Tác dụng vôi đối với đất

chua?

Ðộ chua ảnh hưởng đến đặc tính lý hoá sinh

học của đất:

+ Dạng tồn tại và độ hữu hiệu của các nguyên

tố Ca, Mg, P, cũng như các nguyên tố vi lượng

như Fe, Mn, Cu, Mo, B... có quan hệ chặt chẽ

với độ pH của đất.

+ Phản ứng của đất cũng có ảnh hưởng trực

tiếp đến hệ vi sinh vật và sự hoạt động của

chúng. Chính vì vậy các phản ứng của đất có

liên quan chặt chẽ tới sự phân giải chất hữu cơ

và sự chuyển hoá các chất dinh dưỡng như

đạm và lưu huỳnh trong đất. Các vi khuẩn và xạ

khuẩn có ích thích nghi nhất ở môi trường trung

tính. Ví dụ như vi khuẩn cố định đạm thích nghi

ở pH 6,8; Vi khuẩn nitrat hoá ở pH 6-8. Trong

môi trường chua pH <5 nấm phát triển. Những

sản phẩm do nấm sinh ra đều có tính chua

mạnh, trong điều kiện có nước có thể bị rửa trôi

không có lợi cho sự tích luỹ độ phì.

+ Trong đất chua sự di động của nhôm tăng.

Trừ một số ít cây như chè được Al3+ kích thích

phát triển còn hầu hết các cây trồng không chịu

được hàm lượng nhôm di động cao.

+ pH đất ảnh hưởng đến sự hoà tan lân và hiệu

lực phân lân. Trong môi trường hoá học đơn

thuần thì lân vô cơ hoà tan nhiều khi pH giảm,

lân hữu cơ hoà tan nhiều khi pH tăng. Song

trong đất chua còn có hiện tượng hấp phụ hoá

học do tác dụng của sắt và nhôm với lân nên nói

chung trong môi trường trung tính lân hoà tan

nhiều nhất.

+ pH ảnh hưởng đến cây trồng: trừ một số ít cây

ưa môi trường chua còn lại đều thích hợp ở môi

trường trung tính. (xem mục 5.2)

+ pH đất ảnh hưởng đến độ hoà tan của các

nguyên tố vi lượng trong đất. Khi pH giảm phần

lớn các nguyên tố vi lượng trở nên di động hơn,

dễ hấp thu hơn với cây (Mn, Cu, B, Zn...) nhưng

sự di động của molipden lại giảm đi rõ rệt.

Biện pháp cải tạo độ chua nhanh nhất và có

hiệu quả nhất là biện pháp bón vôi. Tác dụng

của bón vôi thể hiện ở:

+ Khử chua nhanh chóng, kết tủa Al di động nên

mất độc

+ Tăng cường hoạt động của vi sinh vật trong

đất

+ Huy động thức ăn cho cây (trao đổi cation trên

keo đất ra dung dịch đất) tăng cường dinh

dưỡng nuôi cây

+ Tăng hiệu lực một số loại phân bón như supe

lân, đạm sunphat...

+ Làm ngưng tụ mùn tạo kết cấu đất tốt làm cho

đất tơi xốp hơn

+ Ðiều chỉnh pH phù hợp với yêu cầu của cây

trồng.

Như vậy ta thấy bón vôi cho đất chua là việc cần

thiết, song muốn bón vôi hợp lý cho đất cần xét

4 yếu tố theo thứ tự sau:

+ Cần xem pH của đất đã phù hợp với cây trồng

chưa. Thường là khi pH đất <5,5 thì bắt đầu cần

phải bón vôi nhưng có những cây trồng phát

triển tốt trên đất chua như chè, dứa thì khi pH

xuống đến 4,0-4,5 vẫn chưa cần phải bón vôi

+ Dựa vào pH và độ no bazơ (BS %):

Nếu pH < 4,5 cấp thiết bón vôi

pH 4,6-5,5 cần vừa

pH > 5,5 chưa cần bón vôi

Xét theo độ no kiềm: BS (%) <50% cấp thiết bón

vôi

50-70% cần vừa

>70% chưa cần

+ Sau khi đã xét hai tiêu chuẩn trên nếu thấy

cần phải bón vôi thì dựa vào độ chua thuỷ phân

để tính lượng vôi cần bón theo lý thuyết:

Có nhiều công thức bón vôi, các công thức đó

tuy khác nhau về cách thể hiện nhưng đều dựa

trên một nguyên tắc chung là "cứ 1lđl ion H+

trong đất cần dùng 1 lđl gam bột đá vôi (tức 50

mg CaCO3) hoặc 1lđl vôi bột (28mg CaO) để

trung hoà".

Trong thực tế chúng ta thường tính lượng vôi

bón quy ra CaO. Lượng CaO được tính theo

công thức sau:

Q (kg/S) = 0,28.S.h.D.H

S - Diện tích cần bón (m2)

h - Bề dầy tầng canh tác (m)

D - Dung trọng đất (g/cm3)

H - độ chua thuỷ phân (lđl/100g đất)

+ Sau khi tính được lượng vôi bón theo lý thuyết

thì xét tính đệm của đất (thành phần cơ giới

hoặc hàm lượng mùn trong đất) để điều chỉnh

lại lượng vôi đã tính cho phù hợp với thực tế.

Ví dụ: Ðất có thành phần cơ giới nhẹ và nghèo

mùn chỉ cần bón 1/2 hay 2/3 lượng vôi đã tính.

Ngược lại đất có thành phần cơ giới nặng và

nhiều mùn như đất phèn thì lượng vôi bón tăng

1,5 hoặc 2 lần lượng đã tính. (ta thường nói bón

1,5 hoặc 2 độ chua thuỷ phân).