JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0031
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 2A, pp. 52-61
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn
THỰC TRẠNG TIẾP CẬN VÀ A NHẬP HỌC ĐƯỜNG
CỦA TRẺ EM NHIỄM HIV/AIDS TẠI NỘI
Nguyễn Hoài Anh
Khoa Công tác hội, Trường Đại học phạm Nội
Tóm tắt. Trẻ em nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn thành ph Nội đều đã được đảm bảo
quyền đi học các hình lớp học khác nhau dành cho trẻ HIV sống tại cộng đồng
tại các trung tâm bảo trợ tuỳ vào việc đã công khai tình trạng bệnh. Mức đ hoà nhập
của trẻ HIV vào trường học còn hạn chế so với nhóm trẻ không HIV ng như sự
khác biệt giữa nhóm trẻ HIV sống tại cộng đồng nhóm trẻ HIV sống tại các trung
tâm bảo trợ hội do sự thị, phân biệt đối x của nhà trường, bạn bè, cộng đồng.
T khóa: Trẻ em nhiễm HIV/AIDS, tiếp cận giáo dục, hoà nhập học đường, thị, phân
biệt đối xử.
1. Mở đầu
HIV/AIDS một đại dịch nguy hiểm nhất trong lịch sử loài người. Theo ước tính của Liên
hợp quốc, trung bình mỗi ngày thế giới thêm khoảng 7000 người nhiễm HIV. Tổng số người
nhiễm mới HIV/AIDS trên thế giới khoảng trên 2,3 triệu người. Việt Nam, tình hình y nhiễm
HIV nhiều diễn biến phức tạp, c nước hiện 206.000 người nhiễm HIV còn sống, trong đó
trên 52.700 bệnh nhân chuyển sang giai đoạn AIDS, đã n 53000 người tử vong do AIDS.
Số người được phát hiện nhiễm HIV mỗi năm hơn 10.000 người. Sự y nhiễm HIV cho phụ nữ
và trẻ em đang ngày một gia tăng (Cục Phòng chống HIV/AIDS, Bộ Y tế, 2014). Việt Nam chưa
một con số thống kê chính xác v số lượng trẻ em bị nhiễm HIV. Theo Bộ Lao động Thương
binh và hội (2010) số trẻ em Việt Nam bị nhiễm HIV được phát hiện hàng năm vào khoảng
400-700 trẻ độ tuổi từ 0-10 tuổi. Ước tính thực tế số lượng trẻ em nhiễm HIV Việt Nam vào
khoảng trên 4.405 trẻ, trong đó 2.553 em đang được điều trị ARV.
Trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS sống với gia đình của mình trong cộng đồng hoặc trong các
trung tâm bảo trợ hội do bệnh viện hoặc các gia đình không khả ng chăm sóc các em gửi
đến. Nhìn chung, trẻ em b nhiễm HIV/AIDS nguy bị mất gia đình, mất lai lịch và sự thừa
kế (Trần Thị Minh Đức, 2006). Nguồn đảm bảo cuộc sống của c em bị hạn chế do s thiếu thốn
v chế độ dinh dưỡng, an toàn trong chăm sóc, hỗ trợ y tế, giáo dục chăm sóc tinh thần cho trẻ.
Phần lớn trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS đều đã được đến trường học, tuy nhiên các em bị hạn chế
trong các hoạt động giao tiếp hội. Đặc biệt với các em trung tâm giáo dục lao động hội
phải sống ch li và đón nhận sự thị, phân biệt đối xử của hội.
Việt Nam nước đầu tiên Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước v
Quyền trẻ em. Việt Nam đã đạt được nhiều tiến b trong việc đưa tinh thần nội dung của Công
Ngày nhận bài: 3/1/2016. Ngày nhận đăng: 3/5/2016.
Liên hệ: Nguyễn Hoài Anh, e-mail: nguyenlehoaianh@gmail.com
52
Thực trạng tiếp cận hòa nhập học đường của trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Nội
ước vào chiến lược phát triển kinh tế- xã hội và luật pháp quốc gia. Hầu hết c văn bản luật ban
hành hay sửa đổi đều quan tâm thích đáng đến quyền lợi của tr em (UNICEF, 2010). Trong công
ước cũng như các văn bản luật đều nêu rõ: "Trẻ em quyền được học tập và bổn phận học hết
chương trình giáo dục phổ cập". Trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS cần được coi bình đẳng như những
trẻ em bình thường khác. Mọi hành động và việc làm như: trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS không được
đi học hoặc bị thị và phân biệt đối xử... đều khiến các em b loại trừ ra khỏi xã hội, điều y vi
phạm Công ước Quyền trẻ em, hệ thống luật pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trẻ
em bị nhiễm HIV/AIDS Việt Nam cần được trợ giúp để hòa nhập hội trong đó a nhập học
đường nhiệm vụ quan trọng đầu tiên chúng ta phải thực hiện.
