Vì sao khi tàu thuyền đi về phía Tây, thời gian một ngày dài hơn 24 gi, nhưng
đi về phía Đông thời gian lại ngắnn 24 giờ?
Ngày 20 tháng 9 năm 1519, 5 chiếc tàu của Tây Ban Nha do magellan dẫn đầu
rời cảng Sanlucar đi về phía Tây bắt đầu cuộc hành trình ng quanh Trái đáat.
Sau gần 3 năm nh trình, đoàn tàu chỉ còn lại một chiếc tới quần đảo Mũi
Xanh (Cap-Vert).
Nhưng khi các thủy thủ lên bờ đã xảy ra cuộc tranh luận vbới dân chúng v
vấn đề thời gian.
Hôm nay là ngày mồng 9! - Các thuỷ thủ khng định với thổ dân trên đảo.
- Không phải! Hôm nay là ngày mồng 10! dân chúng khẳng định như vậy.
Các thuỷ thủ ngày nào cũng ghi nhật ký hàng hải nên họ không chịu thua.
Vậy rốt cuộc là ngày mồng 9 hay mồng 10. Chẳng lcác thuỷ thủ ghi sai ư?
Cũng không phải. Vậy thì ai là ni thua cuộc?
Hồi đó các thuỷ thủ đâu biết rằng, họ đãđánh mất” 1 ngày trên đường đi. Mãi
sau này các thuthủ n chúng mới vỡ lrằng: nguyên nhân là do đoàn u
đi về phía Tây vòng quanh Trái đất. Chúng ta đã biết Ti đất tự quay theo chiều
từ tây sang Đông. Khi đoàn tàu ca Magellan đi về phía Tây, hình dung họ đã
chơi trò “đuổi bắt Mặt trờiban ngày họ không ngừng đuổi theo Mặt trời đang
lặn về phía Tây, ban đêm hlại “tránh xa” Mặt trời mọc ở phía Đông, như vậy
ngày và đêm trên tàu được kéo dài ra. Theo tính toán của các nhà khoa học, mỗi
ngày đêm trên tàu dài hơn 1,5 pt, cộng li trong 3 năm vừa đúng 1 ngày. “Một
ngày kỳ lạ” đó đã lặng lẽ biến mất trong chuyến đi của đoàn tàu.
Tất nhiên nếu đoàn u đó đi nc lại theo hướng về phía đông thì một ngày
đêm sẽ thiếu 1,5 phút và sau 3 năm sẽ dôi ra 1 ngày.
Chúng ta cũng biết rằng tốc độ cau thuyền mấy trăm năm trước chậm hơn
nhiều so với tàu viễn dương máy bay phản lực ngày nay. Khi các tàu viễn
dương y bay phn lực đi về phía Tây, mỗi ngày sẽ không dài ra 1,5 phút mà
dài thêm mấy chục pt thậm chí mấy gi, bởi lchúng “đuổi theo” Mặt trời với
tốc độ rất nhanh. vậy các nhà hàng hải hàng không khi tính thời gian hành
trình không thkhông trừ bớt hoặc cộng thêm khoảng thời gian ng thêm hoặc
mất đi đó. Nếu quên không nh toán thì tàu thuyền hoặc máy bay sẽ đến bến
cảng hoặc cánh không khớp với “thời gian dự định”.
Các múi giờ trên thế giới được chia như thế nào?
Thời gian chúng ta dùng hàng ngày lấy phương vị của Mặt trời làm tiêu
chuẩn. đơn giản là mỗi khi Mặt trời chiếu thẳng vào tuyến Nam - Bắc của Trái
đất thì ở nhng nơi đó là 12 giờ trưa. Chúng ta đều biết rằng, Mặt trời hàng ngày
mọc từ phía Đông và lặn phía Tây, hiên tượng đó là do Trái đất tự quay gây ra.
Những người sống những nơi khác nhau trên Trái đất nhìn thy Mặt tri trên
đỉnh đầu không phải đều cùng 1 lúc. Bởi vậy các khu vực trên Trái đất, người
ta n cứ vào phương vị của Mặt tri để định thời gian thích hợp với từng nơi.
Khi Luân Đôn là 12 giờ trưa thì Nội 19 giờ, Bắc Kinh là 19n gi45
phút Thượng Hải 20 gi06 phút. Trong thời đại khoa học kỹ thuật hiện
đại ngày nay việc tính giờ như vậy rất không tiện lợi. để việc liên lạc giữa các nơi
trên thế giới thun tiện, người ta đã thống nhất thời gian giữa các nơi trên thế
giới.
