
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 542 - THÁNG 9 - SỐ CHUYÊN ĐỀ - 2024
47
TẦM SOÁT NHIỄM HPV Ở NAM GIỚI
Vũ Thị Nhung1
TÓM TẮT6
Human papillomavirus (HPV) là loại virus
thông thường nhất hiện diện trong đường sinh
dục. Vì thế, nhiễm HPV là một trong những bệnh
lây truyền qua đường tình dục phổ biến nhất.
Mặc dù vậy, những dữ liệu về dịch tễ học của
HPV ở nam giới còn rất ít. CDC vẫn chưa có
khuyến cáo tầm soát HPV cho nam giới một cách
thường qui trước khi họ có biểu hiện các triệu
chứng lâm sàng. Theo một nghiên cứu mới được
công bố năm 2023 trong tạp chí The Lancet
Global Health thì nam giới thường là nơi ẩn chứa
của các týp HPV sinh dục và cũng nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của việc phải đưa nam giới
vào tầm kiểm soát bệnh nhiễm HPV để làm
giảm tỉ lệ mắc mới ở cả nam và nữ. Ở đàn ông,
nhiễm HPV thể hiện lâm sàng là u nhú vùng hậu
môn sinh dục. Bệnh ung thư dương vật, hậu môn,
hầu họng thường liên quan đến HPV 16. Đến nay
vẫn chưa có cách điều trị đặc hiệu mà chỉ có thể
điều trị triệu chứng. Vì thế, vấn đề quan trọng là
để phòng chống nhiễm HPV cần thực hiện chủng
ngừa HPV cho cả nữ và nam trước khi họ có
quan hệ tình dục.
Từ khóa: tầm soát HPV, chủng ngừa HPV.
SUMMARY
SCREENING ON HPV INFECTION
IN MEN
Human papillomavirus (HPV) is the most
common virus present in the genital tract.
1Bệnh viện Hùng Vương
Chịu trách nhiệm chính: Vũ Thị Nhung
Email: bsvtnhung@gmail.com
Ngày nhận bài: 23/6/2024
Ngày duyệt bài: 5/8/2024
Therefore, HPV infection is one of the most
popular sexually transmitted diseases. However,
the database on epidemiology of HPV in men has
been scarce. CDC does not recommend detecting
HPV for men routinely before they have clinical
symptoms. According to a new study published
in The Lancet Global Health Journal in 2023,
men are often the reservoir of genital HPV types,
and the importance of putting men under HPV
infection control is also emphasized in order to
reduce the incidence in both men and women. In
men, HPV infection manifests clinically as
anogenital papillomas. Penile cancer, anal
cancer, and oropharyngeal cancer are usually
related to HPV 16 infection. Until now, there is
still no specific therapy for HPV - only
symptomatic treatment is in use. Therefore, it is
important to prevent HPV infection by
vaccination for both men and women before they
have sexual intercourse.
Keywords: HPV screening, HPV vaccine.
I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA HUMAN
PAPILLOMA VIRUS
Human Papilloma Virus (HPV) là loại
virus có cấu trúc DNA thuộc họ
Papovaviridae - Khác với các loại virus như
viêm gan siêu vi A, C, SARS coronavirus có
cấu tạo di truyền RNA - Hiện nay, xét
nghiệm PCR (Polymerase Chain Reaction)
và DNA hybridization là những phương pháp
ít tốn công nhất và có thể dùng thường qui
trong những xét nghiệm để tìm HPV. HPV
gồm hơn 200 týp đã được nhận biết. Nhiễm
HPV là một trong những bệnh lây truyền qua
đường tình dục phổ biến nhất. Có trên 30
týp lây truyền từ người sang người qua quan

HỘI NGHỊ KHOA HỌC KỸ THUẬT - HỘI Y HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
48
hệ tình dục. Người ta chia HPV ra làm 2
nhóm: nhóm nguy cơ thấp và nhóm nguy cơ
cao. Những nhóm nguy cơ cao thường có
mối liên hệ với bệnh ung thư nhất là ung thư
cổ tử cung.