Nội dung nghiên cứu v đối tượng trẻ em nhiễm HIV/AIDS nói riêng cũng như trẻ bị ảnh
hưởng bởi HIV/AIDS nói chung mới được đề cập rải rác trong những đề i liên quan đến người
lớn nhiễm HIV ít được nghiên cứu độc lập, nhất tại Việt Nam. Theo “Hướng dẫn tra cứu
nhanh cho chương trình nghiên cứu quốc gia tập hợp danh sách những ấn phẩm v HIV/AIDS xuất
bản trong giai đoạn 2005 2011”, trong tổng số 530 nghiên cứu chỉ 01 công trình nghiên cứu
độc lập v trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS (Bộ Y tế, 2012).
Trước sự tác động to lớn của đại dịch HIV/AIDS đến trẻ em, những nghiên cứu chung v
trẻ bị nh hưởng bởi HIV/AIDS nhiều hơn những nghiên cứu tập trung riêng vào nhóm trẻ nhiễm
HIV/AIDS và trong phần lớn những nghiên cứu đó, những vấn đề liên quan đến y tế, chăm sóc,
điều trị được c ý nhiều hơn cả. Trong bối cảnh hiện nay, trẻ em nhiễm HIV/AIDS ngày càng
sống lâu hơn nhờ những tiến bộ trong y học và sự hỗ trợ của thuốc ARV, các em đầy đủ quyền
và nhu cầu được sống, học tập, vui chơi giải trí như tất cả các trẻ em khác và giáo dục một nhu
cầu tất yếu để các em phát triển a nhập xã hội. Như bao trẻ em khác, trẻ em nhiễm HIV đã
bị thiệt thòi hơn khi mang trong mình bệnh tật nhưng các em lại bị thị và phân biệt đối xử tại
trường học, mất đi cơ hội học tập hòa nhập, ảnh hưởng tới sự phát triển v thể chất và trí tuệ, làm
các em bị tổn thương v tinh thần rất lớn cho thực tế này vi phạm Công ước Quyền trẻ em, Luật
Bảo v Chăm sóc tr em cũng như Luật Phòng Chống HIV/AIDS. Và thực trạng y đang
một vấn đề đáng báo động trong xã hội. Tuy nhiên những nghiên cứu v mảng giáo dục đối với
trẻ nhiễm HIV/AIDS vẫn còn khiêm tốn, chưa được quan tâm thích đáng, chưa cân đối với những
nội dung nghiên cứu chung v HIV/AIDS hiện nay. Đặc biệt hiện nay vẫn chưa một nghiên cứu
riêng nào đề cập đến vấn đề hoà nhập học đường của trẻ nhiễm HIV/AIDS.
Nghiên cứu “Thực trạng tiếp cận và hòa nhập học đường của trẻ em nhiễm HIV/AIDS
được tiến hành từ tháng 3 năm 2012 đến tháng 10 năm 2015, đối tượng điều tra bao gồm hai nhóm
đối tượng: trẻ nhiễm HIV (tr em nhiễm HIV đang sinh sống và học tập Trung tâm GDCBLĐXH
số 2, trẻ HIV cộng đồng); trẻ em không bị nhiễm HIV đang sinh sống và học tập ngoài cộng
đồng trên địa bàn thành phố Nội. Mẫu điều tra được thực hiện theo phương pháp chọn mẫu
ngẫu nhiên hệ thống. Tổng số phiếu điều tra là: 600 phiếu, số phiếu được thu v hợp lệ, đã x
530 phiếu đạt 90%.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Đặc điểm của khách thể nghiên cứu
Kết quả cho thấy: khách thể nghiên cứu đặc điểm tuổi, giới tính, trình độ học vấn, tình
trạng nhiễm HIV như sau:
- Theo nhóm tuổi: trẻ dưới 6 tuổi (10%); từ 6 đến 12 tuổi: 38%; từ 12 đến 15 tuổi: 46%; trẻ
trên 16 tuổi: 6%.
- Theo giới tính: trẻ giới nh nam 48%; trẻ giới tính nữ là: 52%.
