đầy đủ và toàn diện trong bản quy hoạch phát triển Vùng. Theo tác giả, để thực hiện phát triển liên kết vùng, trong thời gian tới, Vùng TD&MNPB cần tập trung

thực hiện tốt các giải pháp sau đây:

- Dưới sự chỉ đạo thống nhất của Hội đồng điều phối vùng, các địa phương cần

nhanh chóng triển khai, đưa quy hoạch sớm đi vào cuộc sống, huy động tối đa các nguồn lực thực hiện thực hiện thành công các mục tiêu và định hướng của quy hoạch vùng

trong liên kết nội vùng và ngoại vùng. Các địa phương cần chủ động đề xuất các phương

án liên kết và đi đến thống nhất một kế hoạch liên kết hữu hiệu đảm bảo hài hòa lợi ích

được tạo ra từ liên kết, cân đối các nguồn lực phân bổ cho các dự án liên kết.

- Tăng cường vai trò của các địa phương trong Hội đồng điều phối vùng, bảo

đảm liên kết vùng xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của các địa phương, trong đó tập

trung vào những vấn đề then chốt như: (i) Điều tiết, cân bằng lợi ích giữa các địa

148

phương, đặc biệt là trong phát triển cơ sở hạ tầng, khai thác tài nguyên, bảo vệ môi

trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; (ii) Điều hòa lợi ích của quốc gia và lợi ích của

từng địa phương và (iii) Khuyến khích liên kết tự nguyện giữa các địa phương thông

qua các chương trình hỗ trợ tài chính, hỗ trợ kỹ thuật và chính sách tạo thuận lợi,

khuyến khích địa phương liên kết.

- Hoàn thiện cơ chế tài chính, phân cấp đầu tư, ngân sách, nâng cao hiệu quả

đầu tư công để thực hiện các dự án mang tính chất vùng và liên vùng. Nghiên cứu đề

xuất cơ chế tài trợ vùng chính thức cho xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng cấp vùng,

bảo đảm chia sẻ công bằng lợi ích từ liên kết.

- Xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ các doanh

nghiệp, cộng đồng, người dân tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất, chế biến, tiêu thụ

các sản phẩm chủ lực của vùng. Các địa phương cần phối hợp để xác định các sản

phẩm lợi thế của mình, trên cơ sở đó huy động sự tham gia của các doanh nghiệp và

các tổ chức, cộng đồng, người dân tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất, chế biến, tiêu

thụ các sản phẩm chủ lực của vùng.

- Đề xuất với Nhà nước xây dựng một số cơ chế, chính sách đặc thù như cơ chế

chuyển đổi các diện tích rừng, cơ chế đặc thù hỗ trợ các địa phương có nhiệm vụ giữ

gìn an ninh biên giới, an ninh nguồn nước, an ninh năng lượng, bảo vệ và giữ rừng

phòng hộ, rừng đầu nguồn, thực hiện cam kết về mục tiêu giảm lượng phát thải khí

nhà kính về 0 (Net Zero) vào năm 2050 nhằm tăng cường nguồn lực cho Vùng thực

hiện phương hướng và mục tiêu liên kết.

- Cuối cùng, để việc tăng cường liên kết vùng đạt hiệu quả cao nhất, cần có một

khung pháp lý và thể chế rõ ràng để điều phối các hoạt động hợp tác. Các cơ chế hợp tác cần đảm bảo tính minh bạch, công bằng và hiệu quả trong việc phân bổ nguồn lực

và lợi ích từ các hoạt động đầu tư công. Ngoài ra, cần có sự tham gia tích cực của cộng

đồng và doanh nghiệp địa phương trong quá trình hoạch định và thực hiện các chính

sách liên kết vùng.

Tóm tắt chương 5

149

Chương 5 của luận án tổng kết những kết quả chính đã đạt được trong nghiên

cứu, đưa ra các kết luận về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng

TD&MNPB. Luận án đề xuất 7 kiến nghị chính sách nhằm tăng cường vai trò của đầu

tư công với tăng trưởng kinh tế. Chương 5 nhấn mạnh rằng các chính sách đầu tư công

cần hướng đến sự phát triển toàn diện và bền vững, trong đó không chỉ tập trung vào mở

rộng quy mô đầu tư mà còn phải đảm bảo hiệu quả, tính minh bạch và khả năng lan tỏa

đến các thành phần kinh tế khác. Việc xây dựng một cơ chế tài chính linh hoạt, kết hợp

giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân, cùng với cải cách thể chế và nâng cao năng lực quản

lý địa phương, sẽ là chìa khóa để phát huy vai trò của đầu tư công đối với tăng trưởng

kinh tế. Vì vậy, bên cạnh các kiến nghị về chính sách đặc thù nhằm đảm bảo nguồn vốn

ĐTC cho vùng, nâng cao hiệu quả ĐTC, luận án nhấn mạnh kiến nghị giải pháp nhằm

nâng cao năng lực nội tại vùng TD&MNPB và các vùng đặc thù để cải thiện lợi thế phát

triển và sớm đuổi kịp trình độ phát triển của cả nước.

KẾT LUẬN

150

Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế tuy đã được nhiều tác giả trong

nước và nước ngoài nghiên cứu, song việc nghiên cứu mối quan hệ đó trên một vùng

đặc thù của quốc gia thì đến nay chưa có nghiên cứu nào thực hiện. Với chủ đề nghiên cứu là : “Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế vùng đặc thù về điều kiện phát triển: nghiên cứu điển hình tại vùng Trung du và miền núi phía Bắc” , NCS đã kết hợp 2 phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng nhằm đạt được mục

đích nghiên cứu đề ra.

Kết quả nghiên cứu trước hết khẳng định vùng TD&MNPB là vùng đặc thù về

điều kiện phát triển trong cả nước, tiếp đến là vùng Tây Nguyên. Luận án cũng đã xác

định được chỉ số lợi thế phát triển tổng hợp, dùng để đánh giá mức độ đặc thù của các

vùng, đồng thời sử dụng nó với tư cách là một biến tương tác với biến đầu tư công để

đưa vào các mô hình ước lượng tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế.

Từ kết quả phân tích định lượng, Luận án đã rút ra được các kết luận mới: Tác

động của Đầu tư công đến sản lượng ở vùng TD&MNPB cao hơn gấp đôi so với trung

bình cả nước; Trong nội bộ vùng TD&MNPB yếu tố đặc thù không ảnh hưởng đến quan

hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế; Đầu tư công tác động tích cực đến thu nhập

bình quân đầu người của Vùng TD&MNPB; Đầu tư công tác động yếu đến tăng Năng

suất lao động của Vùng; Đầu tư công chưa có tác động đến đầu tư tư nhân của Vùng;

Tác động của ĐTC đến tăng trưởng ở vùng đặc thù cao hơn ở các vùng khác; Đặc biệt,

với các vùng đặc thù, tác động của đầu tư công đến tăng trưởng không chỉ cao hơn các

vùng còn lại mà xu thế tác động cao sẽ tiếp tục duy trì cho đến khi chỉ số lợi thế đạt mức

trung bình của cả nước.

Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, luận án đề xuất 7 kiến nghị chính sách nhằm

tăng cường vai trò của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế vùng TD&MNPB cũng

như ở các vùng đặc thù khác. Các kiến nghị chính sách tập trung vào 3 nhóm: chính sách

đặc thù nhằm đảm bảo nguồn vốn đầu tư công cho vùng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả đầu tư công, giải pháp nhằm nâng cao năng lực nội tại vùng TD&MNPB và các

vùng đặc thù để cải thiện lợi thế phát triển và đuổi kịp trình độ phát triển của cả nước.

Tóm lại, luận án đã cung cấp một cái nhìn toàn diện về tác động của đầu tư công

đến tăng trưởng kinh tế vùng TD&MNPB - một vùng đặc thù về điều kiện phát triển,

đồng thời đưa ra những gợi ý chính sách nhằm phát huy vai trò của đầu tư công trong

tăng trưởng và phát tiển kinh tế. Những kết quả nghiên cứu này không chỉ có ý nghĩa

đối với vùng TD&MNPB mà còn cung cấp tài liệu tham khảo hữu ích cho các vùng đặc

151

thù khác trong cả nước, cho các nhà hoạch định chính sách và quản lý trong việc xây

dựng và thực thi chính sách đầu tư công một cách hiệu quả.

Mặc dù đã hết sức cố gắng để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, nhưng do hạn

chế về số liệu, về điều kiện tiếp cận với tất cả các địa phương nên NCS nhận thấy Luận

án vẫn còn một số hạn chế sau đây:

Một là, do thiếu dữ liệu về việc thực hiện cơ chế chính sách đầu tư công của Vùng

và các địa phương trong vùng nên việc giải thích tác động của cơ chế chính sách đầu tư

công đến tăng trưởng kinh tế của vùng chưa thật đầy đủ.

Hai là, nếu NCS thực hiện việc điều tra khảo sát ý kiến các bên của địa phương

để kiểm định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến quan hệ giữa đầu tư công và tăng

trưởng kinh tế thì tính thuyết phục của luận án sẽ cao hơn. Tuy nhiên do quy định về

khuôn khổ của Luận án, việc đưa thêm nội dung này đã không được thực hiện.

Ba là, do điều kiện về số liệu, thời gian nghiên cứu của luận án chỉ xác định trong

giai đoạn 2010-2022 nên độ dài chuỗi dữ liệu không lớn (13 năm). Qua kiểm định đồng

liên kết cho thấy các biến số không có mối quan hệ đồng liên kết. Do vậy không đủ điều

kiện để phân tích mối quan hệ dài hạn tác động của đầu tư công đến sản lượng của vùng.

Hạn chế này sẽ được khắc phục khi có thêm dữ liệu trong tương lai.

Tác giả Luận án mong muốn sẽ tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về chủ đề này trong

tương lai và mong nhận được các ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các chuyên gia

-------------------

để Luận án được hoàn thiện hơn.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

152

1. Võ Hồng Kiên & Lê Huy Đức (2019), ‘Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc’, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia: “Phát triển kinh tế địa phương: Định hướng phát triển kinh tế - xã hội vùng Trung du và miền núi phía Bắc đến 2030 và tầm nhìn đến 2045”, Trường Đại học

Kinh tế quốc dân - Trường Đại học Hùng Vương, tr. 65-84.

2. Võ Hồng Kiên & Lê Huy Đức (2023), ‘Xây dựng thước đo tính đặc thù về điều kiện phát triển của các vùng và địa phương ở Việt Nam’, Tạp chí Kinh tế và Dự Báo, Số 842, tr. 79-82.

3. Võ Hồng Kiên & Lê Huy Đức (2024), ‘Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế địa phương có yếu tố đặc thù về điều kiện phát triển: Trường hợp vùng Trung du và miền núi phía Bắc, Tạp chí Kinh tế và Dự Báo, Số 871, tr. 143-146.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

153

1. Aaron, H. (1990), ‘Discussion of ‘Why is Infrastructure Important?’ in Munnell,

A. (Ed), Is There a Shortfall in Public Investment?’, Federal Reserve Bank of

Boston, Boston, tr.51-63.

2. Abdih, Yasser and Joutz, Frederick (2008), ‘The Impact of Public Capital, Human

Capital, and Knowledge on Aggregate Output’, IMF Working Paper, Số 08/218.

3. AfDB (2016), North Africa - Working paper – Public Investment and Growth in

the Maghreb Countries, Working Paper Series 2335, African Development Bank.

4. Ahmed, S. (1986), ‘Temporary and permanent government spending in an open

economy: Some evidence for the United Kingdom’, Journal of Monetary

Economics, Số 17(2), tr. 197-224.

5. Ahamed, Faruque (2022), Impact of Public and Private investments on Economic

Growth of Developing Countries, Graduate Research Theses & Dissertations,

Northern Illinois University.

6. Alan J. Auerbach & William G. Gale (2009), Activist fiscal policy to stabilize

economic activity, Proceedings - Economic Policy Symposium - Jackson Hole,

Federal Reserve Bank of Kansas City, tr. 327-374.

7. António Afonso & Miguel St.Auby (2008), Macroeconomic Rates of Return of

Public and Private Investment: Crowding-in and Crowding-out Effects, Working

Papers Department of Economics 2008/06, ISEG - Lisbon School of Economics

and Management, Department of Economics, Universidade de Lisboa.

8. Aray, Henry & Pacheco-Delgado, Janeth (2020), ‘Public investment allocation

across Ecuadorian Provinces’, Socio-Economic Planning Sciences, Elsevier, Số 71(C).

9. Arellano, M., & Bond, S. (1991), ‘Some Tests of Specification for Panel Data:

Monte Carlo Evidence and an Application to Employment Equations’, Review of

Economic Studies, Số 58, tr. 277-297.

10. Arrow, K. J. (1962), ‘The Economic Implications of Learning by Doing’, Review

of Economic Studies, Số 29(3), tr. 155-173.

11. Aschauer, D. (1989a), ‘Is public expenditure productive?’, Journal of Monetary

Economics, Số 23 (2), tr. 177-200.

12. Aschauer, D. (1989b), Public investment and productivity growth in the Group of

Seven, Federal Reserve Bank of Chicago.

154

13. Aschauer, D. (1989c), ‘Does Public Capital Crowd Out Private Capital?’, Journal

of Monetary Economics, 24, tr. 171-188.

14. Barro, R.J., (1990), ‘Government Spending in a Simple Model of Endogenous

Growth’, Journal of Political, Economy, Số 98 (2), tr. 103-S125.