Nhóm nguy cơ thấp gồm các týp 6, 11,
42, 43, 44.
Nhóm nguy cơ cao gồm các týp 16, 18,
31, 33, 34, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59, 66,
68.
Hầu hết các trường hợp nhiễm HPV
không có triệu chứng và HPV có thể thoái
triển trong vòng 2 năm mà không cần điều
trị. Tuy nhiên, vẫn có một số ít trường hợp
HPV tồn tại kéo dài nhiều năm. Nếu đó là
týp nguy cơ cao thì khả năng có thể dẫn đến
ung thư. Đó là lý do tại sao tần suất mắc
bệnh không biết rõ. Theo nghiên cứu của
Rayleen M. Lewis1 ở Hoa Kỳ năm 2018 ước
tính tỉ lệ hiện mắc bất cứ loại HPV nào trong
nhóm tuổi từ 15 - 59 khoảng 40%. Ước tính
có 23,4 triệu nam và 19,2 triệu nữ hiện mắc
những bệnh có liên quan đến HPV. Cũng ước
tính số ca mắc mới là 6,9 triệu nam và 6,1
triệu nữ mang những bệnh có liên quan đến
HPV.
Đỉnh tuổi nhiễm HPV thay đổi tùy địa
phương. Thí dụ như ở Phần Lan, nhiễm HPV
thường xảy ra trong độ tuổi 20 - 29 tuổi. Có
nghiên cứu cho thấy nguy cơ nhiễm HPV là
79% phụ nữ, tỉ lệ này cũng tương đương
trong nam giới và cách truyền bệnh chủ yếu
qua quan hệ tình dục. Tuy nhiên, vẫn có
trường hợp lây truyền không do quan hệ tình
dục mà có thể do tiếp xúc ngpài da. Dùng
bao cao su không hoàn toàn bảo vệ khỏi sự
nhiễm HPV vì HPV có thể nằm ở âm hộ, bìu,
hậu môn là nơi bao cao su không thể bao
trùm hết. Mặc dù có sự khác biệt về tần suất
nhiễm các týp HPV giữa các vùng địa lý
nhưng týp 16, 18 thường gây ung thư ở hầu
hết các nơi trên thế giới.
Khi những bệnh nhân nữ có kết quả xét
nghiệm HPV dương tính họ thường đặt ra
câu hỏi: Chồng có bị nhiễm hay không? Có
cần làm xét nghiệm để tầm soát xem người
chồng có nhiễm HPV không? Có phải chồng
quan hệ với người khác rồi về lây bệnh cho
vợ không? Chồng họ có thể bị ung thư sinh
dục không? Để trả lời những thắc mắc này
cần có những nghiên cứu liên quan đến vấn
đề nhiễm HPV ở nam giới.
II. CÓ CẦN TẦM SOÁT HPV CHO NAM GIỚI
KHÔNG?
Theo một nghiên cứu mới được công bố
năm 2023 trong tạp chí The Lancet Global
Health2 thì cứ 3 người đàn ông trên 15 tuổi
lại có 1 người nhiễm HPV ít nhất là 1 týp
HPV ở cơ quan sinh dục và 1 trên 5 người
đàn ông nhiễm 1 hay nhiều týp HPV nguy cơ
cao. Điều này cho thấy nam giới thường là
nơi ẩn chứa của các týp HPV sinh dục và
cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc
phải đưa nam giới vào tầm kiểm soát bệnh
nhiễm HPV để làm giảm tỉ lệ mắc mới ở cả
nam và nữ. Đây là một nghiên cứu hệ thống
và phân tích gộp dựa trên 5.685 bài báo được
công bố trong khoảng thời gian từ 1995 đến
2022 trong đó chỉ có 65 nghiên cứu đủ tiêu
chuẩn lựa chọn để phân tích với số lượng
44.769 đối tượng nam ở 35 quốc gia trên thế
giới. Kết quả cho thấy tỉ lệ hiện mắc là 31%
cho bất cứ các loại HPV và 21% cho HPV
nhóm nguy cơ cao. HPV 16 chiếm tỉ lệ cao
nhất (5%), kế tiếp là HPV 6 (4%). Tỉ lệ
nhiễm HPV cao trong nhóm đối tượng trẻ,
cao nhất thuộc lứa tuổi 25 và 29. Ở đàn ông,
nhiễm HPV thể hiện lâm sàng là u nhú vùng
hậu môn sinh dục. Bệnh ung thư dương vật,

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 542 - THÁNG 9 - SỐ CHUYÊN ĐỀ - 2024
49
hậu môn, hầu họng thường liên quan đến
HPV 16.