53
Nguyễn Hoài Anh
- Theo trình độ học vấn: trẻ trình độ học vấn dưới tiểu học 11%; trẻ trình độ học
vấn tiểu học là:38%; trẻ trình độ THCS 46%; trẻ trình độ phổ thông trung học 5%.
- Theo tình trạng HIV: trẻ HIV 50%; trẻ không HIV 50%.
2.2. Thực trạng tiếp cận với trường học của trẻ nhiễm HIV/AIDS
- Thực trạng tiếp cận với trường học và độ tuổi đi học
Kết quả khảo sát bảng cho thấy, đại đa số trẻ em bị nhiễm HIV đều đã được đi học, chỉ
rất ít khoảng 2% trẻ em nhiễm HIV không được đi học. Tuy nhiên, tuyệt đại đa số (99%) trẻ em bị
nhiễm HIV được hỏi đều đi học không đúng độ tuổi.
Khi so sánh tương quan giữa trẻ em bị nhiễm HIV và trẻ em bình thường, kết qu cho thấy:
sự khác biệt lớn giữa việc đúng hay không độ tuổi đi học giữa trẻ bị nhiễm HIV và trẻ em bình
thường không bị nhiễm HIV. 100% trẻ em bình thường đều đi học đúng độ tuổi, trong khi đó 99%
trẻ em nhiễm HIV đều đi học không đúng độ tuổi. "Hầu hết các cháu b nhiễm HIV Trung tâm
đều được đi học nhưng các cháu từ rất nhiều nơi chuyển đến, lại có những độ tuổi khác nhau cho
nên khi các cháu được chuyển đến trung tâm mới hội để đi học, cháu 9-10 tuổi chuyển
đến trung tâm phải học lại từ lớp 1" (PVS, N cán bộ trung tâm số 02).
Tại trung tâm Giáo dục chữa bệnh lao động hội (GDCBLĐXH) số 02 trẻ em bị nhiễm
HIV chỉ được đi học từ năm 2010 cho nên đây cũng nguyên nhân khiến các lớp học của trẻ em
bị nhiễm HIV không đồng đều v độ tuổi. Trẻ cấp 1 ch được đến trường vào giờ chào cờ; đến lớp
5 thì được ra học 1 buổi/tuần, cấp 2 mới được ra học lớp riêng, cấp 3 mới được đi học chung cùng
các bạn.
- Đặc điểm lớp học của trẻ nhiễm HIV
Theo kết quả khảo sát, 3 loại hình lớp học trẻ có HIV tham gia vào. Thứ nhất, đó
các lớp học chung cho tất cả các học sinh cùng độ tuổi đi học tại trường học của xã/ phường
với những trường hợp trẻ cộng đồng nhưng nhà trường không biết tình trạng HIV của trẻ với
chiếm 51% số học sinh HIV. Thứ hai, tại các lớp học riêng dành cho học sinh HIV tại Trung
tâm GDCBLĐXH 02 giành cho trẻ khối tiểu học. Thứ ba, hình lớp học dành riêng cho học
sinh HIV tại trường học THCS Yên Bài B.
- sở vật chất của lớp học
Kết quả cho thy: đại đa số trẻ em bị nhiễm HIV (78%) được hỏi đều cho rằng các trường
học hiện nay đều thiếu thốn v sở vật chất và không đáp ứng được nhu cầu học tập của trẻ em;
chỉ 22% số trẻ em cho rằng c trường học đầy đủ sở vật chất (22%). Đại đa số (98%) trẻ em
bị nhiễm HIV được hỏi đều cho rằng lớp học không được trang bị tủ thuốc y tế và tình trạng y
tương tự với tr không HIV. Bởi lẽ phần lớn các trường phòng y tế nên không tủ thuốc
y tế riêng trong lớp. Tuy nhiên, đối với trẻ HIV, việc tủ thuốc y tế ngay tại lớp học rất cần
thiết đối với các em. trong khi đó đối với 89% lớp học của trẻ em bình thường đều tủ thuốc y tế.
"Các trường học còn nghèo lắm, thiếu thốn đủ đường đặc biệt các lớp học trung tâm thì không
đáp ứng được nhu cầu học tập của các em" PVS. Nữ cán bộ, trung tâm số 02. Như vậy, sở vật
chất trường học dành cho trẻ em bị nhiễm HIV thường rất thiếu thốn, nghèo nàn không đáp ứng
được nhu cầu học tập của các em.