15. Barro, R. J. and X. Sala-i-Martin. (1995), Economic Growth, New York, McGraw Hill.

16. Baxter, M. & King, R. G. (1993), ‘Fiscal policy in general equilibrium’, The

American Economic Review, Số 83(3), tr. 315-334.

17. Berndt, E. & Hansson, B. (1992), ‘Measuring the Contribution of Public

Infrastructure Capital in Sweden’, The Scandinavian Journal of Economics, Số 94,

tr. 151-168.

18. Blejer, M.I. & Khan, M.S. (1984), ‘Government Policy and Private Investment in

Developing Countries’, IMF Staff Papers, Số 31(2), tr. 379-403.

19. Blinder, A.S. & Solow, R.M. (1973), ‘Does Fiscal Policy Matter?’, Journal of

Public Economics, Số 2(4), tr. 319-337.

20. Bloom, Canning & Sevilla (2004), ‘The Effect of Health on Economic Growth: A

Production Function Approach’, World Development, Số 32(1), tr. 1-13.

21. Bronzini, Raffaello & Piselli, Paolo (2009), ‘Determinants of long-run regional

productivity with geographical spillovers: The role of R&D, human capital and

public infrastructure’, Regional Science and Urban Economics, Elsevier, Số 39(2),

tr. 187-199.

22. Canning & Bennathan (2000), The Social Rate of Return on Infrastructure

Investments, World Bank Policy Research Working Paper, Washington, DC.

23. Cavallo & Daude (2011), ‘Public Investment in Developing Countries: A Blessing

or a Curse?’, Journal of Comparative Economics, Số 39(1), tr. 65-81.

24. César Calderón, Luis Servén (2004), The Effects of Infrastructure Development on

Growth and Income Distribution, Working Papers Central Bank of Chile 270,

Central Bank of Chile.

25. Charlot Sylvie & Schmitt Bertrand (1999), Public Infrastructure and Economic

Growth in France's Regions, 39th Congress of the European Regional Science

Association: Regional Cohesion and Competitiveness in 21st Century Europe,

Dublin, Ireland.

26. Chính phủ (2006), Nghị định số 92/2006/NĐ-CP (2006) v/v lập, phê duyệt và quản

lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, ban hành ngày ngày 07 tháng 9

năm 2006.

155

27. Corsetti, G. & Müller, G. J. (2006), ‘Twin deficits: Asquaring theory, evidence and

common sense’, Economic Policy, Số 21(48), tr. 597-638.

28. Đặng Đức Anh và nhóm nghiên cứu (2017), Đánh giá tác động của tái cơ cấu đầu

tư công đến nền kinh tế giai đoạn 2011-2015, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh

tế - xã hội quốc gia - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

29. Deverajan et al (1996), ‘The Composition of Public Expenditure and Economic

Growth’, Journal of Monetary Economics, Số 37, tr. 313-344.

30. Douglas North (1990), Institutions, Institutional Change and Economic

Performance, Cambridge University Press, 1990 ISBN 0521397340.

31. Dwight H. Perkins (2010), Kinh tế học phát triển, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

32. Easterly, William & Rebelo, Sergio (1993), ‘Fiscal policy and economic growth: An

empirical investigation’, Journal of Monetary Economics, Số 32(3), tr. 417-458.

33. Enders, W. & Lee, B. S. (1990), ‘Current account and budget deficits: twins or

distant cousins?’, The Review of Economics and Statistics, Số 72(3), tr. 373-381.

34. Everaert, Gerdie & Heylen, Freddy (2004), ‘Public capital and long-term labour

market performance in Belgium’, Journal of Policy Modeling, Số 26(1), tr. 95-112.

35. Everaert, Gerdie & Heylen, Freddy, (2001), ‘Public capital and productivity growth:

Evidence for Belgium, 1953-1996’, Economic Modelling, Số 18(1), tr. 97-116.

36. Evsey D. Domar (1946), ‘Capital Expansion, Rate of Growth, and Employment’,

The Econometric Society, Vol. 14 (2), tr. 137-147.

37. Feldstein, Martin (1982), ‘Government deficits and aggregate demand’, Journal of

Monetary Economics, Số 9(1), tr. 1-20.

38. Fernald, J. G. (1999), ‘Roads to Prosperity? Assessing the Link between Public

Capital and Productivity’, American Economic Review, Số 89(3), tr. 619-638.

39. Fischer, S. (1993), ‘The Role of Macroeconomic Factors in Growth’, Journal of

Monetary Economics, Số 32, tr. 485-512.

40. Gramlich, E. (1994), ‘Infrastructure Investment: A Review Essay’, Journal of

Economics Literature, Số 32(3), tr.1176-1196.

41. Hafedh Bouakez and Sami Dabbegh (2016), Public Investment and Growth in the

Maghreb Countries, African Development Bank, Working Paper North Africa

Policy Series.

42. Haque.S (2013), The Performance Analysis of Private Conventional Banks: A

Case Study of Bangladesh, IOSR Journal of Business and Management, Số 2, tr.

19-25.

156

43. Hicks, J. (1937), ‘Mr. Keynes and the 'Classics'; A Suggested Interpretation’,

Econometrica, Số 5(2), tr. 147-159.

44. Hoàng Phê (1996), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Đà Nẵng.

45. Holtz-Eakin, D., & Schwartz, A. E. (1995), ‘Spatial productivity spillovers from

public infrastructure: Evidence from state highways’, International Tax and Public

Finance, Số 2(3), tr. 459-468.

46. Hong, J., Chu, Z. & Wang, Q. (2011), ‘Transport infrastructure and regional

economic growth: evidence from China’, Transportation, Số 38, tr. 737–752.

47. Huỳnh Thế Du và cộng sự (2016), Đánh giá sức cạnh tranh của Thành phố Hồ

Chí Minh và gợi ý định hướng chiến lược phát triển đến năm 2025, tầm nhìn 2045,

truy cập ngày 20 tháng 02 năm 2020 từ https://fsppm.fulbright.edu.vn/vn/bao-cao-

chinh-sach/nghien-cuu-chinh-sach/danh-gia-suc-canh-tranh-cua-thanh-pho-ho-

chi-minh-va-goi-y-dinh-huong-chien-luoc-phat-trien-den-nam-2025-tam-n-169/.

48. IMF (2014), Is It Time for an Infrastructure Push? The Macroeconomic Effects of

Public Investment, IMF World Economic Outlook. October 2014.

49. John Maynard Keynes (1936), The General Theory of Employment, Interest, and

Money, Macmillan, London.

50. Kandenge (2010), ‘Public and Private Investment and Economic Growth in

Namibia (1970-2005)’, Botswana Journal of Economics, Số 7 (11), tr. 2-15.

51. Khan and Kumar (1997), ‘Public and Private Investment and the Growth Process

in Developing Countries’, Oxford Bulletin of Economics and Statistics, Số 59, tr. 69-88.

