1
6. THUẾ BỔ SUNG TỐI THIỂU NỘI ĐỊA ĐẠT CHUẨN TRƯỜNG HỢP KHI
TRIỂN KHAI VẬN DỤNG VÀO VIỆT NAM
QUALIFIED DOMESTIC MINIMUM TOP-UP TAX- THE CASE FOR
IMPLEMENTATION IN VIETNAM
TS. Nguyễn Bích Thảo Uyên
Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Ngày 29/11/2023, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 107/2023/QH15 về việc áp dụng
Thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn
cầu. Theo đó, Việt Nam sẽ áp dụng hai quy định là: Quy định Thuế TNDN bổ sung tối thiểu
nội địa đạt chuẩn (QDMTT) Quy định về tổng hợp thu nhập chịu thuế tối thiểu (IIR).
Trong bài viết này sẽ tìm hiểu về thuế bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn đánh giá tác
động của thuế này khi triển khai vận dụng vào Việt Nam.
Từ khóa: Thuế Thu nhập doanh nghiệp, Thuế Tối thiểu toàn cầu, Thuế Bổ sung tối thiểu nội
địa đạt chuẩn.
Abstract
On November 29, 2023, the National Assembly passed Resolution No. 107/2023/QH15 on
the application of additional corporate income tax according to regulations to prevent
global tax base erosion. Accordingly, Vietnam will apply two regulations: Regulations on
Qualified domestic minimum top-up tax (QDMTT) and Regulations on Income Inclusion
Rule (IIR). In this article, we will learn about Qualified Domestic Minimum Top-up Tax and
evaluate the impact of this tax when applied to Vietnam.
Keywords: corporate income tax, global minimum tax, qualified domestic minimum Top-up
Tax.
JEL Classifications: H20,H26, H29.
1. Đặt vấn đề
Quy tắc Thuế Tối thiểu toàn cầu Trụ cột 2 trong giải pháp hai trụ cột trong chương
trình chống xói mòn sở thuế chuyển dịch lợi nhuận do Tổ chức Hợp tác Phát triển
kinh tế - Organization for Economic Cooperation and Development (OECD) khởi xướng.
Đến nay, đã hơn 140 quốc gia đồng thuận. Theo quy tắc này, các tập đoàn đa quốc gia
(MNEs) có doanh thu từ 750 triệu EURO trở lên sẽ bị áp dụng mức thuế tối thiểu 15%. Như
2
vậy, khi các công ty này đi đầu nước ngoài nhưng nộp thuế thu nhập tại nước đầu
dưới mức 15% sẽ phải nộp phần chênh lệch tại nước cư trú nơi công ty có trụ sở chính. Theo
hướng dẫn của OECD về Quy định Chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu, Thuế Tối thiểu toàn
cầu bản chất Thuế TNDN bổ sung các nước cần quy định trong hệ thống pháp luật
của mình cho phù hợp.
Trong quá trình các quốc gia xem xét thực hiện quy tắc mẫu của OECD, thể thấy
hầu hết các quốc gia có ưu đãi thuế cho các tập đoàn đa quốc gia sẽ cần ưu tiên áp dụng thuế
bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn - Qualified Domestic Minimum Top-up Tax (QDMTT).
Việc ban hành quy định QDMTT trong nội luật sẽ giúp ngăn ngừa tổn thất nguồn thu từ
thuế, khi các quốc gia khác ban hành quy định IIR để tăng mức thuế suất đối với các tập
đoàn đa quốc gia lên tối thiểu 15%. Ngoài ra, quy định QDMTT đạt chuẩn thể được áp
dụng như một chế giảm trừ trách nhiệm theo Quy tắc mẫu của OECD (Quy tắc GloBE).
Từ đó, giúp các tập đoàn đa quốc gia tránh gánh nặng về thủ tục hành chính gánh nặng
tuân thủ liên quan đến Quy tắc GloBE. Đứng trước tình hình đó, Việt Nam đã ban hành quy
định về QDMTT tại Điều 4 Nghị quyết 107/2023/QH15. Quy định này phù hợp với Quy tắc
GloBE và được áp dụng từ năm tài chính 2024 trở đi.
