
THỰC TIỄN TRUNG HOA
Hoàng Ngọc Hiến
André Chieng, tác giả bàn về THỰC TIỄN TRUNG HOA cùng với
FRANOIS JULLIEN1, người Pháp gốc Hoa, sinh năm 1953 ở Marseille
(Pháp). Tốt nghiệp Đại học Bách khoa, ông theo học kinh tế ở Đại học
Quốc gia thống kê học và quản trị kinh tế và Học viện chính trị (Pháp).
Năm 1978, A.Chieng về Trung Quốc giảng dạy đại học. Nhưng ngay sau
đó (năm 1980), ông quay lại Pháp tham gia một tổ chức thương mại (sau
này trở thành Hội đồng thương mại Âu Á), từ 1988, là chủ tịch Hội đồng
này. Ông là một trí thức thực học đồng thời là một doanh nhân có danh
tiếng quốc tế. Đi đi về về Trung Hoa - Pháp, từ 2001 ông về ở hẳn Bắc
Kinh. A.Chieng được chứng kiến từ đầu chí cuối (từ 1978 đến nay) công
cuộc Cải cách trong ba thập kỷ vừa qua đã tạo nên "thần tích kinh tế"
Trung Hoa. Sự nghiên cứu thực tiễn Trung Hoa đương đại của
A.Chieng có giá trị kiểm chứng đối với những tư tưởng mà Jullien phát
hiện trong hoạt động lý thuyết.
Tác giả thấy những học giả phương Tây nghiên cứu Trung Hoa bằng những
khái niệm phương Tây, do đó không trúng. Tác giả đi tìm những khái niệm - công
cụ thích đáng và kết quả là đã tìm thấy chúng trong những công trình nghiên cứu
Trung Hoa (đối sánh với Châu Âu) của F.Jullien.
Đây "là một cuộc đi dạo có bình luận thuyết minh trong lòng của Trung Hoa ngày
nay, người đi dạo là một thương nhân Trung Hoa được giáo dục ở Pháp(...), cùng
đi với anh ta là những bài viết của một triết gia Pháp, trở thành nhà Trung Quốc
học để hiểu phương Tây hơn, cuộc đi dạo được kể lại trong tập biên khảo này"2.

Trong công trình đặt ra nhiều vấn đề lịch sử, triết học quan trọng, những
kiến giải của A.Chieng về những vấn đề này cuối cùng dẫn đến sự đối sánh việc
thực hiện mô hình chung: kinh tế thị trường + dân chủ ở phương Tây, ở Nga (sau
khi Liên Xô sụp đổ) và ở Trung Quốc hiện đại hóa, sự đối sánh này cho ta thấy
Trung Quốc trên con đường cải cách một mặt ra sức học phương Tây về khoa học,
công nghệ, về cách quản lý và điều hành hiện đại; mặt khác đem kết hợp với
những phương thức tư duy, những nếp nghĩ bản sắc Trung Hoa, chính sự kết hợp
này đã tạo ra thần tích kinh tế Trung Hoa trong ba thập kỷ qua.
Tính phổ quát của trí năng phương Tây thể hiện trong những thành tựu
khoa học tự nhiên và công nghệ là điều hiển nhiên. Nhưng trong triết học, trong
những lĩnh vực khoa học xã hội, đặc biệt là khoa học nhân văn, những phương
thức tư duy, những nếp nghĩ của phương Tây phải chăng cũng có giá trị phổ quát
như họ nghĩ? Phải chăng những luật, những chân lý họ đề ra trong những lĩnh vực
này phải được xem là căn cứ tham chiếu duy nhất? F.Jullien đã đến với trí năng và
văn hoá cổ Trung Hoa và từ chỗ "bên ngoài" này, từ những phương thức tư duy và
nếp nghĩ mang bản sắc Trung Hoa mà ông lĩnh hội được, ông nhận thấy tham
vọng đưa ra những chân lý phổ quát của phần lớn các học giả phương Tây là đáng
ngờ. "Công việc lý thuyết được tiến hành ở đây - F.Jullien viết - nhằm trình bày rõ
hơn hai truyền thống văn hóa vốn không biết đến nhau này - truyền thống Trung
Hoa và truyền thống Hy Lạp - buộc tôi phải giải thể và làm lại những phạm trù của
tư tưởng; tôi không thể bằng lòng với những khái niệm của khoa học nhân văn
(Châu Âu) và đành phải vượt rào"3. Kinh tế học là một ngành học hùng hậu của
phương Tây. Trong công cuộc Cải cách ba thập kỷ vừa qua, đặc biệt trong lĩnh
vực kinh tế, chẳng hạn như vấn đề quản lý ngân hàng, vấn đề nông dân tràn vào
thành phố..., những nhà lãnh đạo Trung Hoa đã đưa ra những đối sách và giải pháp
