BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------
Phạm Thị Thu Hồng
ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH THUẾ ĐẾN PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 9340201
Tóm tắt luận án tiến sĩ kinh tế
Hà Nội, Năm 2025
Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Thương mại
Người hướng dẫn khoa học
PGS, TS. Phạm Tuấn Anh
Phản biện 1:
.………………………………………………………………………
……………………………………………………………………….
Phản biện 2:
………………………………………………………………………
…………………………………………………………………….....
Phản biện 3:
………………………………………………………………………
…………………………………………………………………….....
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Trường
họp tại Trường Đại học Thương mại
Vào hồi……. giờ …… ngày ………. tháng ………. năm ………….
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
Thư viện Trường Đại học Thương mại
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
PTBV đã trở thành xu thế tất yếu, mang lại những giá trị mới tầm nhìn mới. Để đảm bảo phát
triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được gìn giữ, tất cả các chủ thể trong nền KT-XH
phải cùng nhau thực hiện mục đích dung hòa 03 lĩnh vực: KT-XH-MT. Khu vực doanh nghiệp đang
ngày càng quan tâm đến các yếu tố đại diện cho PTBV. Trước đây, doanh nghiệp tập trung ưu tiên theo
đuổi lợi nhuận nên các yếu tố về MT-XH chưa thực sự được chú trọng. Tuy nhiên, khi PTBV trở thành
một lăng kính để đánh giá hoạt động của doanh nghiệp, các doanh nghiệp đã chủ động trong việc lập
chiến lược kinh doanh hướng tới hài hòa các khía cạnh của PTBV. Giờ đây, thành công của doanh
nghiệp của không chỉ nằm các con số tài chính còn bao gồm các vấn đề quản trị, khả năng thích
ứng, chống chịu phục hồi trước những thách thức. Doanh nghiệp hướng tới gắn kết tăng trưởng dài
hạn với lợi ích bền vững của cộng đồng và MT-XH.
Chính sách thuế một trong những công cụ điều tiết mạnh mẽ, thể khuyến khích hoặc
hạn chế các hoạt động kinh tế, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng và khả năng PTBVDN.
DNNVV của Việt Nam cũng thhiện được sự phát triển ngày càng hướng tới kinh doanh bền
vững (mô hình KTTH, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, lồng ghép vấn đề tự nhiên ĐDSH vào các
mục tiêu về khí hậu; củng cố nguồn vốn con người; xây dựng văn hóa đa dạng, bao trùm bình đẳng
trong doanh nghiệp; thẩm thấu tư duy quản trị theo ESG từ ban lãnh đạo doanh nghiệp; và công bố minh
bạch thông tin thông qua BCPTBV). Số lượng DNNVV tại Việt Nam chiếm tỷ trọng áp đảo so với tổng
số doanh nghiệp trên cả nước (khoảng 98%) và tăng lên khá nhanh (hiện nay số lượng doanh nghiệp nhỏ
đã tăng khoảng 15,8% số lượng doanh nghiệp vừa tăng 25,9% so với giai đoạn 2016-2020) (Bộ
KH&ĐT, 2024), thu hút một lượng vốn đáng kể trong dân vào SXKD, đóng góp vào quá trình phát
triển của đất nước. Các điều kiện về chính sách thuế nhằm hỗ trợ sự phát triển của DNNVV trong thời
gian qua đã được quan quản nhà nước quan tâm phần nào được cải thiện, tạo môi trường thuận
lợi cho DNNVV ra đời và hoạt động.
