TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN MÃ NGÀNH: 304
TÌM HIỂU MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP TRONG QUÁ TRÌNH ƯƠNG NUÔI TÔM SÚ (Penaeus monodon) Ở CẦN THƠ VÀ SÓC TRĂNG
Sinh viên thực hiện
LÊ TUẤN ANH
MSSV: 0753040004
LỚP: NTTS K2
Cần Thơ, 2011
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN MÃ NGÀNH: 304
TÌM HIỂU MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP TRONG QUÁ TRÌNH ƯƠNG NUÔI TÔM SÚ (Penaeus monodon) Ở CẦN THƠ VÀ
SÓC TRĂNG
Cán bộ hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Ths. NGUYỄN MINH HẬU
LÊ TUẤN ANH
Ths. HOÀNG TUẤN
MSSV: 0753040004
LỚP: NTTS K2
Cần Thơ, 2011
2
CAM KẾT KẾT QUẢ
Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi và các kết quả của nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ luận văn cùng cấp nào khác.
Cần Thơ, Ngày 30 tháng 06 năm 2011
Ký tên
3
LÊ TUẤN ANH
LỜI CẢM TẠ
Để hoàn thành đề tài này, Tôi xin chân thành cảm ơn:
Thầy Nguyễn Minh Hậu đã tận tình hướng dẫn, động viên tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài tốt nghiệp này.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các Thầy Cô Khoa Sinh học Ứng dụng đã tận tình giảng dạy tôi trong suốt 4 năm học tập tại trường cũng như giúp đỡ cho tôi hoàn thành tốt đề tài tốt nghiệp này.
Anh Hoàng Tuấn, anh Võ Tuấn Kiệt và anh Phạm Thiện Định đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian thực tập tại Cơ sở Sản xuất giống tôm sú Hậu Giang, cũng như thời gian điều tra tại Sóc Trăng.
Các bạn lớp Nuôi trồng Thủy sản K2 đã đồng hành, giúp đỡ và động viên tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài.
Cuối cùng Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình đã luôn ủng hộ, động viên và tạo điều kiện thật tốt cho tôi hoàn thành chương trình học tập.
4
Xin chân thành cảm ơn !
TÓM TẮT
Vài năm trở lại đây nghề nuôi tôm ở nước ta và đặc biệt là khu vực ĐBSCL phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn, tình hình dịch bệnh gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nghề nuôi tôm thương phẩm. Từ đó đề tài: “Tìm hiểu một số bệnh thường gặp trong quá trình ương nuôi tôm Sú (Penaeus monodon) ở Cần Thơ và Sóc Trăng” được thực hiện. Nhằm tạo ra con giống chất lượng và giảm thiểu dịch bệnh xảy ra trong quá trình nuôi. Đề tài được thực hiện tại Trại giống Hậu Giang từ ngày 09/03 đến ngày 01/06/2011 đã tổng hợp được quy trình sản ương tôm Sú giống theo hệ thống lọc sinh học tuần hoàn.
Đề tài gồm 2 thí nghiệm được thực hiện gồm 5 bể ương ấu trùng từ giai đoạn Nauplius đến Postlarvae 12. Qua quá trình theo dõi thu được kết quả sau: tỷ lệ sống của ấu trùng tương đối cao (trung bình là 53,7%), ấu trùng tôm phát triển tốt, không xuất hiện bệnh trong suốt quá trình ương.
Đồng thời.
Qua điều tra về tình hình nuôi và dịch bệnh trong nghề nuôi tôm Sú của 30 hộ ở huyện Vĩnh Châu và Mỹ Xuyên (tháng 05/2011) thu được kết quả như sau: tình hình nuôi tôm ở địa bàn điều tra gặp nhiều khó khăn do tình dịch bệnh bùng phát mạnh. Đến thời điểm điều tra thì 100% các hộ nuôi tôm ở địa bàn khảo sát đều bị tôm chết, ghi nhận được một số bệnh: thân đỏ, mòn phụ bộ, đốm trắng, bệnh về mang, phân trắng và xuất hiện thêm một loại bệnh mới đó là bệnh về gan tôm chiếm tỷ lệ khá cao.
5
Từ khóa: Tôm Sú, bệnh trên tôm Sú, ương nuôi tôm Sú.
