m hiểu một số tập đoàn báo chí trên thế giới và
chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở VN
Việt Nam, các điều kiện khách quan và chủ quan gần như đã chín muồi cho việc
trin khai mô hình tập đoàn báo chí. Sau 20 năm đổi mới, o chí Việt Nam đã lớn mạnh
về mi mặt và đang nhu cầu vươn cao, vươn xa hơn nữa.
Trên thế gii, thơn 100 năm nay, đã có việc các cơ quan o chí sáp nhập thành
tập đoàn, hướng đến mục tiêu lợi nhuận kinh tế, mở ra mt huớng làm kinh tế cho ngành
công nghiệp báo chítruyn thông, biến ngành này trở thành mt ngành kinh doanh nhiều
lợi nhuận. Xu hướng của các tập đoàn truyền thông hiện nay là vươn ra ngoài lãnh thổ, bởi
sự phát triển của các tập đoàn trong nước đã đến hồi tới hn. Trong khi đó, châu Á, trong
đó có Việt Nam ta, lại là mt thị trường giàu tim năng và mới bước đầu được khai p.
Cùng với đợtng này là đợt sóng toàn cầu hoá, khi Việt Nam chuẩn bị gia nhập vào
WTO, như vậy, việc có mt tập đoàn làm đối tác của các tập đoàn truyn thông khác, nắm
giữ thế chủ động được xem như là một việc làm cần kíp.
Trên cơ sở nhận định tình hình trong và ngoài nước, nhà nước đã đưa ra chủ trương
cho phép hình thành các tập đoàn báo chí, và trước mắt, tạo một số điều kiện nền tảng để
o chí gia tăng tiềm lực kinh tế.
Đề tài NCKH SV “Tìm hiểu một số hình tập đoàn báo chí trên thế giới và
vấn đề xây dựng tập đoàn báo chí ở Việt Nam” muốn dự phần vào công việc mà Thứ
trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin Đỗ Quý Doãn đã chỉ ra: “Trên thế giới nhiều tập đoàn
o chí. Mỗi mô hình nhng ưu đim, đặc trưng riêng của từng nước. Chúng ta nên lựa
chọn, học tập để xây dựng mt mô hình cho phù hợp. Đây là mt vấn đề rất mi. Chúng ta
phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm”[27].
2. Tình hình nghiên cứu:
Tập đoàn báo chí là mt mô hình kinh tế báo chí đã xuất hin từ rất lâu trên thế
giới, và chủ yếu được các nhà nghiên cứu báo chí – truyn thông trên thế giới tiếp cận
dưới haic độ: lịch sử báo chí xã hội học truyền thông. Do việc hình thành các tập
đoàn báo chí ở các ớc tư bản phương Tây tuân theo quy luật phát triển kinh tế, các
nghiên cứu phương Tây không nghiên cứu mô hình kinh tế, mà chủ yếu nghiên cứu về vai
trò của các tập đoàn truyn thông trong đời sống xã hội và đặc biệt là về tác động của
chúng đối với chất lượng báo chí.
Riêng đối với các quốc gia đang phát trin có đặc điểm tương đồng với Việt Nam,
công tác nghiên cứu lại chú trọng đến mô hình kinh tế, bởi thị trường truyền thông ở các
quốc gia này hoặc là chưa hình thành hoặc là đang cần tìm một hướng phát triển. Chính do
động cơ “đi tắt đón đầu”, các quốc gia này đã thực hiện các nghiên cứu về thuyết và
trin khai ứng dụng mô hình tập đoàn báo chí từ hơn chục năm trước đây.Trung Quốc,
mt quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam nhất, công tác nghiên cứu cũng đã
được trin khai từ trước năm 1996 – năm tập đoàn báo chí đầu tiên (tập đoàn báo chí
Quảng Cu) tuyên bố thành lập.
Tuy nhiên, do đặc thù về mặt chính tr, nhu cầu nghiên cứu về mô hình t chức và
hoạt động của các tập đoàn báo chí mới chỉ trở n bức thiết ở xã hội Việt Nam trong thời
gian gần đây. thể nói, Quyết định 219 của Chính phủ tháng 9/2005 về việc phê duyệt
Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010 đã chính thức khởi động cho các công trình
nghiên cứu về mảng đề tài này.