2. Giới thiệu về thuế tối thiểu bổ sung nội địa đạt chuẩn
Thuế bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn được định nghĩa theo Quy tắc mẫu OECD
một loại thuế bổ sung tối thiểu được quy định trong nội luật: xác định lợi nhuận thặng
của các công ty thành viên nằm tại quốc gia đó (lợi nhuận thặng dư nội địa) theo cách tương
đương với các Quy tắc GloBE; vận hành để tăng nghĩa vụ thuế nội địa đối với lợi nhuận
thặng dư nội địa lên mức thuế suất tối thiểu cho quốc gia đó các công ty thành viên trong
một năm tài chính; và được triển khai, quản lý theo cách thống nhất với kết quả của các Quy
tắc GloBE, miễn quốc gia đó không cung cấp bất kỳ lợi ích nào liên quan đến các quy tắc
đó.
Như vậy, QDMTT thể hiểu đơn giản một chế nội luật hoá, trong đó việc tính
toán lợi nhuận thặng dư và thuế tối thiểu được áp dụng tương đương với các quy định tại Trụ
cột 2 theo hướng dẫn của OECD để giúp các nước nhập khẩu vốn giành quyền thu phần thuế
bổ sung trước các quốc gia khác.
Để được coi đạt chuẩn theo Quy tắc GloBE, thuế bổ sung QDMTT do các quốc gia
quy định cần đáp ứng một số nguyên tắc chung sau đây: quy định về QDMTT phải tương
đương về mặt chức năng với Quy tắc GloBE, theo nghĩa là thiết kế của quy định về QDMTT
phải phù hợp với thiết kế của Quy tắc GloBE quy định QDMTT phải mang lại kết quả
phù hợp với Quy tắc GloBE; có thể cho phép một số biến thể của QDMTT trong trường hợp
3
quy định về QDMTT tạo ra một cách hệ thống nghĩa vụ thuế bổ sung cao hơn không
tạo ra một cách hệ thống nghĩa vụ thuế thấp hơn; các quốc gia thực hiện QDMTT
không được cung cấp bất kỳ tài sản đảm bảo hoặc lợi ích nào khác có liên quan đến QDMTT
cho các tập đoàn đa quốc gia bị đánh thuế bổ sung QDMTT.
Điều này nghĩa là, QDMTT sẽ thay đổi thứ tự các khu vực tài phán được quyền
tính thuế bổ sung khi thuế suất thực tế của một đối tượng bị điều chỉnh bởi Trụ cột 2, giảm
xuống dưới mức tối thiểu toàn cầu 15%. Theo đó, quốc gia thực hiện QDMTT sẽ được ưu
tiên đầu tiên để thu thuế bổ sung từ các đối tượng nằm trong khu vực tài phán của mình. Nếu
không QDMTT, nguồn thu đó sẽ được chuyển đến một quốc gia khác như được xác định
theo thứ tự quy tắc Trụ cột 2. Đối với các DN, tác dụng của QDMTT là định hướng nơi phải
trả khoản thuế bổ sung - mặc không thay đổi về số tiền thuế bổ sung phải nộp. Như vậy,
nếu áp dụng QDMTT, quốc gia đó sẽ giữ được quyền đánh thuế các nhà đầu cũng xác
định được nghĩa vụ phải đóng thuế bổ sung tại quốc gia đang thực hiện hoạt động đầu
kinh doanh thay vì chuyển đến một quốc gia khác để nộp khoản thuế bổ sung này.
Thuế Tối thiểu toàn cầu không phải điều ước quốc tế, không phải cam kết quốc tế
không bắt buộc các quốc gia phải áp dụng. Tuy nhiên, nếu Việt Nam không áp dụng thì
vẫn phải chấp nhận việc các quốc gia khác áp dụng Thuế Tối thiểu toàn cầu, quyền thu
thuế bổ sung đối với các DN tại Việt Nam (nếu thuộc đối tượng áp dụng) được hưởng
mức thuế suất thực tế tại Việt Nam thấp hơn mức tối thiểu toàn cầu 15%, đặc biệt là các DN
vốn đầu nước ngoài. Thuế Tối thiểu toàn cầu được áp dụng trên phạm vi toàn thế giới
từ năm 2024. Do đó, các quốc gia cũng đang thúc đẩy việc áp dụng Thuế Tối thiểu toàn cầu
bền vững để thể hài hòa với môi trường đầu hệ thống thuế/pháp hiện tại,
không ảnh hưởng tiêu cực làm giảm tăng trưởng phát triển kinh tế năng lực cạnh tranh
quốc gia. Việc trước mắt, ưu tiên áp dụng chế QDMTT để giành quyền thu phần thuế bổ
sung trước các quốc gia khác được cho ưu tiên hàng đầu, tính cấp bách về mặt thời
gian.