Vậy cả hế giới thể sử dụng chung một thời gian tiêu chun không? Trong
lĩnh vực khoa học, ngưi ta đã áp dụng phương pháp này thừa nhận thời gi-
an của đài thiên n Greenwich gọi là i gi0 bao gồm khu vực nằm trong
phạm vi kinh tuyến 7,50 Tây kinh tuyến 7,50 Đông.Dân chúng sống trong khu
vực múi giờ này đều sử dụng thời gian của đài thiên n Greenwich. Múi giờ 1
tiếp theo (phía đông múi giGreenwich) được nh tkinh tuyến 7,50 đông tới
kinh tuyến 22,50 đông. Tiếp đó các múi giờ 2,3,4,5 ... cho đến múi gi 12. Mỗi
múi giờ chênh lệch nhau 1 giờ (vừa vặn trong 1 giờ Trái đất tự quay được 150).
Thời gian trong cùng một i gichênh lệch không đáng kể với thời gian tính
theo phương vị của Mặt trời ( không quá nửa gi). Cũng như vậy từ múi giờ 0 về
phía Tây lại chia tiếp các múi giTây 1, Tây 2, Tây 3, ... cho đến Tây 12 ( múi
giờ Tây 12 chính múi giđông 12). N vậy nhân dân toàn thế giới đều
tong 24 múi gi, thời gian trong mỗi múi giờ đều như nhau. Giữa các múi giờ ch
khác nhau về số giờ nhưng không giống nhau về phút, giây, nên việc sử dụng
thời gian và liên lạc giữa các múi giờ rất tiện lợi.
Tuy vậy việc phân chia ranh giới giữa các múi giờ có khi không hn toàn theo
ranh giới các kinh độ phân chia theo biên giới quốc gia, địa hình, sông, đảo
v.v. Do vậy trong các múi giờ cũng một số chênh lệch nhỏ, nhưng không ảnh
hưởng nhiều lắm đối với việc thng nhất thời gian trên toàn thế giới.
Thế nào là tính năm theo Can chi?
Chúng ta đều đã nghe nói về“ Cách mạng n Hợi”, Tổng tấn ng Xuân
Mậu thân” và năm 1992 năm “Nhâm Thân, v.v. Đó tên gọi của các năm âm
lịch. Cáchnh năm như vậy gọi là tính năm theo “Can chi.
sao lại tính năm theo “Can chi? Trước tiên chúng ta hãy xem xét cách tính
năm hiện nay.
Cách tính năm hiện nay chúng ta đang dùng là cách nh năm ng ngun k
từ năm ca Giêsu đi. một số nước châu á xưa kia hai cách nh năm.
Cách thứ nhất tính theo năm tồn tại của các triều đại phong kiến. dụ Trung
Quốc ngày xưa năm Trinh quan (năm 627 sau ng nguyên) tức năm vua
Đường Thái Tông (tức Lý Thế Dân) lên làm vua. ở Việt Namnăm Tự đức th
nhất, thhai, ...; năm Bảo Đại thứ nhất, thứ hai.. Cách tính năm như vậy không
khoa học và phức tạp. Bởi vậy ny xưa một số nước châu á còn có cách tính
năm khác khoa học hơn gọi là tính năm theo “Can chi”.
“Can chilà tên gọi tắt của Thiên can Địa chi. thiên can gồm 10 chữ: Giáp,
ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ ,Canh, Tân, Nhâm, Quý. Địa chỉ gồm 12 chữ: Tí, Sửu,
Dần, Mão, Thìn, Tỵ Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Người ta ghép 12 chữ của
Thiên can với 12 chữ của Địa chí thành 60 cặp rồi tuần hoàn lại từ đầu. dụ:
Giáp tí, ất Sửu, nh dần, Đinh Mão, v.v. 60 cặp năm đó gọi 60 hoa Giáp Tí ”.
Dùng phương pháp này tính năm c60 năm lại tuần hoàn một vòng, mỗi năm có
thể kèm theo niên hiệu của Triều đại phong kiến. Cách tính năm theo kiếu này
ràng, dễ nh quy luật nhất định. d: năm 1911 lãnh t Quốc n đảng
Trung Quốc là Tôn Trung Sơn lãnh đạo cuộc ch mạng n chủ thành công.
Cuộc cách mạng đó gọi là cách mạng n Hợi ( năm 1911 là năm n Hợi).
Tiếp đó 60 năm - năm 1971 cũng là năm Tân Hợi.
Năm 1961 là năm Tân Sửu, năm 1971 năm Tân Hợi, năm 1981 năm Tân
Dậu, năm 1991 là năm n Mùi...