2.3. Thực trạng hoà nhập học đường của trẻ em nhiễm HIV/AIDS
2.3.1. Tâm trạng, thái độ khi đi học của trẻ em bị nhiễm HIV
Tâm trạng của trẻ em b nhiễm HIV khi đi học thường lo lắng, sợ sệt, không vui vẻ. Kết
quả cho thấy đa số trẻ em nhiễm HIV các tâm trạng lo lắng, sợ sệt và buồn chán, chỉ một số ít
54
Thực trạng tiếp cận hòa nhập học đường của trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Nội
khoảng 20% tr em bị nhiễm HIV m trạng vui vẻ, 14% số trẻ em bị nhiễm HIV cảm thấy bình
thường khi đi học.
sự khác biệt lớn giữa trẻ em bị nhiễm HIV và trẻ em bình thường ngoài cộng đồng v
tâm trạng vui vẻ khi đi học. Trẻ em bình thường thấy vui v khi đi học hơn trẻ em bị nhiễm HIV.
Bảng 1. So sánh tương quan giữa trẻ em nhiễm HIV
và trẻ em nh thường với tâm trạng, thái độ khi đi học
Tâm trạng Trẻ HIV Trẻ em không HIV
1. Vui v 20% 44%
2. Bình thường 14% 21%
3. Lo lắng 35% 11%
4. Sợ sệt 21% 10%
5. Buồn, chán 5% 10%
6. Khó trả lời 5% 4%
So nh tương quan theo trình độ học vấn với tâm trạng vui v khi đi học của trẻ em b
nhiễm HIV cho thấy: trẻ em bị nhiễm HIV đang học phổ thông trung học t lệ ít vui v nhất khi
đi học, trẻ em bị nhiễm HIV học dưới tiểu học và tiểu học tỉ lệ vui v khi đi học cao hơn so
với những nhóm n lại. "Các con đây nhỏ thì chưa biết v tình trạng bệnh của mình thì thích
đi học lắm nhưng dần dần các con biết được mình bệnh nên chán nản không muốn đi học, đặc
biệt các con khi đến tuổi dy thì, tâm sinh diễn biến phức tạp lại cảm thấy lo âu, buồn chán hơn
nữa" (PVS.Nữ cán bộ trung tâm số 02). "Con biết mình bị bệnh nên không vui v đi học, học cũng
không cứu được con, con cảm giác sợ lắm, con không thích đi học" (PVS. Trẻ bị nhiễm HIV, 16
tuổi). "Con thấy đi học vui nhiều trò chơi hơn n lại nhiều người nữa con thích được đi học,
chứ nhà buồn lắm, đi học vui được chơi nhiều t chơi hơn" (PVS trẻ b nhiễm HIV, 10 tuổi).
2.3.2. Mức độ tham gia các hoạt động tập thể trường học
Kết quả khảo sát cho thấy: trẻ em bị nhiễm HIV phần lớn không tham gia vào các hoạt động
tập thể. 89% các em không tham gia vào các cuộc thi; 82% các em không đi ngoại; 67% các
em không tham gia chơi thể thao; 52% các em không tham gia các hoạt động văn nghệ; 43% các
em không tham gia chơi các trò chơi tập thể. Chào cờ hoạt động được nhiều trẻ bị nhiễm HIV
tham gia nhiều nhất.
So nh tương quan giữa trẻ em b nhiễm HIV và trẻ em bình thường với mức độ thường
xuyên tham gia c hoạt động tập thể cho thấy: sự khác biệt rất lớn giữa trẻ em bị nhiễm HIV và
trẻ em bình thường với mức độ thường xuyên tham gia các hoạt động tập thể trường học. Tỉ lệ %
thường xuyên tham gia các hoạt động tập thể trường học cao hơn đáng k trẻ em bình thường.
- So sánh tương quan theo nhóm tuổi với mức độ thường xuyên tham gia các hoạt động tập
thể trường học cho thấy: trẻ em bị nhiễm HIV nhóm tuổi 6 đến 12 tuổi thường xuyên tham gia
các hoạt động “Chào cờ”; “trò chơi tập thể”; “văn nghệ”; “thể thao” cao hơn so với các nhóm tuổi
còn lại.
Kết qu phỏng vấn sâu cho thy: “Trẻ em bị nhiễm HIV thường ít khi tham gia các hoạt
động tập thể trường, các em thường ngại hoặc do các bạn không chơi cùng nên ít, duy hoạt
động chào cờ c em tham gia nhiều hơn cả” (PVS. Nữ, cán bộ, Trung tâm số 02). “Chúng em
thường rất ngại khi tham gia các hoạt động tập thể cùng các bạn, các bạn xa nh, các bạn sợ y
nhiễm HIV cho nên chúng em ít tham gia lắm” (PVS. Trẻ em bị nhiễm HIV).