3. Định hướng áp dụng QDMTT trên thế giới
Trong sân chơi toàn cầu, mỗi quốc gia đều có sự tự chủ nhưng đều phải rất chủ động để
bảo vệ quyền lợi của chính mình,không có cách nào để đứng ngoài cuộc. QDMTT có thể
hiểu đơn giản một chế nội luật hoá, trong đó việc tính toán lợi nhuận thặng thuế
tối thiểu được áp dụng tương đương với các quy định tại Trụ cột 2 theo hướng dẫn của
OECD. QDMTT cần tính toán lợi nhuận nghĩa vụ thuế bổ sung theo cách tương tự như
các quy tắc của Trụ cột 2. Để đảm bảo một sân chơi bình đẳng, QDMTT phải được triển
khai quản theo cách phù hợp với quy tắc mẫu không đi kèm với các lợi ích
4
khác. OECD sẽ phát triển các quy trình để giúp các chính phủ quan thuế đánh giá liệu
mức thuế tối thiểu được đề xuất có cấu thành một QDMTT hay không. Sau khi thuế tối thiểu
trong nước đáp ứng các điều kiện của QDMTT, bất kỳ khoản thuế theo QDMTT nào do một
công ty chi trả sẽ được khấu trừ toàn bộ với bất kỳ nghĩa vụ thuế nào theo các quy tắc của
trụ cột 2. Điều này nghĩa là, QDMTT sẽ thay đổi thứ tự các khu vực tài phán được
quyền tính thuế bổ sung khi thuế suất thực tế của một đối tượng bị điều chỉnh bởi Trụ cột 2
giảm xuống dưới mức tối thiểu toàn cầu 15%. Theo đó, quốc gia thực hiện QDMTT sẽ được
ưu tiên đầu tiên để thu thuế bổ sung từ các đối tượng nằm trong khu vực tài phán của
mình. Nếu không QDMTT, nguồn thu đó sẽ được chuyển đến một quốc gia khác như
được xác định theo thứ tự quy tắc Trụ cột 2. Đối với các DN, tác dụng của QDMTT định
hướng nơi phải trả khoản thuế bổ sung, mặc dù không thay đổi về số tiền thuế bổ sung phải
nộp.
Do các đặc điểm lợi thế nêu trên, một số quốc gia đẩy nhanh việc đưa ra các quy định
để thực hiện chế độ QDMTT. Theo chỉ thị của EU, sẽ thực hiện các đề xuất của trụ cột 2 trên
toàn EU, cho phép các quốc gia thành viên EU áp đặt các mức thuế tối thiểu trong nước:
Vương Quốc Anh áp dụng IIR QDMTT áp dụng cho kỳ kế toán từ ngày 31/12/2023;
Thụy Sỹ Sigapore tuyên bố áp dụng QDMTT từ ngày 01/01/2024; Hoa Kỳ dự kiến sẽ áp
dụng chế tương tự với QDMTT từ năm 2023, để ngăn chặn việc các quốc gia khác giành
quyền đánh thuế đối với các DN Hoa Kỳ; đối với các quốc gia nhận đầu tư trong khu vực
ASEAN điều kiện tương đồng như Việt Nam (Malaysia, Indonesia, Thái Lan) đều kế
hoạch triển khai thực hiện Thuế Tối thiểu toàn cầu nói chung QDMTT nói riêng.
Malaysia thực hiện Thuế Tối thiểu toàn cầu 15% từ năm 2024 theo khuyến cáo từ OECD sẽ
tiến nh rà soát lại các chế độ ưu đãi thuế, trong đó các công ty được hưởng thuế suất
0% hoặc thuế suất dưới 15% để tránh chuyển thuế về các quốc gia nơi đặt trụ sở của công ty
mẹ tối cao, Malaysia sẽ áp dụng quy định IIR QDMTT vào năm 2025. Indonesia một
trong số các quốc gia nhất trí sẽ áp dụng Thuế Tối thiểu toàn cầu từ năm 2024, đến nay
Indonesia đã có 02 thay đổi về luật pháp nhằm tạo đà cho áp dụng Thuế Tối thiểu toàn cầu là
ban hành Luật hài hòa hóa các quy định về thuế cho phép Chính phủ quyền thỏa thuận
thuế với các quốc gia đối tác, cả song phương - đa phương Nghị định chính phủ để thực
hiện các sửa đổi Luật Thuế TNDN. Chính phủ Thái Lan đã phê duyệt về nguyên tắc việc
thực hiện Thuế Tối thiểu toàn cầu ở Thái Lan giao cho Cục thuế Thái Lan Quỹ Nâng
cao năng lực cạnh tranh, giao cho các đơn vị triển khai thực hiện. Trong đó, Cục thuế Thái
Lan sẽ nhiệm vụ soạn thảo Luật Thu Thuế bổ sung trên khuôn khổ Trụ cột 2 của Tuyên
bố OECD, dự thảo đầu tiên sẽ được xem xét vào năm 2023 và có hiệu lực vào năm 2025.