52. Khang, N. T. (2022), ‘Tác động của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân ở các địa

phương của Việt Nam’, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing, Số 13(1), tr.

101-111.

53. Kim, S. & Roubini, N. (2008), ‘Twin deficit or triple deficit? The effects of fiscal

policy, current account, and inflation’, Journal of International Economics, Số

74(2), tr. 362-383.

54. Lê Thu Hoa (2007), Kinh tế vùng ở Việt Nam - từ lý luận đến thực tiễn, Nhà xuất

bản Lao động - xã hội, Hà Nội.

55. Lucas Robert Jr. (1988), ‘On the mechanics of economic development’, Journal

of Monetary Economics, Số 22(1), tr. 3-42.

56. Luo, X. (2004), The Role of Infrastructure Investment Location in China’s Western

Development, World Bank.

157

57. Mankiw, N. Gregory and Romer, David and Weil, David N. (1992), ‘A

Contribution to the Empirics of Economic Growth’, The Quarterly Journal of

Economics, Số 107(2), tr. 407-437.

58. Mauro, Paolo (1998), ‘Corruption and the composition of government

expenditure’, Journal of Public Economics, Số 69(2), tr. 263-279.

59. Modigliani, F. (1961), ‘Long-Run Implications of Alternative Fiscal Policies and

the Burden of the National Debt’, Economic Journal, Số 71(284), tr. 730-755.

60. Munnell, A. (1990), ‘Why Has Productivity Growth Declined? Productivity and

Public Investment’, New England Economic Review, January/February, tr.3-22.

61. Munnell, A. (1992), ‘Policy Watch, Infrastructure Investment and Economic

Growth’, Journal of Economic Perspectives, Số 6(4), tr.189-198.

62. Musgrave. R. A. & Musgrave. P. B. (1989), Public Finance in Theory and

Practice, McGraw-Hill.

63. Nguyen, C.T. và Trinh, L.T. (2018), ‘The impacts of public investment on private

investment and economic growth: Evidence from Vietnam’, Journal of Asian

Business and Economic Studies, Số 25 (1), tr. 15-32.

64. Nguyễn Đoan Trang (2018), Tác động của đầu tư công tới tăng trưởng kinh tế tại

Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

65. Nguyen, H. T. (2022), ‘Government Expenditure and Economic Growth in

Vietnam: Does Public Investment Matter in The Long-Term?’, Journal of

Accounting and Investment, Số 23(2), tr. 310–329.

66. Nguyễn Minh Tiến (2014), Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở

các vùng của Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế Trường đại học Kinh tế - Đại học

quốc gia TP HCM.

67. Nguyễn Thị Cành & Nguyễn Thanh Liêm & Nguyễn Thị Thùy Liên (2018), ‘Tác

động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt

Nam’, Tạp chí khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh – Kinh tế và Quản

trị kinh doanh, Số 13(2), tr. 91-105.

68. Norihiko Yamano & Toru Ohkawara (2000), ‘The Regional Allocation of Public

Investment: Efficiency or Equity?’, Journal of Regional Science, Wiley Blackwell,

Số 40(2), tr. 205-229.

69. Obstfeld, M. & Rogoff, K. (1995), ‘The mirage of fixed exchange rates’, Journal

of Economic Perspectives, Số 9(4), tr. 73-96.

158

70. Ocolișanu, A.; Dobrotă, G.; Dobrotă, D. (2022), ‘The Effects of Public Investment

on Sustainable Economic Growth: Empirical Evidence from Emerging Countries

in Central and Eastern Europe’, Sustainability, Số 14(14), tr. 1-25.

71. Pedro R.D. Bom & Jenny E. Ligthart (2014), ‘Public infrastructure investment,

output dynamics, and balanced budget fiscal rules’, Journal of Economic

Dynamics and Control, Số 40, tr. 334-354.

72. Pedro R.D. Bom & Jenny E. Ligthart (2014), ‘What Have We Learned From Three

Decades of Research on The Productivity of Public Capital?’, Journal of Economic

Surveys, Wiley Blackwell, Số 28(5), tr.889-916

73. Ph. Ăng - Ghen (1971), Biện chứng của tự nhiên, tiếng Việt, Nhà xuất bản Sự thật,

Hà Nội.

74. Phạm Thế Anh (2008), ‘Phân tích cơ cấu chi tiêu chính phủ và tăng trưởng kinh tế

ở Việt Nam’, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 363.

75. Phạm Văn Thanh (2018), ‘Tác động của đầu tư tư nhân đến tăng trưởng kinh tế và

ngưỡng đầu tư công hợp lý tác động thúc đẩy đầu tư tư nhân ở Việt Nam’, Tạp chí

khoa học - Đại học Đồng Nai, Số 10.

76. Phetsavong, K. & Ichihashi, M. (2012), The Impact of Public and Private

Investment on Economic Growth: Evidence from Developing Asian Countries,

International Development and Cooperation, IDEC Discussion Paper 2012,

Hiroshima University.

77. Porter, M. E. (1990), The Competitive Advantage of Nations, New York: Free Press.

78. Porter, M. E (1998), ‘Location, Clusters, and the ‘New’ Microeconomics of

Competition’, Business Economics, Số 33(1), tr. 7-13.

79. Porter, M.E. (2008), On competition, truy cập ngày 20 tháng 02 năm 2020 từ

http://lcweb.loc.gov/catdir/toc/98007643.html.

80. Porter, M.E. và cộng sự (2008), Analysis and Recommendations on the

Development of Vietnam’s Electronics Cluster, truy cập ngày 20 tháng 02 năm 2020

từ http://www.isc.hbs.edu/pdf/Student_Projects/2008/Vietnam_Electronics_2008.pdf.

81. Pritchett, L. (2000), ‘Understanding Patterns of Economic Growth: Searching for

Hills among Plateaus, Mountains and Plains’, World Bank Economic Review, Số

14, tr. 221-250.

82. Quốc hội (2014), Luật đầu tư công số 49/2014/QH13, ban hành ngày 18/6/2014.

83. Quốc hội (2019), Luật đầu tư công số 39/2019/QH14, ban hành ngày 13/6/2019.

159

84. Quốc Hội (2023), Nghị quyết 81/2023/QH15 v/v Quy hoạch tổng thể quốc gia thời

kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, ban hành ngày 09/01/2023.

85. Ramirez, M.D. & Nazmi, N. (2003), ‘Public Investment and Economic Growth in

Latin America: An Empirical Test’, Review of Development Economics, Số 7(1),

tr.115-126.

86. Ramirez, M.D. (1996), ‘Public and Private Investment in Mexico and Chile: An

Empirical Test of the Complementarity Hypothesis’, AEJ, Số 24(4), tr. 301-320.

87. Robert J. Barro (1974), ‘Are Government Bonds Net Wealth?’, Journal of Political

Economy, Số 82(6), tr. 1095-1117.