kinh tế khác hẳn, thậm chí trái ngược với những bài bản có tính chất kinh điển của
kinh tế học phương Tây. Có những nhà kinh tế học phương Tây tin rằng họ nắm
được chân lý phổ quát về kinh tế học bèn lên tiếng bài bác, thậm chí với một thái

độ diễu cợt. Gordon Chang trong bài báo Sự sụp đổ sắp tới của Trung Hoa (công
bố năm 2001) tiên đoán một cuộc khủng hoảng trầm trọng của Trung Quốc. Trên
tờ Financial Times số ra ngày 14/9/2003, Moisys Naym đăng bài báo với nhan đề:
"Chỉ có thần tích mới cứu được Trung Hoa". Trong bài xã luận đăng trên báo Wall
Street châu Á (1/8/2003) Restall đặt câu hỏi: "Vì sao Trung Hoa là một con hổ
giấy?” 4. Trên thực tế những giải pháp kinh tế của người Trung Hoa có hiệu quả
tích cực to lớn. Trên cơ sở thực tiễn Trung Hoa, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế,
André Chieng cho thấy tính phổ quát của kinh tế học phương Tây là đáng ngờ,
ông đã làm công việc mà F.Jullien đã làm trong một phạm vi rộng hơn, có liên
quan đến phương thức tư duy phương Tây trong nhiều lĩnh vực nhân văn. Khoa
học nhân văn phương Tây có những thành tựu to lớn. Phần lớn những thành tựu
này đã đi vào chương trình giảng dạy đại học, là một bộ phận quan trọng trong vốn
học thuật các cán bộ lãnh đạo chính trị và quản lý kinh tế. Công trình của
A.Chieng co thể giúp các sinh viên, nghiên cứu viên, các cán bộ chính trị và kinh
tế:
- tích cực học tập những phương thức tư duy, nếp nghĩ trong khoa học nhân văn
phương Tây đồng thời có ý thức nghi ngờ tính phổ quát của chúng; - có ý thức
khai thác nguồn những phương thức tư duy Đông Á (trong đó có Việt Nam), đem
kết hợp với trí năng phương Tây, đặng vận dụng chúng một cách sáng tạo trong
việc nghiên cứu thực tiễn Việt Nam và những vấn đề lý thuyết được đặt ra từ đó.
Trên cơ sở những tìm tòi sâu sắc và sáng tạo của F.Jullien và A. Chieng, tôi nêu
lên những phương thức tư duy, những nếp nghĩ đáng chú ý của Đông phương,
đúng hơn của văn hóa khu vực Đông Á mà Trung Hoa là tiêu biểu.
Ban đầu vấn đề được đặt ra là vai trò của "văn hóa" trong “thần tích kinh tế
Trung Hoa” trong ba thập kỷ vừa qua. A.Chieng cho rằng sau khi Trung Hoa tiếp
nhận mô hình "kinh tế thị trường + dân chủ" thì nhân tố quyết định tạo ra thần tích
kinh tế là văn hóa coi trọng sự biến hóa (culture de la transformation) của Trung
Hoa, trong khi đó văn hóa của phương Tây là văn hóa coi trọng chân lý (culture de

la verité), Nga (sau khi Liên Xô sụp đổ) cũng ở trong quỹ đạo của văn hóa sau (so
sánh tình hình hiện tại của Nga và Trung quốc có thể hình dung được những tác
động khác nhau của hai văn hóa nói trên). Thế nào là "coi trọng chân lý", là "coi
trọng sự biến hóa" sẽ nói rõ hơn ở phần sau, đến đây cần thấy sự phân biệt hai văn
hóa nói trên có tính chất hết sức ước lệ: nói rằng "coi trọng sự biến hóa" không có
nghĩa là không quan tâm đến vấn đề chân lý, vấn đề là ở liều lượng, và trong liều
lượng có những mức độ khác nhau: có biết đến vấn đề chân lý nhưng không chú ý
lắm, có quan tâm đến chân lý nhưng ít nhiều vẫn bị lu mờ do sự đặc biệt quan tâm
đến sự biến hóa. Nói đến tác động của văn hóa tới sự phát triển kinh tế, F. Jullien
hiểu đây không phải là "một nước sơn véc-ni phủ lên văn xuôi của dịch vụ kinh
doanh", cũng không phải là một lĩnh vực hoạt động của con người bên cạnh những
lĩnh vực khác (kinh tế, chính trị, quân sự...), nó là những "phương thức tư duy
(mode de pensée) bao trùm, phát tán, xuyên suốt mọi lĩnh vực, là thiên hướng chi
phối cách suy nghĩ và cách xử lý trong mọi hoạt động của con người.