5
Như vậy, các quốc gia trên thế giới đều đã các động thái thay đổi chính sách thuế để
giành quyền thu phần thuế bổ sung trước các quốc gia khác, đồng thời đưa ra các giải pháp
duy trì ưu đãi đối với các dự án đang hoạt động và “giữ chân” các nhà đầu tư nước ngoài.
4. Tác động của QDMTT khi áp dụng ở Việt Nam
Trước bối cảnh các quốc gia có vốn đầu tư lớn vào Việt Nam đã áp dụng Thuế Tối thiểu
toàn cầu để giành quyền thu thuế và các quốc gia nhận vốn đầu tư tương tự như Việt Nam đã
đang nghiên cứu chính sách ứng phó, chính sách hỗ trợ nhà đầu trước tác động của
Thuế Tối thiểu toàn cầu, để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của mình. Việt Nam cần
khẳng định áp dụng Thuế Tối thiểu toàn cầu tại Việt Nam, thông qua việc ban hành văn bản
quy định việc áp dụng Thuế Tối thiểu toàn cầu. Ngày 29/11/2023, Quốc hội đã thông qua
Nghị quyết số 107/2023/QH15 về việc áp dụng Thuế TNDN, bổ sung theo quy định chống
xói mòn sở thuế toàn cầu. Theo đó, Việt Nam sẽ áp dụng 02 quy định là: Quy định Thuế
TNDN bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn (QDMTT) và Quy định về tổng hợp thu nhập chịu
thuế tối thiểu (IIR), chưa áp dụng Quy định lợi nhuận chịu thuế dưới mức tối thiểu (UTPR)
Quy định thuế khấu trừ tại nguồn tối thiểu (STTR). Nghị quyết hiệu lực từ ngày
01/01/2024, áp dụng từ năm tài chính 2024. Như vậy, việc áp Thuế Tối thiểu toàn cầu nói
chung và việc thực hiện Quy định QDMTT sẽ có nhiều tác động đến Việt Nam.
Tác động về kinh tế, xã hội
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch Đầu , tính đến nay hiện 144 quốc gia vùng
lãnh thổ dự án đầu còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu Hàn Quốc, với
tổng vốn đăng gần 85,87 tỷ USD (chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư); Singapore đứng thứ
hai với gần 74,52 tỷ USD (chiếm 15,9% tổng vốn đầu tư); tiếp theo lần lượt là Nhật Bản,
Đài Loan và Hồng Kông. Lũy kế đến 20/12/2023, các đối tác đầu tư nước ngoài lớn nhất của
Việt Nam chủ yếu đến từ khu vực Đông Á. Cụ thể, trong nhiều năm qua Hàn Quốc, Nhật
Bản Singapore luôn dẫn đầu danh sách các nguồn đầu nước ngoài vào Việt Nam. Các
chính sách ưu đãi về Thuế TNDN trong thu hút đầu của Việt Nam được đánh giá hấp
dẫn so với các nước trong khu vực. Nhờ chính sách ưu đãi thuế cạnh tranh cùng với các
thế mạnh, như tình hình kinh tế chính trị ổn định, nguồn lao động dồi dào,… dòng vốn đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam liên tục tăng qua các năm.
Năm 2020, Việt Nam lần đầu tiên vào nhóm 20 nước thu hút FDI hàng đầu thế giới,
trong khi đầu nước ngoài trên toàn cầu xu hướng giảm. Đến năm 2021, vốn FDI vào
Việt Nam tiếp tục duy trì sự ổn định và vượt mốc 31 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm
2020.
Trong năm 2022, Việt Nam cũng đã thu hút gần 30 tỷ USD, giảm so với cùng kỳ