Những nghiên cứu dịch tễ ở nam rất
hiếm, chủ yếu là khảo sát trên dân số có nguy
cơ lây nhiễm cao như những người đàn ông
có quan hệ đồng tính, người nhiễm HIV, mắc
bệnh lây truyền qua đường tình dục và những
người chồng có vợ nhiễm HPV hoặc vợ có
xét nghiệm tế bào cổ tử cung bất thường.
Cho đến hiện nay, chưa có một xét nghiệm
nào được công nhận dùng để tầm soát HPV
cho nam giới. CDC không khuyến cáo tầm
soát HPV cho nam giới một cách thường qui
trước khi họ có biểu hiện các triệu chứng lâm
sàng.3
Đã có nhiều nghiên cứu dịch tễ về nhiễm
HPV ở phụ nữ nhưng còn thiếu những dữ
liệu về tỉ lệ hiện mắc và sự phân bố các týp
HPV ở nam giới. Nghiên cứu cho thấy HPV
có thể phát hiện ở dịch tiết niệu đạo bằng
cách lấy mẫu bệnh phẩm ở niệu đạo, ở ngoài
da của cơ quan sinh dục, ở hậu môn…
III. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ TẦM SOÁT
HPV Ở NAM GIỚI
Nghiên cứu của Loredana Manolescu
thực hiện ở Institute of Virology “Stefan S.
Nicolau” (Romania)4 trên 37 nam giới trong
thời gian 2007 - 2008. Trong 37 người thì 6
người có sang thương ở dương vật, 9 người
có sang thương trong miệng và 22 người còn
lại không có triệu chứng lâm sàng. Tất cả 37
đối tượng này được làm xét nghiệm tầm soát
HPV bằng cách dùng que gòn nhỏ đưa vào
niệu đạo sâu từ 1,5 - 2cm. Xét nghiệm thực
hiện vào buổi sáng trước khi đi tiểu. Phải
xoay que gòn nhẹ nhàng và không gây tổn
thương niệu đạo. Các que gòn sau quẹt lấy
dịch tiết được nhúng trong môi trường
COPAN, bảo quản ở 40C và được xử lý tìm
HPV trong vòng tối đa 24 giờ. Có 6 người
biểu hiện sang thương ở ngoài dương vật sẽ
được lấy thêm mẫu ở sang thương. Kết quả
HPV dương tính là 17/37 trong đó 15 ca lấy
mẫu ở niệu đạo (40,5%) và 2 ca lấy mẫu ở
sang thương trên dương vật (2 ca này xét
nghiệm HPV âm tính ở niệu đạo). Trong
nghiên cứu này cho thấy mẫu lấy ở niệu đạo
có thể phát hiện HPV, ngay cả ở người
không có triệu chứng.