Kể từ sau khi chủ trương thành lập tập đoàn, giới làm báo đã công khai bàn luận
về vấn đề “tập đoàn báo chí”: làm thế nào? Như thế nào? Trin vọng ra sao? Một số báo
cũng bày tỏ tham vọng vươn mình thành tập đoàn, như Tiền Phong, Viet Nam Net, Tuổi
2
Trẻ, SGGP, … Họ cũng tự mình tìm hiểu các mô hình tập đoàn báo chí trên thế giới để áp
dụng ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc làm y chủ yếu mang tính ni bộ. Do vậy, công trình
NCKH SV này là mt đề tài hoàn toàn mới mẻ mang tính thời sự ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
Tuy đây mới chỉ là một nghiên cứu mang tính chất khởi đầu, mục đích của đề tài là
hiểu rõ và gợi ýng dụng mô hình tập đoàn báo chí của các nước trên thế giới vào thực tế
truyn thông Việt Nam.
Do vậy, đề tài hai nhiệm vụ chính. Một là đem lại cái nhìn rộng rãi về các tập
đoàn báo chí tiêu biểu trên thế gii, thông qua việc nghiên cứu mô hình kinh tế, vai trò
hội, và tác động đối với đời sống truyền thông. Hai là nhìn nhận li thực trạng truyền thông
Việt Nam trong bối cảnh chuyển hướng sang hoạt động kinh tế báo chí, để từ đó đưa ra
những gợi ý ứng dụng phù hợp. Nhiệm vụ nghiên cứu mô hình quản , do giới hạn về tầm
nhìn, bản lĩnh chính tr và trình độ nghiên cứu khoa học, xin được tạm gác lại.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật bin chứng. Các
phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu là phương pháp tổng hợp, phân tích, so
sánh, mô tả, phỏng vấn ly ý kiến …
5. Giới hạn của đề tài:
Đề tài Tìm hiểu một số tập đoàn báo chí trên thế giới và chủ trương hình thành tập
đoàn báo chí ở Việt Nam mt đề tài trọng tâm nghiên cứu rõ ràng. Tuy vậy, trong
quá trình nghiên cứu, do hạn chế về nguồn tài liệu tham khảo và năng lực xử lý thông tin
cũng như do gii hạn về các mi quan hệ giao tiếp trong gii báo chí, đề tài buộc phải giới
hạnmt phạm vi phù hợp.
Trong quá trình tiếp cận với rất nhiều tập đoàn báo chí trên thế giới, người viết chỉ
chọn tìm hiểu và gii thiệu 2 tập đoàn báo chí tiêu biểu của Mĩ (News Corp và Gannett), 6
tập đoàn báo chí của Trung Quốc, và tập đoàn Singapore Press Holdings của Singapore.
Trong quá trình khảo sát bước chuẩn bị thành lập tập đoàn của các cơ quan báo chí,
người viết chỉ chọn tìm hiểu và tiếp cận với 6 cơ quan báo chí (chủ yếu trong lĩnh vực báo
in) là: Tin Phong, VietNamNet, Thanh Niên, Sài gòn Giải Phóng, Saigon Times Group,
Tuổi Trẻ.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn:
Trong thời gian qua, khái niệm “tập đoàn báo chí” trở thành môt đề tài bàn tán
trong giới báo chí – truyn thông. Nói cách khác, chưa có định nghĩa chính thức về khái
niệm y ở Việt Nam.mc độ nghiên cứu còn hạn chế, đề tài NCKH SV “Tìm hiểu một
số tập đoàn báo chí trên thế giới và chủ trương hình thành tập đoàn báo chíViệt Nam
tạm thời đưa ra mt định nghĩa. Ngoài ra, thông qua quá trình nghiên cứu các tập đoàn báo
chí trên thế giới, người thực hiện cũng tạm thời đưa ra mt số yếu tố đem lại cái nhìn toàn
diện về một tập đoàn báo chí. Đây chính là ý nghĩa lý luận của đề tài.
Về ý nghĩa thực tin, có thể thấy đề tài NCKH SV này là mt tài liệu tham khảo có
tính ứng dụng cho các các cơ quan báo chí trong quá trình chuẩn bị tiến tới thành tập đoàn
o chí theo đúng chiến lược của Bộ Văn hoá – Thông tin. Ngoài ra, đề tài ng có giá trị
tham khảo đối với SV chuyên ngành báo chí, đặc biệt là các SV muốn có mt cái nhìn phổ
quát về thực trạng truyn thông ở Việt Nam và thực trạng truyền thông thế giới.