88. Robert M. Solow (1956), ‘A Contribution to the Theory of Economic Growth’,

The Quarterly Journal of Economics, Số 70 (1), tr. 65-94.

89. Roberto Perotti (2004), Public investment: another (different) look, Working

Papers 277, IGIER (Innocenzo Gasparini Institute for Economic Research),

Bocconi University.

90. Romer, D. (1999), Short-Run Fluctuations, University of California, Berkeley.

91. Romer, D. (2011), Advanced Macroeconomics, McGraw-Hill.

92. Romer, P. M. (1990), ‘Endogenous technological change’, J. Polit. Econ, Số 98,

tr. 71-tr.102.

93. Romer, P.M. (1986), ‘Increasing Returns and Long-Run Growth’, Journal of

Political Economy, Số 94, tr. 1002-1037.

94. Romp, W. & de Haan, J. (2007), ‘Public Capital and Economic Growth: A Critical

Survey’, Perspektiven der Wirtschaftspolitik, Số 8(S1), tr. 6-52.

95. Sahoo, P., Dash, R.K. & Nataraj, G. (2010), Infrastructure Development and

Economic Growth in China, Institute of Developing Economies, IDE Discussion

Paper No. 261.

96. Seitz, H., & Licht, G. (1995), ‘The Impact of Public Infrastructure Capital

on Regional Manufacturing Production Cost’, Regional Studies, Số 29(3), tr.

231-240.

97. Straub, Stephane (2008), Infrastructure and growth in developing countries:

recent advances and research challenges, Policy Research Working Paper

Series 4460, The World Bank.

98. Sử Đình Thành (2011), ‘Chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế ở việt nam kiểm định

nhân quả trong mô hình đa biến’, Tạp chí Phát triển Kinh tế, Số 252, tr. 54-61.

160

99. Sử Đình Thành (2011), ‘Đầu tư công chèn lấn hay thúc đẩy đầu tư khu vực tư nhân

ở Việt Nam’, Tạp chí Phát triển kinh tế, Số 251, tr. 37-45.

100. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 339/QĐ - TTg v/v phê duyệt Đề án

tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ban hành ngày

19/2/2013.

101. Thủ tướng Chính phủ (2024), Quyết định số 369/QĐ-TTg v/v phê duyệt Quy hoạch

vùng trung du và miền núi phía Bắc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050,

ban hành ngày 4/5/2024.

102. Tô Trung Thành (2012), Đầu tư công “lấn át” đầu tư tư nhân? Góc nhìn từ mô

hình thực nghiệm VECM, Bài nghiên cứu NC-27, VEPR, Trung tâm Nghiên cứu

Kinh tế và Chính sách.

103. Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư và Lê Hoàng Phong (2014), ‘Tác động của đầu tư

công đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam: Góc nhìn thực nghiệm từ mô hình

ARDL’, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, Số 19 (29), tr. 3-10.

104. Trần Thọ Đạt (2008), Vai trò của vốn con người đối với tăng trưởng các tỉnh,

thành phố Việt Nam giai đoạn 2000-2004, Nhà xuấ bản Đại học Kinh tế Quốc dân,

Hà Nội.

105. Uddin, M., & Aziz., S. (2014), ‘Effect of Public Investment on Economic Growth

in Bangladesh: An Econometric Analysis’, Journal of Economics and substainable

Development, Số 5 (22), tr. 35 - 51.

106. Viện Chiến lược Phát triển, Bộ KH&ĐT (2016), Báo cáo nghiên cứu cải cách đầu

tư công ở Việt Nam.

107. Vu Le, M., & Suruga, T. (2005), ‘Foreign direct investment, public expenditure

and economic growth: The empirical evidence for the period 1970-2001’, Applied

Economics Letters, Số 12(1), tr. 45-49.

108. Võ Hồng Kiên & Lê Huy Đức (2019), ‘Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng

kinh tế ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc’, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc

gia: “Phát triển kinh tế địa phương: Định hướng phát triển kinh tế - xã hội vùng

Trung du và miền núi phía Bắc đến 2030 và tầm nhìn đến 2045”, Trường Đại học

Kinh tế Quốc dân - Trường Đại học Hùng Vương, tr. 65-84.

109. Võ Hồng Kiên & Lê Huy Đức (2023), ‘Xây dựng thước đo tính đặc thù về điều

kiện phát triển của các vùng và địa phương ở Việt Nam’, Tạp chí Kinh tế và Dự

Báo, Số 842, tr. 79-82.

161

110. Võ Hồng Kiên & Lê Huy Đức (2024), ‘Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng

kinh tế địa phương có yếu tố đặc thù về điều kiện phát triển: Trường hợp vùng

Trung du và miền núi phía Bắc’, Tạp chí Kinh tế và Dự Báo, Số 871, tr. 143-146.

111. Wang, B. (2011), ‘Transport infrastructure and regional economic growth:

evidence from China’, Transportation’, Số 38(2), tr. 737-752.

112. William Easterly & Sergio Rebelo (1993), ‘Fiscal Policy and Economic Growth:

An Empirical Investigation’, Journal of Monetary Economics, Số 32 (3), tr. 417-458.

113. Wei K. (2008), Foreign Direct Investment and Economic Growth in China's

Regions, 1979-2003, PhD dissertation, The Business School, Middlesex

University, London, U.K.

114. World Bank (1994), World Development Report 1994: Infrastructure for

Development.

115. Wolassa Lawisso Kumo (2012), Working Paper 160 - Infrastructure Investment

and Economic Growth in South Africa: A Granger Causality Analysis, Working

Paper Series 438, African Development Bank.

116. World Bank (1997), World Development Report 1997: The State in a Changing

World.

----------

PHẦN PHỤ LỤC Phụ lục 1. Các bảng biểu chương 3

162

Tỉnh

So với Vùng TD&MNPB

So với cả nước

Hà Giang

5

40

Cao Bằng

14

63

Bắc Kạn

10

57

Tuyên quang

11

58

Lào Cai

4

35

Yên Bái

12

59

Thái Nguyên

2

12

Lạng Sơn

9

50

Bắc Giang

1

10

Phú Thọ

3

31

Điện Biên

13

62

Lai Châu

8

49

Sơn La

7

45

Hòa Bình

6

41

Bảng 3.1. Xếp hạng cơ sở hạ tầng các địa phương của Vùng TD&MNPB

Nguồn: VCCI - Bảng xếp hạng NLCT cấp tỉnh (PCI) năm 2022

Bảng 3.2a. Tổng vốn đầu tư giai đoạn 2011-2022 của Vùng TD&MNPB

Trong vốn đầu tư nhà nước

Tổng vốn

Vốn đầu

Năm

đầu tư

tư công

Vốn NSNN

Vốn vay

Vốn khác

2010

91209,656

46362,11

34183,89

8500,735

3677,487

2011

93932,719

42183,02

30145,68

9879,878

2157,457

2012

98323,19

44631,37

27772,74

14564,57

2294,068

2013

120185,502

45652,97

26699,34

16379,27

2574,367

2014

133897,975

43707,44

34014,67

7137,754

2555,007

2015

162462,759

40279,76

26971,94

10122,6

3185,22

2016

145189,59

36995,59

26784,23

8095,401

2115,958

2017

166867,471

41098,47

28559,87

6032,303

6506,295

2018

167911,998

46280

29392,14

9763,94

7123,914

2019

180449,199

49311,2

31100,31

7911,688

10299,2

2020

196318,499

56662,5

37935,32

6772,457

11954,72

2021

205774,47

55768,92

38363,56

6317,037

11088,32

2022

216810,505

62661,82

47120,42

5038,173

10503,24

Đơn vị: tỷ đồng (giá cố định 2010)