Nghiên cứu của Hui Yang và cs (2023)5
thực hiện tại Chaozhou Central Hospital
(Trung Quốc) từ 01/9/2011 đến 30/6/2012
trên 203 nữ và 47 nam. Nữ được lấy 2 mẫu
bệnh phẩm là dịch tiết từ cổ tử cung và mẫu
thứ hai là nước tiểu. Nam sẽ được lấy mẫu tử
cơ quan sinh dục bao gồm da dương vật,
thắng qui đầu, rãnh quanh qui đầu và ở bìu
bằng que bông tẩm nước muối và mẫu thứ
hai là nước tiểu. Mục đích nghiên cứu là so
sánh kết quả tầm soát HPV lấy từ cơ quan
sinh dục so với tìm HPV trong nước tiểu
nhằm đánh giá xem có thể dùng nước tiểu để
khảo sát nhiễm HPV thay cho cách lấy mẫu
ở cơ quan sinh dục hay không. Nước tiểu sẽ
phải ly tâm để lấy cặn lắng bỏ vào dung dịch
dùng để làm xét nghiệm HPV GenoArray
assay. Xét nghiệm này có thể phát hiện 13
týp nguy cơ cao (16, 18, 31, 33, 35, 39, 45,
51, 52, 56, 58, 59, 68), 5 týp nguy cơ thấp (6,
11, 42, 43, 44) và 3 týp thường có trong dân
số người Trung Quốc (53, 66, 81).
Kết quả cho thấy có sự tương thích khá
cao giữa 2 loại mẫu ở nữ giới là 77,1%
(155/201, KTC 95%: 0,713 - 0,829) với giá
trị kappa là 0,523 (KTC 95%: 0,469 - 0,632),
trong khi sự tương thích rất thấp ở nam giới.
Hệ số kappa là 0,095 (KTC 95% 0 - 0,224).
Ở phụ nữ, HPV 16 có tỉ lệ hiện mắc đứng
đầu ở cả mẫu lấy ở cổ tử cung và trong nước
tiểu. Đứng hàng thứ nhì ở mẫu cổ tử cung là
týp 52 trong khi trong nước tiểu thì ngoài týp

HỘI NGHỊ KHOA HỌC KỸ THUẬT - HỘI Y HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
50
52 còn có HPV 6. Đối với nam giới, HPV 6
chiếm tỉ lệ cao nhất ở 2 loại mẫu bệnh phẩm,
kế tiếp là HPV 11 và HPV 16.
Qua nghiên cứu này người ta thấy việc
tầm soát HPV trong nước tiểu ở phụ nữ có
thể thay thế cho việc lấy mẫu tìm HPV ở cổ
tử cung. Trong khi đó, việc tầm soát HPV
trong nước tiểu ở nam giới là ít chắc chắn.
Cần có nhiều nghiên cứu hơn về vấn đề này.
Nghiên cứu của Maria Gabrielle de Lima
Rocha và cs (2012)6 thực hiện ở Trung tâm
bệnh lây truyền qua đường tình dục Minas
Gerais, Brazil. Các đối tượng nghiên cứu là
43 cặp vợ chồng mà người vợ có nhiễm HPV
và tổn thương CIN ở cổ tử cung. Tuy nhiên
có 43 người chồng và chỉ 23 người vợ còn
quan hệ tình dục thường xuyên trong vòng 6
tháng cho đến lúc nhận vào nghiên cứu đến
Trung tâm và chịu làm lại xét nghiệm HPV
lấy ở cổ tử cung. Ở người chồng thì mẫu
bệnh phẩm lấy ở nhiều vị trí: qui đầu, rãnh
quanh qui đầu, da ngoài thân dương vật. Kết
quả cho thấy tỉ lệ nhiễm HPV là 51,2%
(22/43), trong đó 86,0% (37/43) chồng
nhiễm ít nhất 1 týp HPV; 39,5% (17/43)
nhiễm nhiều hơn 1 týp. Có 33% nhiễm týp
nguy cơ cao; 18,6% nhiễm týp nguy cơ thấp;
34,8% nhiễm cả 2 loại týp. HPV 16 chiếm tỉ
lệ cao nhất ở cả nam và nữ. Có sự tương
đồng cùng nhiễm HPV ở 2 vợ chồng là
56,5% (13/23) trong đó 84,6% (11/13) người
chồng nhiễm cùng týp nguy cơ cao với vợ.
Những dữ liệu này cho thấy nam giới nhiễm
HPV là nơi chứa đựng nguồn bệnh, có thể
lây truyền HPV cho những người phụ nữ
khác.