7. Kết cấu:
Đề tài gồm 3 chương.
Chương 1: Tổng quan về báo chí Việt Nam giai đoạn 2000 – 2005: tập trung
khái quát thực trạng báo chí – truyền thông ở Việt Nam trong những năm gần đây, phân
chia thành các mảng: báo in, báo nóibáo hình, báo trực tuyến, và những hin tượng
truyn thông khác. Dựa trên cơ sở thực tế, người viết cho thấy nhu cầu phát triển năng
động hơn nữa của đời sống báo chí – truyền thông Việt Nam chính là tin đề bảo đảm sự
3
hình thành của các tập đoàn báo chí trong tương lai, theo đúng định hướng của Nhà nước.
Chương 2: Giới thiệu một số mô hình tập đoàn báo chí trên thế giới: tìm hiểu
sơ lược quá trình hình thành các tập đoàn báo chí trên thế giới, thử tiếp cận với khái niệm
tập đoàn báo chí” trên thế gii, giới thiệu đôi nét vmt số tập đoàn báo chí của Mĩ,
Trung Quốc, và Singapore.
Chương 3: Chủ trương hình thành các tập đoàn báo chí ở Việt Nam: tập trung tìm
hiểu quá trình tư duy và chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở Việt Nam của nhà nước,
đồng thời khảo sát bước chuẩn bị của các cơ quan báo chí được đánh giá là có trin vọng
tnh lập tập đoàn.
4
Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ BÁO CHÍ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 – 2005
Trong 5 năm đầu của thế k 21, tình hình kinh tế - xã hi của Việt Nam những
chuyển biến mạnh mẽ. Nhiều năm liền, tỉ lệ tăng trưởng GDP ở mức cao trung bình 7%,
đến năm 2005, đạt mức 8,4% [42]. Không khí i động là đặc đim chung trên cả nước,
đặc biệt là ở những đô thị trung tâm, phát trin năng động, dẫn đầu là TPHCM. Đây chính
là điều kiện vô cùng thích hợp cho những trào lưu đổi mới, cải cách để hội nhập. Với
mong muốn vươn lên sánh vai với các nước trong khu vực và thế giới, Việt Nam đang
trong giai đoạn học hiểu về mi mặt trong thế giới, nắm vững các quy tắc, luật lcủa thế
giới. Kinh tế phát triển, đời sống của người dân được nâng cao, trình độ dân t phát
trin (hiện nay, t lệ mù chữ ở Việt Nam chưa đầy 7%, rất thấp so với thế gii” [42]).
Người n sẵn sàng đầu tư tin của, thời gian cho việc tiếp nhận thông tin, học tập, vui
chơi giải trí (những chức năng của báo chí), đó là cơ hội dẫn đến sự pt triển tất yếu của
o chí – truyền thông, theo đúng tinh thần: báo chí đồng hành với sự phát triển kinh tế đất
nước.
Theo tổng kết của BVăn hoá – Thông tin, trong thời kì đổi mới, “hệ thống báo chí
nước ta có bước phát trin quan trọng cả về loại hình, số lượng và chất lượng” [26], với đủ
các phương tin truyn thông tiên tiến nhất trên thế gii. Ngoài sự phát trin khởi sắc của 3
loi hình báo chí truyền thống là báo in, o nói, báo hình, là sự nở rộ của loi hình báo
điện tử (hayn gọi là báo trực tuyến, báo online), và sự “diệu kì” của các loi nh báo
chí qua điện thoại di động. Thực sự, chúng tôi chưa dám khẳng định số liệu chính thức
mới nhất về báo chí Việt Nam hiện nay, cũng như chưa có được số liệu tăng trưởng báo chí
trong vòng 5 năm trở lại đây. Số liệu được xem là chính thức đối với báo chí trong và
ngoài nước dừng lại ở mc năm 2004, chủ yếu lấy từ hai nguồn: Bộ Văn hoá – Thông tin
(các phát biểu trước báo giới của Bộ trưởng Phạm Quang Nghị và Thứ trưởng Đỗ Quý
Doãn) và Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung Ương (phát biểu của Trưởng Ban Nguyễn Khoa
Điềm). Các số liệu cập nhật về mảng báo i, báo hình, o trực tuyến và các thông tin
khác chyếu trích dẫn từ các bài báo và các câu chuyện hậu trường nghề báo[1].