Nguồn: Tổng cục Thống kê và niên giám thống kê các địa phương

163

Bảng 3.2b. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư của vùng TD&MNPB giai đoạn 2011-2022

Tỷ lệ trong vốn đầu tư nhà nước

Tổng vốn đầu

Vôn

ĐTC/Tổng

Vốn NSNN

Vốn vay

Vốn khác

Năm

(%)

VĐT(%)

(%)

(%)

(%)

2010

100

50,83

73,73

18,34

7,93

2011

100

44,91

71,46

23,42

5,11

2012

100

45,39

62,23

32,63

5,14

2013

100

37,99

58,48

35,88

5,64

2014

100

32,64

77,82

16,33

5,85

2015

100

24,79

66,96

25,13

7,91

2016

100

25,48

72,40

21,88

5,72

2017

100

24,63

69,49

14,68

15,83

2018

100

27,56

63,51

21,10

15,39

2019

100

27,33

63,07

16,04

20,89

2020

100

28,86

66,95

11,95

21,10

2021

100

27,10

68,79

11,33

19,88

2022

100

28,90

75,20

8,04

16,76

Đơn vị: % tính trên giá cố định 2010

Nguồn: Tính từ Bảng 3.2

Bảng 3.3. Hệ số ICOR chung của các vùng và cả nước thời kỳ 2011-2022

TD &

BTB&D

Tây

Năm

ĐBSH

ĐNB

ĐBSCL

Cả nước

MNPB

HMT

Nguyên

6,3

2011

12,50

5,7

5,6

4,9

13,2

3,7

6,8

2012

5,52

6

6,8

6

3,5

7

6,7

2013

6,88

4,8

6,5

5,5

3,7

7,6

6,3

2014

6,53

8,3

9,3

5,3

3,2

10,4

5,8

2015

7,04

6,3

7,9

5,9

4,3

7

6,1

2016

7,09

6,1

9,2

6,2

5,2

5,7

6,2

2017

6,30

5,4

7,7

4,9

5,2

5,9

5,6

2018

7,55

5,2

5,4

5

4,6

6

5,7

2019

6,04

5,5

7

6

4,2

5,6

12,2

2020

7,43

9,4

14,8

9,7

16,8

16,7

15,5

2021

6,82

10,4

12,63

8,1

15,3

14,6

4,82

2022

6,27

6,6

7,2

6,5

10,4

8,5

6,4

2011-2015

7,69

6,2

7,2

5,5

5,6

7,1

5,9

2016-2020

6,88

5,6

7,3

5,53

4,8

5,8

10,2

2021-2022

6,5

8,3

9,9

7,3

12,9

11,6

Đơn vị tính: Lần

Nguồn: TCTK và Niên giám thống kê các tỉnh 2010-2022

164

Bảng 3.4. Tỷ lệ đầu tư trên GRDP các vùng thời kỳ 2010-2022

Vùng

TD

BTB

Tây

ĐBSH

ĐNB

ĐB SCL TB cả nước

Năm

&MNPB

&DHMT

Nguyên

2010

51,70

44,14

44,80

44,50

25,88

35,00

40,54

2011

46,29

47,30

41,89

39,31

24,13

39,55

39,62

2012

52,95

50,72

40,40

37,68

23,48

38,99

41,17

2013

52,43

62,21

54,05

37,35

24,12

35,67

40,86

2014

44,33

67,54

61,97

37,02

24,43

37,25

40,60

2015

43,59

75,27

66,57

36,57

24,86

36,73

41,51

2016

46,12

61,87

62,32

37,18

26,42

36,28

40,94

2017

48,03

59,00

56,42

38,35

27,64

37,51

41,70

2018

49,28

57,66

52,93

40,36

28,59

38,50

42,76

2019

49,97

54,60

52,41

43,50

29,05

37,15

42,66

2020

48,57

53,18

56,11

45,85

30,70

35,42

42,40

2021

46,18

49,86

61,21

63,88

28,67

29,29

40,15

2022

42,77

45,74

58,45

47,83

30,50

26,53

37,39

Đơn vị tính: %

Nguồn: TCTK và Niên giám thống kê các tỉnh 2010-2022

Vùng

ĐBSH

Bảng 3.5. Tỷ lệ đầu tư công trên GRDP các vùng thời kỳ 2010-2022

ĐNB

Năm

TD &MNPB

BTB &DHMT

Tây Nguyên

2010

19,62

18,46

14,41

15,74

6,84

9,04

14,05

2011

17,58

18,89

13,47

13,51

5,87

8,55

12,45

2012

13,60

17,28

11,40

11,39

4,76

8,26

11,00

2013

12,34

16,69

14,66

11,00

5,22

7,87

10,35

2014

12,75

15,60

14,51

9,76

4,71

9,43

10,69

2015

13,15

15,81

14,92

8,55

5,26

9,07

10,68

2016

13,19

15,45

16,26

8,34

5,37

7,74

10,11

2017

12,12

14,45

14,86

7,90

4,26

6,55

9,05

2018

11,39

14,35

13,86

8,96

4,38

7,12

9,16

2019

10,70

17,80

13,41

8,81

4,35

6,76

8,83

2020

11,49

16,64

14,50

10,25

4,83

8,36

9,95

2021

10,55

15,97

14,36

9,91

4,43

6,77

9,00

2022

9,22

16,95

13,93

8,53

4,23

6,35

8,17

Đơn vị tính: % ĐB SCL TB cả nước

Nguồn: TCTK và Niên giám thống kê các tỉnh 2010-2022

165

Bảng 3.6. Tăng trưởng kinh tế các tỉnh thuộc vùng TD&MNPB

Thứ tự

Tỉnh

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14

Hà Giang Cao Bằng Bắc Kạn Tuyên Quang Lào Cai Yên Bái Thái Nguyên Lạng Sơn Bắc Giang Phú Thọ Điện Biên Lai Châu Sơn La Hoà Bình

