
3
I. SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM
2003
1. Để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng ta đã đề ra
nhiều chủ trương cải cách tư pháp như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010, Kết luận số
92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần X, XI của Đảng. Các nghị quyết của Đảng nhấn mạnh: Cải cách mạnh
mẽ thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh
bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân
đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét
xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án,
coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp; đồng thời,
yêu cầu cải cách nhiều nội dung cụ thể khác của tố tụng hình sự. Đây là những
định hướng quan trọng, chỉ đạo việc nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự (BLTTHS).
2. Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6
đã thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng ta về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền
con người, quyền công dân, bổ sung nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ, bổ sung
và làm rõ hơn nhiệm vụ của Tòa án và Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng
Hiến định. Những sửa đổi, bổ sung này đòi hỏi phải được cụ thể hóa trong
BLTTHS (sửa đổi).
3. Tổng kết thực tiễn hơn 10 năm thi hành đã khẳng định vai trò quan trọng
của BLTTHS năm 2003 trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp
phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên
của nhân dân, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập
quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Mặc dù vậy,
thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 cũng bộc lộ những vướng mắc, bất cập,
chủ yếu là: (1) Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố
tụng có những nội dung chưa phù hợp nên ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả
hoạt động; điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán là những người trực tiếp giải
quyết vụ án nhưng chỉ được giao những thẩm quyền rất hạn chế nên đã ảnh
hưởng đến chất lượng và tiến độ giải quyết vụ án; (2) Còn thiếu một số quyền
quan trọng bảo đảm cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào
chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội; (3) Quy định về căn cứ tạm giam còn
định tính đang là nguyên nhân dẫn đến việc lạm dụng tạm giam trong thực tiễn;
quy định về một số biện pháp cưỡng chế tố tụng còn chưa đầy đủ và cụ thể, thiếu
cơ chế ràng buộc trách nhiệm trong trường hợp người tham gia tố tụng vi phạm
pháp luật; (4) Quy định về chứng cứ còn bất cập, chưa phù hợp với diễn biến
tình hình tội phạm, chưa thể hiện được yêu cầu tranh tụng đã trở thành nguyên
tắc Hiến định và chưa theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại,
chủ yếu vẫn chỉ ghi nhận những nguồn chứng cứ truyền thống, chưa công nhận
là chứng cứ đối với các dữ liệu điện tử được thu thập từ mạng in-tơ-nét, từ các
thiết bị điện tử; (5) Chế định thời hạn tố tụng chưa thật hợp lý, vẫn còn những
hoạt động tố tụng chưa bị ràng buộc bởi thời hạn; thời hạn tạm giam còn dài; một