1. Về mảng báo in:
Theo thống kê của Bộ Văn hoá – Thông tin, nước ta hiện có 553 cơ quan báo chí, trong đó
157 tờ báo 396 tạp chí với hơn 713 ấn phẩm báo chí và khoảng hơn 1000 bản tin
[26].
(Ngoài ra, còn có một số liệu khác là 676 cơ quan báo chí, trong đó có 680 “loại báo in”
với hơn 600 triệu bản/năm[2].)
Theo nhận định của tác giNguyễn Lê Hoàn,“kể từ khi mở cửa kinh tế, số lượng báo viết
Việt Nam tăng lên nhanh chóng, đến 2004 có hơn 500 cơ quan báo chí với khoảng trên
650 ấn phẩm thay vì 268 ấn phẩm vào năm 1992.” [15] Như vậy, chỉ trong vòng 12 năm,
số lượng ấn phẩm ở nước ta đã tăng gần gấp ba.
Về tổng số lượng phát hành, theo giáo trình “Công tác tchức và quản lý cơ quan báo chí”,
GV Bùi Huy Lan cho biết con số phát hành bình quân của gần 700 ấn phẩm báo, tạp chí,
bản tin, xuất bản là gần 2 triệu bản/ngày, trong đó tổng số phát hành của khoảng 160 tờ báo
là 1,7 triệu bản/ngày của 400 tờ tạp chí là 300.000 bản/ngày. Cả nước gần 20 tờ báo
xuất bản hàng ngày (được gọi và không được gọi là nhật báo), với con số phát hành
khoảng 1,2 triệu bản/ngày; gần 20 bản tin thời sự, tin chuyên nnh, tin Thông Tấn Xã
xuất bản hàng ngày với số lưng phát hành hàng trăm ngàn bản/ngày. Tính bình quân số
phát hành các ấn phẩm hàng năm là 600 triệu bản/năm. Có nhng tờ báo đạt tới con số
phát hành 380.000 bản/ngày như tờ Tuổi Trẻ (s liệu mới nhất – 2006), song cũng
những tờ báo chỉ đạt ở mức 1500 – 2000 bản/ngày như hầu hết các tờ báo Đảng ở đa
phương.
Thị trường báo chíi động nhất vẫn là TP.HCM. Đây mt thị trường đầy tiềm
năng, nơi diễn ra các cuộc cạnh tranh kinh tế giữa các tờ báo.
5
Trang web của Sở Văn hoá – Thông tin TPHCM, ở đoạn “Giới thiệu chung về báo chí
TPHCM”, cho biết cả TP có 38 đơn vị báo chí và 113 văn phòng đại diện của o chí
Trung ương và các tỉnh, cung cấp mt lượng thông tin lớn cho nhân dân thành phố thông
qua hàng chục đầu báo mi ngày. Ngoài ra, các toà soạnn ra phụ san định k, số đặc
biệt nhân các ngày lễ lớn, các dp k niệm của dân tộc, hoặc nhân ngày thành lập ngành.
Tình hình đầu năm 2006 li càng cho thấy sự phát triển quyết liệt ở mảng báo in:
TPHCM từ chỉ 1 tờ nhật báo đúng nghĩa (tờ Sàin Giải Phóng) nay đã có đến 3 t
(thêm Tuổi Trẻ và Thanh Niên). Các tờ o cũng đồng loạt ra nhng ấn phẩm mới, nhất là
ấn phẩm ngày chủ nhật (cuộc chiến của báo Tuổi Trẻ với báo Thanh Niên, báo Pháp Luật),
to nên sự đa dạng các ấn phẩm báo chí ngay trong cùng mt cơ quan. Các báo có sự cải
tiến về mặt nội dung và hình thức, thêm nhiều chuyên mục mới, đặc biệt có sự đổi mi ở
các trang quảng cáo, (nhng tờ báo lớn thường tặng kèm trang thông tin tu dùng). Từng
bước, các báo rèn luyện tư duy kinh tế, bên cạnh sự phát triển của hai hoạt động quảng cáo
PR.