2011-2015 6,6 7,9 7,1 6,4 7,7 3,9 15,9 6,0 13,7 5,8 5,3 7,9 9,8 10,5

Thời kỳ 2016-2020 6,6 6,4 5,5 6,0 10,2 6,4 12,1 4,2 14,1 8,5 8,8 14,2 4,8 6,9

2011-2022 6,6 7,2 6,4 6,2 8,8 5,0 14,2 5,2 13,9 7,0 6,8 10,7 7,6 8,9

Đơn vị tính: %

Nguồn: Tính từ số liệu Niên giám thống kê các tỉnh vùng TD&MNPB

Hà Giang

Cao Bằng

Bắc Kạn

Tuyên Quang

Lào Cai

Yên Bái

Thái Nguyên

Lạng Sơn

Bắc Giang

Phú Thọ

Điện Biên

Lai Châu

Sơn La

Hòa Bình

4% 4% 4% 4% 4% 4% 4% 4% 4% 4% 3% 3% 3%

3% 3% 3% 3% 3% 3% 3% 3% 3% 3% 3% 3% 3%

2% 2% 2% 2% 2% 2% 2% 2% 2% 2% 2% 2% 2%

5% 5% 5% 5% 5% 5% 5% 5% 5% 5% 5% 5% 5%

7% 6% 7% 9% 7% 5% 7% 5% 7% 5% 8% 5% 8% 5% 8% 5% 8% 4% 8% 4% 8% 5% 8% 5% 7% 4%

12% 12% 12% 11% 13% 18% 19% 19% 20% 20% 20% 20% 20%

6% 6% 6% 6% 6% 6% 5% 5% 5% 5% 5% 5% 5%

24% 11% 3% 24% 10% 3% 27% 10% 3% 28% 10% 3% 28% 10% 3% 16% 11% 3% 16% 10% 3% 17% 10% 3% 18% 10% 3% 18% 10% 3% 20% 10% 3% 20% 10% 3% 22% 10% 3%

2% 2% 2% 2% 2% 3% 3% 3% 3% 3% 3% 3% 3%

7% 7% 8% 6% 8% 6% 8% 6% 8% 7% 9% 8% 8% 8% 8% 8% 8% 8% 7% 7% 7% 7% 7% 7% 7% 7%

4%

3%

2%

5%

8% 5%

17%

5%

21% 10% 3%

3%

8% 7%

Tỉnh Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 Trung bình

Bảng 3.7. Tỷ trọng GRDP của các địa phương thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc giai đoạn 2010-2022

Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương

166

Bảng 3.8. Năng suất lao động của vùng TD&MNPB giai đoạn 2018-2022

Năm

Vùng/Tỉnh

TD&MNPB Hà Giang Cao Bằng Bắc Kạn Tuyên Quang Lào Cai Yên Bái Thái Nguyên Lạng Sơn Bắc Giang Phú Thọ Ðiện Biên Lai Châu Sơn La Hoà Bình

2018 75,7 41,9 46,7 51,7 59,8 102,4 53,2 145,6 61,3 83,8 74,4 51,1 67,7 67,1 84,8

2019 81,4 45,8 50,4 57,5 64,4 116,7 60,1 153,1 67,3 95,0 82,2 55,3 63,8 64,9 84,5

2022 136,4 83,4 104,2 103,2 110,7 169,5 112,1 243,9 136,5 162,2 128,0 76,4 117,1 110,0 117,6

2021 126,2 77,8 123,6 98,1 98,9 150,9 99,5 224,1 125,3 139,5 120,9 73,6 129,5 103,6 111,1

2020 89,5 49,5 55,2 63,6 72,7 126,0 64,0 162,8 72,7 110,4 89,9 57,7 71,9 71,9 94,0 Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam

Đơn vị: Triệu đồng (giá hiện hành)

Bảng 3.9. Tỷ lệ ĐTC và XK trên GRDP các địa phương Vùng TD&MNPB

2011

2015

2016

2020

2022

Tỉnh

XK (%)

XK (%)

ĐTC (%)

XK (%)

ĐTC (%)

ĐTC (%)

XK (%)

ĐTC (%)

XK (%)

ĐTC (%)

Hà Giang 36,97

4,63

19,36 7,89

10,50 2,79

17,51 1,20

20,77 12,77

Cao Bằng 40,33

3,01

33,36 0,53

37,37 0,04

30,52 0,69

25,56 11,86

Bắc Kạn

0,37

27,63 0,00

22,31 0,20

23,59 9,50

32,88

29,70 0,09

T.Quang

8,89

10,87 8,69

8,33

0,70

9,56

0,61

12,39 14,82

14,80

Lào Cai

13,99

44,45 24,25 35,25

21,88 2,53

13,97 3,36

20,44 70,13

Yên Bái

12,58

10,01 18,02 13,50

13,85 1,16

17,46 1,33

19,37 41,61

T Nguyên 19,70

17,78 4,57

702,23

5,56

57,62 6,51

48,71 7,23

744,87

Lạng Sơn 12,11

17,13 9,86

34,89

13,75 3,27

13,44 5,52

14,41 73,52

Bắcgiang

4,70

47,29 13,87 124,98

7,11

14,85 7,69

20,60 7,86

516,55

Phú Thọ

22,96

59,99 13,02 82,99

10,22 5,17

8,35

13,25 9,80

577,92

Điện biên 41,11

2,59

35,22 2,17

29,51 0,10

31,45 0,45

35,20 7,22

Lai Châu

61,82

0,49

30,17 0,28

18,99 0,01

19,49 0,16

22,61 2,79

Sơn La

47,37

1,38

13,45 7,73

12,53 0,20

10,21 0,11

12,36 1,50

Hòa Bình 8,55

10,14 9,71

24,63

11,17 1,82

19,66 1,71

15,48 39,29

Đơn vị tính: %

Nguồn: TCTK - Niên giám thống kê cả nước và các địa phương các năm.

Phụ lục 2. Bảng biểu chương 4 Bảng 4.1. Các khía cạnh phản ánh nét đặc thù về điều kiện phát triển địa phương

167

Nội dung biến quan sát STT Khía cạnh Nội dung phản ánh

Biến quan sát danso

sumhhbl

1 Quy mô của nền kinh tế Lợi thế về quy mô

thuNS dientich grdp diahinh

biengioi

2 Điều kiện tự nhiên khihau Lợi thế về điều kiện tự nhiên (Vị trí, địa hình, khí hậu)

dist Dân số địa phương Tổng khối lượng hàng hóa & dịch vụ bán lẻ Quy mô thu ngân sách Diện tích tự nhiên Tổng sản phẩm nội tỉnh Độ dốc trung bình của địa phương Chiều dài biên giới với nước láng giềng trên đất liền. Diễn biến thời tiết trong năm về nắng hạn và mưa lũ. Khoảng cách so với trung tâm của quốc gia.

sotruongpt Số trường học phổ thông các cấp.