Tuy nhiên sự phát triển của DNNVV tại Việt Nam chưa thực sự gắn với lợi ích chung, lâu dài bền
vững của toàn hội; DNNVV nhỏ bé về quy vốn (khả năng tự tài trợ vốn còn kém), lao động, sức
cạnh tranh còn yếu, năng lực quản lý hoạt động SXKD còn hạn chế, gây áp lực lớn lên môi trường...,
vậy tính bền vững trong hoạt động SXKD của DNNVV chưa cao. Trong khi đó, việc theo đuổi mục tiêu
PTBV đặt ra thách thức cho nhiều DNNVV do sẽ phát sinh thêm các khoản chi phí và ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, đòi hỏi nhà quản trị doanh nghiệp phải xem xét để hài hòa
giữa chi phí đầu lợi ích thu về trong ngắn hạn dài hạn. Việt Nam đã ban hành Luật hỗ trợ
DNNVV số 04/2017/QH14 ngày 12/06/2017, trong đó DNNVV sẽ được hưởng nhiều ưu đãi về thuế.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy một số ưu đãi thuế như việc giảm thuế suất thuế TNDN cho DNNVV đến
nay chưa được thực hiện. Bên cạnh đó, việc được chính sách thuế phù hợp, minh bạch ổn định
thể tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, giảm thiểu rủi ro pháp chi ptuân thủ,
giúp doanh nghiệp tập trung nguồn lực vào ĐMST, nâng cao năng suất khả năng cạnh tranh trên thị
trường. Ngược lại, chính sách thuế nếu chưa thực sự phù hợp có thể trở thành rào cản làm suy yếu năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt đối với DNNVV.
Các nhà doanh nhân, nhà quản lý, nhà quản trị doanh nghiệp đã sự nhận thức mục đích
hướng tới PTBV, do đó để thúc đẩy PTBVDNNVV rất cần có một hệ thống cơ chế, chính sách tài chính
bao quát, đầy đủ, trong đó chính sách thuế nhằm góp phần định hướng các hoạt động SXKD một
cách bền vững. Do đó, việc nghiên cứu ảnh hưởng của chính sách thuế đến PTBVDNNVV sẽ giúp đánh
giá mức độ doanh nghiệp thực hiện các hoạt động bền vững.
Mặt khác, chủ trương, định hướng của Đảng Nhà nước Việt Nam về PTBVDNNVV khá toàn
diện. Gần đây nhất là Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển
KH&CN, ĐMST CĐS quốc gia cũng đã khẳng định lấy doanh nghiệp người dân trung tâm,
động lực chính cho phát triển trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ
Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân có nêu cần thiết phải hỗ trợ hỗ trợ thực chất, hiệu quả cho một
số loại hình doanh nghiệp.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu đề tài luận ánẢnh hưởng của chính sách
thuế đến phát triển bền vững doanh nghiệp nhỏ vừa tại Việt Nam giá trị cả về mặt luận lẫn
thực tiễn.
1
2. Mục tiêu, các câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá ảnh hưởng của chính sách thuế đến PTBVDNNVV tại Việt Nam, qua đó đưa ra các hàm
ý, khuyến nghị một số giải pháp với quan chính sách đối tượng thụ hưởng chính sách hướng tới
PTBVDNNVV tại Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2.2. Các câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: Chính sách thuế có ảnh hưởng đến PTBVDNNVV không?
Câu hỏi 2: Ưu đãi thuế tác động tích cực đến PTBVDNNVV không? Khó khăn rào cản nào
từ chính sách thuế ảnh hưởng tới sự PTBVDNNVV?
Câu hỏi 3: Việt Nam thể học được từ kinh nghiệm quốc tế về chính sách thuế cho
PTBVDNNVV?
Câu hỏi 4: Một số yếu tố thuộc doanh nghiệp có tác động tích cực đến PTBVDNNVV không?
2.3. Giả thuyết nghiên cứu
Một số giả thuyết nghiên cứu như sau:
H1: Thuế TNDN ảnh hưởng tiêu cực đến chỉ số ESG
H2: Thuế GTGT ảnh hưởng tiêu cực đến chỉ số ESG
H3: ROS ảnh hưởng tích cực đến chỉ số ESG
H4: Chi phí năng lượng ảnh hưởng tích cực đến chỉ số ESG
H5: Chi phí NVL ảnh hưởng tích cực đến chỉ số ESG
H6: Tổng nợ trên tổng tài sản ảnh hưởng tiêu cực đến chỉ số ESG
H7: Số lượng NLĐ có tác động tích cực đến chỉ số ESG
H8: Quy mô doanh nghiệp (tổng tài sản) ảnh hưởng tích cực đến chỉ số ESG
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án: PTBVDNNVV, chính sách thuế, ảnh hưởng của chính
sách thuế đến PTBVDNNVV.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Phạm vi về nội dung: tác giả sẽ tập trung vào các nội dung then chốt của đề tài Luận án, đồng thời
đảm bảo một cái nhìn toàn diện từ luận (lý thuyết về PTBVDN, thuyết về thuế, mối quan giữa
thuế PTBVDNNVV) đến thực tiễn (mức độ PTBVDNNVV), từ đánh giá ảnh hưởng của một số sự
kiện về thuế đến PTBVDNNVV, đánh giá ảnh hưởng của một số sắc thuế điển hình (thuế TNDN, thuế
GTGT) những yếu tố khác thuộc vdoanh nghiệp đến PTBVDNNVV, từ đó đề xuất giải pháp, giúp
làm rõ vai trò của chính sách thuế trong việc định hình con đường PTBVDNNVV.
