
TRỊNH QUANG TUYÊN – Thực trạng ô nhiễm môi trường và xử lý chất thải ...
55
THỰC TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ XỬ LÝ CHẤT THẢI TRONG
CHĂN NUÔI LỢN TRANG TRẠI TẬP TRUNG
Trịnh Quang Tuyên, Nguyễn Quế Côi, Nguyễn Thị Bình,
Nguyễn Tiến Thông và Đàm Tuấn Tú
Trung tâm nghiên cứu lợn Thuỵ Phương
*Tác giả liên hệ: Trịnh Quang Tuyên -Trung tâm nghiên cứu lợn Thuỵ Phương
Viện Chăn nuôi - Thụy Phuương - Từ Liêm - Hà Nôi
Tel: 0989.750.711; Email: quangtuyenvcn@yahoo.com.vn
ABSTRACT
Assessment of environmental pollution and waste management at intensive pig farms
A survey was conducted at four provinces: Hatay, Hanoi, Thaibinh and Ninhbinh since January to June 2008 to
investigate the current situation of environmental pollution and waste management at intensive pig farms. The
survey showed that most pig farms in studied provinces are located close to the residential areas (The distance
from most pig farms to the residential areas ranged from 10 to 100 m). The noise from pig farms with the
distance of 100 m far away from the residential areas did not have any effect on human being. However, the odor
from 70 % pig farms disturbed the people living in the residential areas. Almost all pig farms in the studied
provinces had biogas digesters but only farms with herd size of over 100 sows had manure storage houses and
biological ponds. Manure was collected and used for planting and selling without being treated. Few farms had a
waste management system but it did not meet the standard of TCVN 5945-2005.
Key words: environmental pollution; investigate; intensive
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăn nuôi lợn tập trung hiện nay ở nước ta đã và đang phát triển mạnh cả về số lượng
trang trại, quy mô đầu lợn, chất lượng con giống. Theo Cục Chăn nuôi năm 2007, số đầu
lợn năm 2006 đạt 26,8 triệu con, kế hoạch cho đến năm 2010 đạt 32,8 triệu con, đến năm
2015 đạt 36,9 triệu con. Các trang trại hiện nay được quy hoạch nhỏ, mang tính chất chắp
vá, thiết bị chuồng trại không đồng bộ. Đa số các trang trại nằm trong khu vực dân cư nên
mức độ ô nhiểm khá cao. Mức độ ô nhiễm môi trường tại các cơ sở chăn nuôi tập trung và
các địa phương có chăn nuôi lợn phát triển là rất trầm trọng. Thực tế nhiều nơi các chất
thải rắn, chất thải lỏng và đặc biệt là nước thải từ bể khí sinh học đều được người chăn nuôi
cho chảy thẳng ra cống rãnh, ao hồ, sông suối. Nhiều công trình nghiên cứu trong nước đã
điều tra tình hình chăn nuôi và đưa ra một số giải pháp xử lý về chuồng trại, xử lý nước
thải bằng biogas nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Theo kết quả nghiên cứu của Phạm
Nhật Lệ, Trịnh Quang Tuyên (1997; 2000; 2001); Phùng Thị Vân và cs (2004 a, b, c);
Nguyễn Quế Côi và cs (1992, 2007a; 2007b) cho thấy:
Kết quả xác định nồng độ khí độc tại chuồng lợn công nghiệp: Nồng độ NH3: 0,94 mg/m3;
H2S: 0,38 mg/m3; CO: 6,7 mg/m3, NO2: 0,25 mg/m3; SO2: 0,45 mg/m3 so với TCVN 5938-
95; 5937-95 thì nồng độ này còn cao hơn mức cho phép từ 2 – 3 lần.
Kết quả xác định độ nhiễm khuẩn của không khí chuồng lợn công nghiệp cho thấy tổng số
VSV và nấm mốc ở không khí khu vực chuồng nuôi lợn nuôi công nghiệp cao hơn 5,7 lần so
với quy định của EU (1991). Nước thải chăn nuôi đã qua xử lý bằng hệ thống biogas cho thấy
không còn trứng giun sán nhưng hàm lượng E.coli còn ở mức độ cao (0,65x103).
Tuy vậy, việc nghiên cứu lựa chọn một số giải pháp khoa học công nghệ đồng bộ và phù hợp
là rất cần thiết. Trong khuôn khổ của đề tài cấp Bộ: “Nghiên cứu lựa chọn một số giải pháp
khoa học công nghệ phù hợp nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở một số vùng chăn nuôi