
Thuốc Trị Cao Huyết Áp Làm Tăng
Mức Đường Trong Máu
Báo y khoa Arch Intern Med số ngày 13.11.06 có đăng một bài phân
tích từ nghiên cứu ALLHAT (Antihypertensive and Lipid Lowering
Treatment to Prevent Heart Attact Trial) tạm dịch là nghiên cứu dùng thuốc
trị cao huyết áp và hạ lipid để ngừa nhồi máu cơ tim, cho thấy
chlorthalidone, amlodipine và lisinopril làm tăng mức glucose thử khi bụng
đói.
Nghiên cứu ALLHAT công bố lần đầu tiên năm 2002 với kết luận
trên vấn đề phòng ngừa tai biến tim mạch các nhóm thuốc đắt tiền như thuốc
chẹn kênh calcium hay thuốc chống men chuyển không hơn gì thuốc lợi tiểu
thiazide. Do nghiên cứu này, bảng hướng dẫn điều trị cao huyết áp JNC VII
ra đời.
Bảng phân tích lần này là một phân tích hồi cứu của ALLHAT với các
đặc điểm sau:

bệnh nhân tham dự nghiên cứu phải hội đủ tiêu chuẩn ít nhất 55 tuổi
và hoặc huyết áp ≥ 140/90 mm Hg hoặc đang dùng thuốc trị cao huyết áp ít
hơn 3 món. Bệnh nhân phải có ít nhất 1 yếu tố nguy cơ bệnh tim động mạch
vành và mức glucose căn bản < 125 mg/dl.
Người tham dự được phân phối ngẫu nhiên điều trị bằng 1 trong 3
món thuốc chlorthalidone, amlodipine và lisinopril để giảm huyết áp <
140/90 mm Hg.
Glucose huyết thanh được đo mức căn bản và năm 2,4 và 6. Kết quả
chính của nghiên cứu là sự liên hệ giữa thuốc trị cao huyết áp và mức
glucose huyết thanh trong thời gian theo dõi, và số bệnh sinh bệnh đái tháo
đường (xác định bằng mức glucose huyết thanh > 125 mg/dl)
18 411 bệnh nhân trong nghiên cứu ALLHAT không có bệnh đái tháo
đường ở mức căn bản, và 53.2% những người này được theo dõi mức
glucose bụng đói trong những lần khám trong khi theo dõi. Tuổi trung bình
những người tham dự là 66 tuổi, mức glucose huyết thanh bụng đói trung
bình là 93 mg/dl.

Thời gian theo dõi trung bình là 4.9 năm. Số người dùng thuốc ở năm
thứ tư là 76.3%, 84.7% và 83.2% các thuốc lisinopril, amlodipine và
chlorthalidone theo thứ tự.
mức glucose tăng cao ở tất cả các nhóm điều trị theo thời gian. Trong
2 năm đầu, mức tăng glucose huyết thanh trung bình là 8.5, 5.5 và 3.5 mg/dl
ở các nhóm chlorthalidone, amlodipine và lisinopril theo thứ tự. Khác biệt
giữa chlorthalidone so với hai thuốc trị cao huyết áp khác trong kết quả sau
cùng là đáng kể và tương đối bền vững ở năm thứ tư.
So với nhóm dùng chlorthalidone, tỷ số khác biệt (odds ratio) sinh
bệnh đái tháo đường là 0.55 và 0.73 ở nhóm lisinopril và amlodipine theo
thứ tự.
Mặc dầu tăng glucose huyết thanh và nguy cơ bệnh đái tháo đường
gắn liền với điều trị bằng chlorthalidone, những người có kết quả này không
tăng đáng kể nguy cơ bệnh tim động mạch vành hay tử suất so với những
người dùng chlorthalidone và mức glucose huyết thanh ổn định trong suốt
tời gian nghiên cứu.

Ngược lại, sinh bệnh đái tháo đường tăng nguy cơ bệnh tim động
mạch vành và suy tim ở nhóm dùng lisinopril. Nguy cơ bệnh tim động mạch
vành tăng ở những người sinh bệnh đái tháo đường.
Tóm tắt:
1/ Thuốc lợi tiểu thiazide liều cao có thể sinh chết đột ngột trong
nhóm bệnh nhân cao huyết áp và điện tâm đồ bất thường, nhưng có thể giảm
một cách an toàn huyêt áp và khối tâm thất trái ở liều thấp cho những bệnh
nhân cao huyết áp.
2/ Theo phân tích này, chlorthalidone liên quan đến tăng cao đáng kể
mức glucose huyết thanh và số bệnh sinh bệnh đái tháo đường hơn
amlodipin và lisinopril. Tuy nhiên, số người sinh bệnh đái tháo đường uống
chlorthalidone không tăng nguy cơ bệnh tim động mạch vành.
Bình luận:
Theo ý kiến một số chuyên gia:
1/ ưu điểm của nghiên cứu này là dân số lớn và thời gian theo dõi lâu
dài, giúp phân tích thống kê phát hiện được sự liên quan và khác biệt giữa
các thuốc sử dụng.

2/ Khuyết điểm của nghiên cưú là thiết kế hồi cứu, và phần theo dõi
không đủ để thấy được phản ứng nghịch tăng glucose huyết thanh sinh ra
bởi thiazide.
3/ Một nửa người tham dự không đo được glucose huyết thanh vì khi
tái khám họ không nhịn đói. Hơn nữa, khi thực hiện nghiên cứu ALLHAT
không nghĩ đến việc theo dõi bệnh đái tháo đường, nên không đo
hemoglobin A1c, nên không rõ mức đường nền ( basal level) là bao nhiêu.
Nghiên cứu này được hổ trợ bởi viện nghiên cứu quốc gia Tim phổi
máu Hoa-kỳ và tài trợ bởi nhiều hãng bào chế tại Hoa-kỳ.
Dược Sĩ Lê Văn Nhân