Phạm vi thời gian: Tác giả lựa chọn đánh giá ảnh hưởng của chính sách thuế đến PTBVDNNVV
tại Việt Nam giai đoạn năm 2012-2024 nhằm: (i) phù hợp với mốc thời gian kể từ khi Quyết định số
432/QĐ-TTg ngày 12/04/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt
Nam giai đoạn 2011-2020; (ii) bao quát thêm sắc thuế BVMT được ban hành hiệu lực thi hành từ
năm 2012 và (iii) có khoảng thời gian đủ dài xem xét sự biến động về điểm số ESG của các DNNVV.
Phạm vi không gian: (i) Nghiên cứu kinh nghiệm về chính sách thuế cho PTBVDNNVV tại một
số quốc gia; (ii) Phân tích thực trạng PTBVDNNVV, đánh giá ảnh hưởng của các sự kiện về thuế và ảnh
hưởng của một số loại thuế điển hình cùng với yếu tố khác đến PTBVDNNVV tại Việt Nam.
Phạm vi về giác độ nghiên cứu: Tác giả nghiên cứu sinh tại Khoa Tài chính Ngân hàng,
không phải chuyên ngành Quản kinh tế nên cách tiếp cận chủ đạo của tác giả đối với vấn đ thuế
xem xét từ góc nhìn của đối tượng thụ hưởng chính sách (DNNVV), không phải góc nhìn của nhà quản
lý, vậy chính sách thuế tại Luận án này được quan sát nghiên cứu chủ yếu qua 02 khía cạnh thuế
suất và các ưu đãi thuế, còn các vấn đề khác liên quan đến chính sách thuế như công tác xây dựng, công
tác thực thi, giám sát tuân thủ mang nhiều màu sắc của quản nhà nước về kinh tế. Do đó, góc độ
phạm vi Luận án này, tác giả tiếp cận từ góc nhìn của DNNVV.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu kết hợp phương pháp định tính phương pháp định lượng, trong đó
phương pháp định lượng là chủ đạo:
2
Phương pháp định tính: được thực hiện để thu thập, xem xét phân tích thông tin đã trong
nhiều nguồn tài liệu nghiên cứu khác nhau.
Phương pháp định lượng: Thứ nhất, tác giả áp dụng phương pháp CSSK để đo lường ảnh hưởng
của các sự kiện thay đổi về thuế đối với PTBVDNNVV tại Việt Nam giai đoạn 2012-2024. Phương
pháp CSSK được áp dụng một cách hiệu quả do khả năng tận dụng được dữ liệu về sự kiện thuế để
đo lường tác động lên chỉ số ESG của DNNVV. hình sử dụng FEM. Điểm mạnh của phương
pháp CSSK thể hiện được mức độ PTBVDNNVV trước sau khi skiện thay đổi các quy định
về thuế. Thứ hai, tác giả sử dụng hình hồi quy đa biến trong phân tích dữ liệu bảng để ước lượng
ảnh hưởng của biến chính độc lập (tỷ lệ thuế trên doanh thu/thu nhập chịu thuế của DNNVV) đến biến
phụ thuộc (chỉ số ESG). Biến kiểm soát bao gồm lợi nhuận sau thuế trên doanh thu, chi phí năng lượng
trên doanh thu, chi phí NVL trên doanh thu, tổng nợ chia tổng tài sản của doanh nghiệp, số lượng NLĐ
tổng tài sản của doanh nghiệp. Phương pháp ước lượng bao gồm FEM, REM Pooled OLS FGLS
(nếu khuyết tật). Các kiểm định được sử dụng kiểm định Hausman xem xét vấn đề nội sinh, kiểm
định đa cộng tuyến, kiểm định tự tương quan, kiểm định phương sai sai số thay đổi.