tllddt

3 chikhcn Điều kiện cơ sở hạ tầng xã hội Phản ánh lợi thế về hạ tầng xã hội cho phát triển chiyte

ldbqdn

csttld Phản ánh lợi thế về cạnh tranh vi mô 4 tscddn Điều kiện cho phát triển doanh nghiệp

bqgrdp

5 dt_grdp dtc_grdp PCI Cạnh tranh vĩ mô Lợi thế về điều kiện vĩ mô

chisottld

datdai rung

6 khsan Tài nguyên thiên nhiên Lợi thế về tài nguyên thiên nhiên nuoc Tỷ lệ lao động qua đào tạo Tỷ lệ chi ngân sách cho khoa học công nghệ Tỷ lệ chi Ngân sách cho y tế Số lao động bình quân trên một doanh nghiệp Chỉ số tập trung lao động ngành công nghiệp chế biến của địa phương Giá trị Tài sản cố định bình quân trên doanh nghiệp GRDP bình quân đầu người (tiềm năng thị trường cho doanh nghiệp). Tỷ lệ tổng đầu tư trên GRDP Tỷ lệ đầu tư công trên GRDP Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh LQ (thương số vị trí) của ngành công nghiệp chế biến Tỷ lệ đất nông nghiệp trên tổng diện tích Tỷ lệ diện tích rừng trên tổng diện tích Mức độ phong phú về tài nguyên khoáng sản Tiềm năng sông hồ và lượng nước mưa trung bình hàng năm.

168

Rotated Component Matrixa

Component

1

2

3

4

5

6

.930

diahinh

.906

biengioi

.828

khihau

.794

dist

.929

danso

.926

sumhhbl

.851

thuNS

.692

grdp

ldbqdn

.878

tscddn

.667

bqgrdp

.577

tllddt

.870

chikhcn

.674

chiyte

.570

dt_grdp

.864

csttld

.831

dtc_grdp

.726

khsan

.803

datdai

.725

rung

.717

Extraction Method: Principal Component Analysis. Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.a a. Rotation converged in 5 iterations.

Bảng 4.2. Ma trận xoay các nhân tố đặc điểm vùng/địa phương Rotated

169

. xtcointtest westerlund lngrdp lnlb lnig lnip lnfdi sagr open, allpanels

Westerlund test for cointegration

H0: No cointegration Number of panels = 63 Ha: All panels are cointegrated Number of periods = 13

Cointegrating vector: Panel specific Panel means: Included Time trend: Not included AR parameter: Same

Statistic p-value

Variance ratio 0.6848 0.2467

Bảng 4.3. Kiểm định đồng liên kết

. ivregress 2sls lngrdp RAI_TT lnig_TT RAIlnig_TT lnlb lnip (lnfdi= l.lnfdi)

Instrumental variables 2SLS regression Number of obs = 756 Wald chi2(6) = 4013.88 Prob > chi2 = 0.0000 R-squared = 0.8411 Root MSE = .37028

lngrdp Coefficient Std. err. z P>|z| [95% conf. interval]

lnfdi .1417114 .0089541 15.83 0.000 .1241617 .1592611 RAI_TT -.2634499 .0298667 -8.82 0.000 -.3219876 -.2049121 lnig_TT .2874113 .0296779 9.68 0.000 .2292437 .3455789 RAIlnig_TT -.0538177 .0222606 -2.42 0.016 -.0974477 -.0101877 lnlb .6253663 .0396298 15.78 0.000 .5476933 .7030393 lnip .2930567 .0259447 11.30 0.000 .242206 .3439074 _cons 2.919585 .2634044 11.08 0.000 2.403322 3.435848

Instrumented: lnfdi Instruments: RAI_TT lnig_TT RAIlnig_TT lnlb lnip L.lnfdi

. estat endog

Tests of endogeneity H0: Variables are exogenous

Durbin (score) chi2(1) = 24.366 (p = 0.0000) Wu-Hausman F(1,748) = 24.9111 (p = 0.0000)

Bảng 4.4. Kiểm định tính nội sinh (của biến lnfdi)

170

Bảng 4.5. Ước lượng GLS cho vùng TD&MNPB - trường hợp không biến tương

. xtgls lngrdp lnlb lnig_v2 rai_v2 lnip lnfdi,panels(h)

Cross-sectional time-series FGLS regression

Coefficients: generalized least squares Panels: heteroskedastic Correlation: no autocorrelation

Estimated covariances = 14 Number of obs = 182 Estimated autocorrelations = 0 Number of groups = 14 Estimated coefficients = 6 Time periods = 13 Wald chi2(5) = 1531.33 Prob > chi2 = 0.0000

lngrdp Coefficient Std. err. z P>|z| [95% conf. interval]

lnlb .501314 .0566934 8.84 0.000 .390197 .612431 lnig_v2 .2805326 .0442287 6.34 0.000 .1938459 .3672192 rai_v2 -.1387567 .0426228 -3.26 0.001 -.2222959 -.0552175 lnip .4023571 .031069 12.95 0.000 .341463 .4632513 lnfdi .0739547 .0078447 9.43 0.000 .0585794 .0893299 _cons 1.366871 .4055899 3.37 0.001 .5719297 2.161813

tác

. xtgls lngrdp lnlb lnig_ttv2 rai_ttv2 railnig_ttv2 lnip lnfdi, panels(h)

Cross-sectional time-series FGLS regression

Coefficients: generalized least squares Panels: heteroskedastic Correlation: no autocorrelation

Estimated covariances = 14 Number of obs = 182 Estimated autocorrelations = 0 Number of groups = 14 Estimated coefficients = 7 Time periods = 13 Wald chi2(6) = 1526.15 Prob > chi2 = 0.0000

lngrdp Coefficient Std. err. z P>|z| [95% conf. interval]

lnlb .500997 .0566949 8.84 0.000 .3898771 .6121168 lnig_ttv2 .2888557 .0464116 6.22 0.000 .1978906 .3798209 rai_ttv2 -.1417585 .0430618 -3.29 0.001 -.226158 -.057359 railnig_ttv2 .0412987 .0589724 0.70 0.484 -.074285 .1568824 lnip .4030445 .0309942 13.00 0.000 .342297 .4637921 lnfdi .0727925 .0078814 9.24 0.000 .0573453 .0882397 _cons 3.013106 .3544608 8.50 0.000 2.318376 3.707836

Bảng 4.6. Ước lượng GLS cho vùng TD&MNPB - trường hợp có biến tương tác

171

Bảng 4.7. Ước lượng cho vùng TD&MNPB bằng phương pháp GMM

Bảng 4.8. Ước lượng tác động đến TNBQĐN vùng TD&MNPB

172

Bảng 4.9. Ước lượng tác động đến Năng suất lao động vùng TD&MNPB

Bảng 4.10. Ước lượng tác động đến VĐT khu vực tư nhân vùng TD&MNPB

173

Bảng 4.11. Ước lượng tác động đến sản lượng của nền kinh tế cả nước

--------------------------