Qua thtđó thể thấy mỗi khi lặp lại một chữ ng Thiên can số 10
chẵn, mỗi khi lặp lại một chhàng Địa chí số 12 chẵn. bội số chung của
10 12 là 60. Bởi vậy vòng tuần hoàn của Thiên can Địa chi sẽ là số 60
chẵn. Cách nh năm Can chituy không tiện lợi khoa học bằng cách nh
năm theo Công nguyên. Nhưng cách tính này tồn tại từ lâu trong không gian nên
chúng ta cần tìm hiểu.
Trong dân gian, khi nh tuổi âm lịch cũng n cứ theo Địa cđể tính. d
sinh năm Tân Múi (1991) tuổi , sinh năm Nhâm Thân (1992) là tuổi Khỉ, v.v.
Bởi vậy trong cuộc sống hàng ngày hiện nay, cách tính năm “Can chivẫn được
sử dụng. Ngày nay báo chí và một số lịch thường của một số ớc Châu á vẫn
ghi thêm năm âm lịch “Can chi”
Nếu bạn muốn biết một năm ng nguyên nào đó là năm “Can chi, hoặc
bạn đã biết năm “ can chi” và muốn tính ra năm đó là năm Công ngun nào. Xin
mách bạn cách tính sau:
Tước tiên bạn phải ghi nhớ hai chữ cuối cùng trong thứ tự Can chi - Quý Hợi
năm ng ngun naò. d: năm 1803, 1863, 1923 đều là năm Quý Hợi:
Vậy mun biết năm 1965 là năm Can chi , bạn lấy 1965 - 1923 = 42 rồi lấy 42
chia cho 10 (10 Thiên can) còn 2; tiếp đó lấy 42 chia cho 12 (12 địa chí) còn
6, ta biết chữ thứ 2 ca Thiên can là ất, chữ th6 ca Địa chí là Tỵ, Vậy năm
1965 là năm ất Tỵ.
Ngược lại muốn biết năm “Can chica một năm ng nguyên nào đó, trước
tiên bạn phải nắm được “Can chi đó thuộc chu kỳ nào của năm Quý Hợi. dụ:
Cuộc tổng tấn ng Mậu Thân năm o? Ta biết đại để cuộc tấn công đó xảy
ra trong thập kỷ 60, tức là thuộc chu kỳ sau năm QHợi 1863. Bạn chỉ việc lấy
số thứ tự của ”Mậu trong Thiên can là 5 nhân với 6 rồi trừ đi số thứ tự ca
”Thân" trong Địa chí 9 nhân với 5, được kết quả số dương tcộng tiếp với
1923 (năm Quý Hợi) là ra kết qu(Nếu kết quphép trừ Thiên can Địa chí
số âm thì cộng thêm 60 trước khi cộng với 1923).
Cụ thể là:
(5 x 6 - 9 x 5) + 60 + 1923 =
-15+60+1923=
45+1923=1968
Ta biết ngay cuộc tổng tấn công năm Mậu Thân là năm 1968.
Cũng bằng cách đó, ta cũng thể nh ra nạn đói năm ất Dậu nước ta là
năm:
(2 x 6 - 10 x 5) + 60 + 1923 = 1945.
Cách tính của nước ta:
Muốn tìm tên năm Âm lịch từ đầu ng ngun đến nay, nước ta (Việt Nam)
đơn giản hơn. Hãy dùng bảng Can chi dưi đây và làm như sau:
- Lấy niên số năm dương lịch, bớt đi 3 rồi chia cho 60, ssố dư là bao nhiêu, đối
chiếu với số trong bảng, ta có can chi (số dư là 0 thì ở ô 60)
- các năm đầu ng ngun từ 01 đến 63 áp dụng như sau: Từ 03 đến 63, ta
áp dụng bớt đi 3, hiệu số là bao nhiêu đối chiếu ngay với Bảng trên. Do đó năm
03 hiệu số = 0 năm Quý Hợi, từ đó suy ra năm 02 năm Nhâm Tuất, Năm
01 là Tân Dậu.
Ví du: a/ Tìm tên Âm lịch của năm 1789.
(1789 - 3) : 60 số là 46 tra bảng số 46 là Kỷ Dậu vậy năm 1789 Kỷ
Dậu.
b/ Tìm tên âm lịch của năm 40.
40 - 3 hiệu số 37, trong bảng số 37 năm Canh , vậy năm 40 Canh
Chú ý: Tnăm 64 trở đi, lấy niên số bớt đi 3 rồi chia cho 60, lấy số đối
chiếu với bảng trên.
Năm âm lịch và năm dương lịch hình thành như thế nào?
Hiện nay các nước, các dân tộc trên thế giới sử dụng rất nhiều cách nh lịch
khác nhau, nhưng chủ yếu 3 loại lịch sau: dương lịch, âm lịch, âm dương lịch.