Nghiên cứu của Sérgio M. Nicolau
(2005)7 trên 50 người chồng có vợ nhiễm
HPV ở cổ tử cung cho thấy 76% có HPV
DNA dương tính. Những xét nghiệm mô học
trên các mẫu sinh thiết không cho chẩn đoán
nhiễm HPV chính xác trong khi dùng chổi
quẹt trên cơ quan sinh dục (qui đầu, rãnh
quanh qui đầu, niệu đạo) cho kết quả dương
tính đến 92% trong số nhiễm HPV.
Nghiên cứu của Lucia Giovannelli và cs
(2007)8 thực hiện ở Đại học Palermo,
Palermo, Italy trên 50 người đàn ông. Mẫu
bệnh phẩm lấy ở 3 vị trí: quẹt chổi trên da
dương vật, trong niệu đạo và tinh dịch. Xét
nghiệm HPV dương tính trên dương vật là
88,9%, ở niệu đạo là 50%, trong tinh dịch là
33,3%. Kết hợp xét nghiệm trên dương vật
và niệu đạo cho kết quả dương tính 100% và
kết hợp xét nghiệm trên dương vật với tinh
dịch kết quả dương tính 97,2%. Các số liệu
trong nghiên cứu này cho thấy xét nghiệm
mẫu lấy từ dương vật kết hợp mẫu lấy ở
nước tiểu cho kết quả tốt nhất hay thay mẫu
lấy từ nước tiểu bằng tinh dịch cũng giúp cải
thiện sự phát hiện HPV DNA ở nam giới.
IV. PHÒNG NGỪA HPV
Nhiễm HPV là bệnh lây truyền qua
đường tình dục (LTQĐTD), nguy cơ lây
nhiễm sau giao hợp khoảng 20%, ảnh hưởng
đến 80 triệu người Hoa Kỳ. HPV là tác nhân
gây nhiều loại ung thư như ung thư cổ tử
cung, âm hộ, âm đạo, dương vật, hậu môn,
hầu họng. Số nhiễm mới HPV đặt gánh nặng
cho cá nhân và cho cả hệ thống chăm sóc sức
khỏe trong cộng đồng vì đến nay vẫn chưa có
cách điều trị đặc hiệu mà chỉ có thể điều trị
triệu chứng.
ReppK. K. và cs9 thực hiện một nghiên
cứu cắt ngang năm 2012 ở 3 quốc gia về vấn
đề phòng ngừa HPV bằng bao cao su và đây
được xem là một yếu tố quan trọng giúp
làm giảm tỉ lệ phát hiện HPV. Một nghiên
cứu cắt ngang khác của Baldwin và cs10 năm
2004 thực hiện trên 393 đối tượng nam giới
cho thấy sử dụng bao cao su thường xuyên

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 542 - THÁNG 9 - SỐ CHUYÊN ĐỀ - 2024
51
có liên quan đến giảm tỉ lệ nguy cơ nhiễm
HPV. Tuy nhiên, bao cao su không thể giúp
hoàn toàn tránh khỏi nhiễm HPV vì bao
không bao trùm được vùng mu, hậu môn, bìu
mà HPV lại có thể lây do tiếp xúc da - da ở
vùng cơ quan sinh dục ngoài hay qua quan
hệ tình dục. Hút thuốc là yếu tố nguy cơ của
nhiễm HPV đã được Schabath và cs chứng
minh là hút thuốc liên tục với hơn 5 năm có
liên quan đến tỉ lệ mắc mới HPV cao, nhất là
nhiễm nhóm nguy cơ cao và khả năng HPV
được thải trừ thấp. Nielson và cs11 tìm thấy
những người hút 10 điếu mỗi ngày có liên
quan đến nhiễm HPV. Nghiên cứu của
Kaderli12 cho thấy tỉ lệ người đàn ông hút
thuốc nhiễm HPV là 68,2% so với 63,2%
không hút thuốc. Trong khi đó tỉ lệ nhiễm
HPV ở phụ nữ hút thuốc là 40,8% so với
25,2% không hút thuốc. Như vậy, nam giới
hút thuốc sẽ có tỉ lệ nhiễm HPV cao hơn nữ
giới. Do đó, nam giới ngừng hút thuốc là yếu
tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm
HPV.