Như vậy trong quan niệm của F.Jullien cũng như của A.Chieng, cái gọi là
"văn hóa" trước hết là những phương thức tư duy hoặc những hệ tư duy (système
de pensée). Chính cái "văn hóa" này, cái "phương thức (hoặc hệ) tư duy” này phân
biệt Trung Quốc và phương Tây. " Giữa Trung Quốc và phương Tây - A.Chieng
viết - không phải là hai mô hình đối lập nhau, mà đây là hai hệ tư duy đối lập: văn
hóa trọng chân lý (culture de la vérité) đối lập với văn hóa trọng sự biến hóa
(culture de la transformation)" 5 (trong quan niệm của tác giả, xét một cách hết sức
đại khái và ước lệ thì Trung Quốc (hiện nay) và phương Tây cùng chung một mô
hình: kinh tế thị trường + dân chủ; nước ta cũng không ở ngoài mô hình này: kinh
tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là kinh tế thị trường). Nhận xét
về cách các học giả phương Tây so sánh nước Nga hiện nay và Trung Quốc hiện
nay, tác giả chỉ ra một sự nhầm lẫn lớn, họ nhấn mạnh sự đối lập về hệ tư tưởng:
Nga từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, Trung Quốc giữ lại học thuyết này. Sự khác biệt
cốt yếu giữa Nga và Trung Quốc chủ yếu là ở sự đối lập về văn hóa: nước Nga vẫn

ở trong quỹ đạo văn hóa trọng chân lý của phương Tây, còn văn hóa của Trung
Hoa, như chúng ta biết, coi trọng sự biến hóa.
Thế nào là văn hóa coi trọng chân lý của phương Tây? Có nhiều cách
hiểu.
Coi trọng chân lý trong khoa học tự nhiên và công nghệ là chung cho cả
phương Tây và Trung Quốc. Từ thế kỷ 16, với sự hình thành của phương pháp
thực nghiệm-toán học, đặc biệt từ Gallilée (1564 - 1642), nhà bác học đã khẳng
định phương pháp này, ở Châu Âu, khoa học tự nhiên và kỹ thuật phát triển mạnh
mẽ, đến thế kỷ 19 thì phát triển ào ạt. Sau biến cố Chiến tranh nha phiến (1939),
Trung Quốc mới tỉnh ngộ sự tụt hậu thảm hại của mình trong lĩnh vực khoa học,
công nghệ. Từ đấy đến nay, trải qua những thể chế khác nhau, học tập và đuổi kịp
phương Tây trong lĩnh vực này luôn luôn là mục tiêu hàng đầu của Trung Quốc.
Văn hóa coi trọng chân lý của phương Tây trước hết được đặt ra trong những lĩnh
vực xã hội, nhân văn. Trong những lĩnh vực này (chủ yếu lĩnh vực nhân văn),
bằng sự nghiền ngẫm học thuật, bằng những sự từng trải và chiêm nghiệm, người
ta đề ra những quy luật, và một khi quy luật được một sự đồng thuận rộng rãi, nó
trở thành chân lý; từ những quy luật được đề ra những giả thuyết và từ nhiều giả
thuyết được xây dựng những lý thuyết. Từ những quy luật, những chân lý, những
lý thuyết..., những người hoạt động thực tiễn đề ra những mô hình, những kế
hoạch, dự án (ít nhiều có tính chất tư biện, mang tính ý niệm) và một khi được đề
ra, được xác quyết, chúng trở thành những mục tiêu và hoạt động thực tiễn là thực
hiện chúng, tức là đưa chúng vào thực tại, vào đời sống. Thực chất của việc đưa
mô hình, kế hoạch, dự án, mục tiêu... vào thực tại là tạo ra những quá trình biến
hóa trong thực tại. Văn hóa coi trọng biến hóa của Trung Quốc không coi nhẹ quy