5. Những đóng góp mới của Luận án
Đóng góp mới về lý luận:
Thứ nhất, tác giả đã phát hiện ra phương pháp CSSK có thể được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng
của chính sách thuế đến PTBVDNNVV.
Thứ hai, ESG được coi lăng kính đo lường đại diện cho PTBVDNNVV, tác giả đã sử dụng bộ
tiêu chí ESG Bộ KH&ĐT & USAID đã xây dựng để tự chấm điểm ESG cho mẫu DNNVV tập
trung vào một số ngành, lĩnh vực có mức độ gây ô nhiễm môi trường cao.
Thứ ba, tác giả đã ứng dụng phương pháp hồi quy đa biến dữ liệu bảng nhằm phát hiện các ảnh
hưởng của một số yếu tố, trong đó có chính sách thuế đến PTBVDNNVV.
Đóng góp mới về thực tiễn:
Thứ nhất, tác giả phát hiện rằng DNNVV mặc sự cố gắng để theo đuổi PTBV nhưng sự hài
hòa giữa ba trụ cột KT-MT-XH chưa thực sự đạt được. Điểm số trung bình ESG tổng thể trên cả ba khía
cạnh MT-XH-QT của các DNNVV trong giai đoạn 2012-2024 mặc xu hướng tăng nhưng mức độ
tăng rất ít và chưa đạt được số điểm tối thiểu trung bình là 50. Tuy nhiên, từ năm 2017 đến 2024 vẫn
một số DNNVV hoạt động trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm khoáng chất phi kim; sản xuất các sản
phẩm may mặc; khai khoáng (trừ dầu mỏ khí đốt); sản xuất hóa chất, dược phẩm; nước, chất thải
các hệ thống khác; sản xuất giấy; sản xuất sản phẩm kim loại tổng hợp... đã đạt được điểm số ESG tổng
thể trung bình trên 50 điểm. Kết quả này sẽ đóng góp thêm vào các tài liệu hỗ trợ phân tích thực trạng
PTBVDNNVV tại Việt Nam.
Thứ hai, dựa trên việc áp dụng phương pháp CSSK, một số phát hiện mới cho thấy hầu như các
sự kiện giảm thuế (ví dụ sự kiện 3-7 về thuế TNDN) đều tác động tích cực đến chỉ số ESG, đặc biệt
là sau các kỳ sự kiện, doanh nghiệp có xu hướng tăng cường đầu tư vào các hoạt động ESG khi có thêm
nguồn lực từ việc giảm thuế. Tuy nhiên, những thời điểm, việc giảm thuế lại chưa thực sự hiệu quả,
chỉ mang tính chất hỗ trợ tạm thời, do bản thân doanh nghiệp không có sức chống chịu trước những yếu
tố đột biến như trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Ngược lại, các sự kiện tăng thuế tác động tiêu cực,
do doanh nghiệp phải phân bổ nhiều nguồn lực hơn cho các nghĩa vụ thuế, làm giảm khả năng đầu
vào các yếu tố ESG. dụ ESG tổng thể ESG thành phần xu hướng giảm khi sự kiện về thuế
tài nguyên, tuy nhiên tác động đến ESG tổng thể có dấu hiệu trễ.
Thứ ba, dựa trên việc áp dụng phương pháp hồi quy đa biến dữ liệu bảng, tác giả phát hiện thấy
gánh nặng thuế TNDN ảnh hưởng tiêu cực đến chỉ số ESG của DNNVV, trong khi thuế GTGT gần
như không có ảnh hưởng đến PTBVDNNVV do bản thân loại thuế này tính trung lập cao nên không
ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Các yếu tố tài chính của doanh nghiệp như ROS thể
hiện vai trò tích cực đối với chỉ số ESG của DNNVV, đăc biệt chỉ số ESG môi trường và quản trị.
Các loại chi phí của doanh nghiệp như chi phí NVL ảnh hưởng đến chỉ số ESG do vấn đề liên quan đến
môi trường, đến các bên liên quan như nhà cung cấp; chi phí năng lượng tác động tích cực đến môi
trường khi các doanh nghiệp thực hiện các sáng kiến tiết kiệm điện, chuyển dần sang năng lượng sạch...
3