Chủng ngừa HPV là biện pháp hiệu quả
các týp mục tiêu của thuốc chủng. Thuốc có
hiệu quả cao trước khi có quan hệ tình dục.
Thuốc chủng không ngừa các bệnh LTQĐTD
cũng như không chữa bệnh đang nhiễm HPV.
Trên thế giới có 3 loại thuốc chủng ngừa
HPV: Gardasil, Cervarix và Gardasil 9. Hiện
nay ở Hoa Kỳ chỉ lưu hành Gardasil 9. Vắc
xin thế hệ mới Gardasil 9 được sử dụng cho
cả nam và nữ giới, bảo vệ khỏi 9 týp virus
HPV phổ biến là 6, 11, 16, 18, 31, 33, 45, 52
và 58. Loại vắc xin này cũng đã có mặt tại
Việt Nam từ tháng 5/2022.
Một nghiên cứu lâm sàng về hiệu quả của
Gardasil ở nam giới cho thấy thuốc có thể
ngừa bệnh lý biến đổi tế bào ở hậu môn do
nhiễm HPV kéo dài. Nghiên cứu cũng cho
thấy Gardasil 9 có hiệu quả 100% ngăn ngừa
bệnh ung thư cổ tử cung, âm hộ, âm đạo, hậu
môn, hầu họng, mụn cóc sinh dục, các tổn
thương tiền ung thư hoặc loạn sản gây ra do
các týp 16, 18, 31, 33, 45, 52, và 58.
Một nghiên cứu gộp năm 2019 cho thấy
chủng ngừa HPV chỉ cho nữ giới trên diện
rộng cũng có tác dụng phòng ngừa cho
những người không chủng. Chương trình
chủng ngừa này thực hiện cho 60 triệu người
ở 14 quốc gia có thu nhập cao.13 Phân tích
cho thấy 8 năm sau khi bắt đầu chương trình
chủng ngừa, bệnh sùi mào gà hậu môn sinh
dục giảm 31% ở phụ nữ trong lứa tuổi từ 25 -
29 tuổi, giảm 48% ở thanh thiếu niên 15 - 19
tuổi và giảm 32% nam giới trong lứa tuổi từ
20 - 24 so với giai đoạn trước khi có thuốc
chủng ngừa.
Chỉ định dùng Gardasil 9 cho nam, nữ từ
9 - 45 tuổi:
Liều lượng:
▪ 2 liều đối với trẻ < 15 tuổi;
▪ 3 liều đối với người từ 15 tuổi trở lên.
Nếu một người đã nhiễm môt loại HPV
nào thì vẫn có thể chủng để phòng các loại
HPV chưa nhiễm có trong thuốc ngừa.
V. KẾT LUẬN
Dịch tễ học về HPV ở nữ giới đã được
nghiên cứu rất nhiều và đã có những dữ liệu
quan trọng giúp sự phòng chống ung thư cổ
tử cung hiệu quả. Ngược lại, có ít dữ liệu về
dịch tễ học của HPV ở nam giới, trong khi
một số nghiên cứu thực hiện được trên nhóm
đối tượng này đã cho thấy nam giới nhiễm
HPV là nơi chứa đựng nguồn bệnh, có thể
lây truyền HPV cho những người phụ nữ
khác. Do đó, cần có nhiều nghiên cứu về
HPV ở nam giới để giúp sự giảm nguy cơ lây
bệnh trong cộng đồng. Điều này cũng nói lên
tầm quan trọng của chương trình chủng ngừa
HPV áp dụng không chỉ cho bé gái mà còn
phải áp dụng cho những bé trai trước khi các
bé bước vào tuổi dậy thì.