55
Nguyễn Hoài Anh
Bảng 2. So sánh tương quan giữa tr em bị nhiễm HIV
và tr em bình thường với mức độ thường xuyên
tham gia c hoạt động tập thể trường học
Hoạt động Trẻ em bị nhiễm HIV Trẻ em bình thường
1. Chào cờ 44% 56%
2. T chơi tập thể 32% 67%
3. Văn nghệ 24% 68%
4. Thể thao 21% 72%
5. Đi ngoại 5% 70%
6. Các cuộc thi 5% 67%
2.3.3. Mối quan hệ của trẻ em bị nhiễm HIV với bạn trường học
Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan h của trẻ em bị nhiễm HIV với bạn trường học
61% tốt; 20% bình thường và 19% không tốt.
Khi hỏi giữa bạn HIV và không HIV nhớm bạn nào nhiều hơn, kết quả cho thấy: đại
đa số (71%) trẻ em bị nhiễm HIV trả lời “Bạn HIV nhiều hơn”; 20% “Bạn không HIV nhiều
hơn”; 9% “Hai nhóm bạn có và không HIV như nhau”
Khi hỏi các em bạn thân không? Đại đa s các trẻ bị nhiễm HIV đều tra lời có. Tuy
nhiên, số lượng bạn thân chủ yếu 2 bạn sự khác nhau trong nhóm học sinh HIV tại
Trung tâm và tr HIV sống trong cộng đồng, theo đó với trẻ HIV sống tại trung tâm t bạn
thân đều là những tr HIV cùng trung tâm còn đối với trẻ có HIV sống tại cộng đồng thì có
bạn thân là tr không HIV khi trẻ không biết tình trạng bệnh của mình gia đình dấu không
cho trẻ và nhà trường biết. Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy: “Tôi thấy các con đây đều bạn
và mối quan hệ tốt với các bạn, các con thường hay chơi và tâm sự với nhau, mặc không
phải ruột thịt nhưng nhiều con yêu quý nhau lắm. Tuy nhiên, phần lớn bạn của các con đều
những con bị nhiễm HIV, các con không điều kiện chơi với các bạn bình thường khác bởi sự
ngăn cấm của cha, mẹ c bạn” PVS, N cán bộ trung tâm số 02. “Bạn của con chủ yếu các
bạn trung tâm thôi, con không bạn bên ngoài, con cũng mấy người bạn thân, chúng con
thường hay chơi với nhau” (PVS tr em bị nhiễm HIV tại Trung tâm số 02). “Khi học trung tâm
thì em không thấy sự phân biệt đối xử với các bạn các bạn đều những trẻ bị nhiễm HIV.
Tuy nhiên, khi học lớp riêng thì em cảm thấy bị phân biệt đối xử từ các bạn trong lớp. Em rất
buồn điều y” (PVS trẻ em bị nhiễm HIV).
Tuy nhiên, theo phỏng vấn sâu với tr HIV đang học tại trường THCS Yên Bài B, 02
em đã chơi bạn thân trẻ không HIV học cùng khối lớp trường. Đây tín hiệu đáng
mừng cho thấy các em bắt đầu hoà nhập và sự chia s của bạn tại trường học. “Các con khối
cấp 2 đã bắt đầu bạn những bạn không H; khi quan sát thấy nhiều con đã cùng chơi với
nhau; nhiều bạn n sang lớp riêng của trẻ H chơi; Các con có những khả năng, năng khiếu tốt
như hát, múa, v thì hội tham gia các cuộc thi của trường nên các con cũng dễ hoà nhập hơn
với các bạn khác” (PVS nữ cán bộ tại trung tâm số 02).
Khi đi học, những vấn đề hay gặp phải trong mối quan h bạn của trẻ em bị nhiễm HIV
xếp theo th tự từ cao xuống thấp là: Rất muốn tham gia với bạn nhưng lo sợ không được bạn
tiếp nhận (84%); Mặc cảm bản thân với bạn (78%); Không được bạn tôn trọng (40%); Bị
xa lánh, hắt hủi (39%); Hay bị bạn chế nhạo (38%). Các trẻ bị nhiễm HIV trung tâm thường
gặp phải những vấn đề trong quan hệ bạn bè nhiều hơn so với các bạn cùng tình trạng bệnh sống
cộng đồng n tự mặc cảm với bản thân bệnh nh nên các con ít chơi với các bạn, nhiều con
56