Về mng tạp chí, tác giả Văn Hùng, công tác ở Vụ Báo chí (Ban Tư tưởng – Văn hoá
Trung Ương) qua bài viết “Phát trin và quản lý hệ thống tạp chí[3] đã cho thấy mt nhn
định gần như toàn diện về tạp chínước ta. Theo đó, hin nay, số đầu tạp chí lớn hơn
nhiều so với số đầu báo, có gần 400 tạp chí các loại trong khi chỉ khoảng 200 đầu báo.
Nguyên nhân là sự tăng đột biến của nhu cầu xuất bn tạp chí của nhiều cơ quan, bộ ngành,
tổ chức kinh tế, tổ chức hội, liên hiệp các hội. Nguyên nhân này không những chi phối sự
phát triển của hệ thống tạp chí theo din rộng (số lượng) mà còn theo chiều sâu (chất
lượng). Các ấn phẩm mang tính xã hội và thương mại cao góp phần dẫn đến sự hình thành
i động hoá thị trường báo chí những năm gần đây. Từ các tạp chí xuất bản hàng quý,
hai tháng, hàng tháng, đến nay, nổi trội là các tờ tạp chí ra 2 – 4 kỳ/tháng (Tạp chí Thế giới
mới, Tạp chí Kinh tế châu Á Thái Bình Dương, Tạp chí Thương mại, Tạp chí Thời trang
trẻ, Tạp chí Tiếp thị Việt Nam, Tạp chí Gia đình Việt Nam …). Xu hướng tăng kỳ phát
hành là kết quả của sự ra đời loại tạp chí mang tính giải t, đánh trúng thị hiếu của độc giả,
đẩy số phát hành lên cao.
Hiện nay, thể thấy sự phân chia hai mảng tạp chí: tạp chí chuyên ngành nội bộ[4]
tạp chí mang tính giải trí.
Các tạp chí chuyên ngành – ni bộ thường có con số phát hành không đáng kể. Một số tờ
vẫn phải sống nhờ bao cấp, chỉ khoảng 200 đầu tạp chí trực thuộc liên hiệp hội, các hội
khoa học, hội kinh tế, hội nghề nghiệp, đoàn thể chính tr - xã hội, các hội phi Chính phủ,
… được xếp vào dạng đơn vị sự nghiệp có thu, hoạt động theo cơ chế tự trang trải. Chính
thực trạng “nghèo nàn” của một số tạp chí bao cấp đã góp phần đưa đến mt nhn xét của
cơ quan quản lý báo chí: mt số tạp chí cùng tôn chỉ mục đích, dẫn đến sự thừa thãi
lãng phí.
Mảng tạp chí mang tính gii trí đang chiếm thị phần lớn trên thị trường báo tạp chí, với
số phát hành xấp xỉ hàng vạn bản mi tuần, thậm chí còn lấn lướt cả một số tờ tuần báo
yếu về lực. Mặc dù chỉ mới ra đời khoảng vài chục đầu tạp chí, mảng tạp chí này chính
mt trong những động lực thúc đẩy cạnh tranh kinh tế, to đà phát trin cho làng báo. Đó là
các tạp chí Thời Trang Trẻ, Tiếp Thị & Gia Đình, Cẩm nang mua sắm,nh Điệu, Mốt,
Mốt Cuộc sống, Tiếp Thị Việt Nam,
Sở dĩ nhận định các tạp chí i trên thúc đẩy cạnh tranh kinh tế, tạo đà phát trin cho làng
o chính hiện tượng một số tờ báo đã thương hiệu, và cả các tờ đang gặp “khó
khăn” cũng xin ra số phụ cuối tháng ở dạng tạp chí – như một li ra, li thoát hiểm. Đó là
các tờ như Sành điệu của báo Du lịch Việt Nam, Thị trường Tiêu dùng của báo Quốc tế,
Người Đẹp của Tiền Phong, Đẹp của Thông tấn xã, tạp chí truyền hình của các Đài THViệt
Nam, Đài THHN, Đài TH TP.H Chí Minh …
Góp phần làm toàn din hơn bức tranh về tình hình báo chí của Việt Nam những năm gần
đây, cũng không thể bỏ qua vai t của hãng thông tấn quốc gia Thông tấn xã Việt Nam