MỤC LỤC
Trang
CAM KẾT KẾT QUẢ............................................................................................. i
LỜI CẢM TẠ ......................................................................................................... ii
TÓM TẮT ............................................................................................................. iii
MỤC LỤC ............................................................................................................. iv
DANH SÁCH BẢNG .......................................................................................... vii
DANH SÁCH HÌNH........................................................................................... viii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ................................................................................ ix
CHƯƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................. 1
1.1 Giới thiệu.......................................................................................................... 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................... 2
1.3 Nội dung nghiên cứu ........................................................................................ 2
CHƯƠNG 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU ................................................................ 3
2.1 Sơ lược về đặc điểm sinh học tôm Sú .............................................................. 3
2.1.1 Vị trí phân loại............................................................................................... 3
2.1.2 Tập tính sống ................................................................................................. 3
2.1.3 Vòng đời phát triển của tôm Sú..................................................................... 4
2.1.4 Phân biệt đực cái ........................................................................................... 5
2.1.5 Kích cỡ thành thục......................................................................................... 6
2.1.6 Tập tính giao vĩ.............................................................................................. 6
2.1.7 Sự phát triển của buồng trứng ....................................................................... 7
2.1.8 Tập tính đẻ trứng ........................................................................................... 9
2.2 Tình hình sản xuất và nuôi tôm Sú trên thế giới .............................................. 9
2.3 Tình hình sản xuất giống và nuôi tôm Sú ở Việt nam và ĐBSCL ................. 11
2.4 Các kỹ thuật liên quan đến quá trình ương tôm ............................................. 15
2.4.1 Ương ấu trùng theo quy trình thay nước ..................................................... 15
2.4.2 Ương ấu trùng theo quy trình tuần hoàn ..................................................... 15
2.4.3 Một số yếu tố môi trường bể ương ấu trùng................................................ 16
2.4.4 Nguyên lý hoạt động của lọc sinh học ........................................................ 16
2.5 Tình hình dịch bệnh trên tôm sú..................................................................... 17
2.6 Một số bệnh thường gặp trong quá trình ương nuôi tôm Sú .......................... 19
6
2.6.1 Bệnh Vi-rút.................................................................................................. 19
2.6.1.1 Bệnh Vi-rút MBV..................................................................................... 19
2.6.1.2 Bệnh đầu vàng (YHV).............................................................................. 20
2.6.1.3 Bệnh đốm trắng( WSSV) ......................................................................... 21
2.6.1.4 Bệnh phân trắng........................................................................................ 22
2.6.2 Bệnh vi khuẩn.............................................................................................. 23
2.6.2.1 Bệnh do vi khuẩn Vibriosis ...................................................................... 23
2.6.2.2 Bệnh vi khuẩn dạng sợi ............................................................................ 24
2.6.2.3 Bệnh hoại tử gan ở tôm ............................................................................ 25
2.6.3 Bệnh nấm và động vật nguyên sinh............................................................. 25
2.6.3.1 Bệnh nấm ấu trùng ở giáp xác (nấm Mycosis)......................................... 25
2.6.3.2 Bệnh do sinh vật bám ............................................................................... 26
2.6.4 Bệnh do các nguyên nhân khác ................................................................... 26
2.6.4.1 Bệnh mang (mang đen, mang đỏ, phồng nấp mang)................................ 26
2.6.4.2 Bệnh cong thân ......................................................................................... 27
CHƯƠNG 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................... 28
3.1 Thời gian và địa điểm thực hiện đề tài ........................................................... 28
3.2 Vật liệu nghiên cứu ........................................................................................ 28
3.2.1 Bố trí thí nghiệm ......................................................................................... 28
3.2.2 Điều tra tình hình nuôi tôm ở Sóc Trăng..................................................... 28
3.3 Phương pháp nghiên cứu................................................................................ 28
3.3.1 Theo dõi quá trình sản xuất giống ............................................................... 28
3.3.1.1 Cách bố trí thí nghiệm .............................................................................. 28
3.3.1.2 Nguồn nước sử dụng ................................................................................ 29
3.3.1.3 Chuẩn bị bể ương ..................................................................................... 29
3.3.1.4 Nuôi cấy tảo.............................................................................................. 29
3.3.1.5 Bố trí ấu trùng vào bể ............................................................................... 30
3.3.1.6 Thức ăn và chế độ cho tôm ăn.................................................................. 30
3.3.1.7 Quản lý môi trường bể ương .................................................................... 30
3.3.1.8 Chuẩn bị bể lọc sinh học .......................................................................... 31
3.3.1.9 Theo dõi các chỉ tiêu môi trường và ấu trùng .......................................... 31
3.3.2 Điều tra tình hình dịch bệnh trong quá trình nuôi tôm Sú.......................... 32
3.3 Phương pháp phân tích số liệu ....................................................................... 32
7
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ....................................................... 33
4.1 Kết quả sản xuất giống tôm Sú....................................................................... 33
4.1.1 Tổng quan về trại sản xuất giống Hậu Giang.............................................. 33
4.1.2 Các yếu tố môi trường bể ương................................................................... 33
4.1.3 Thời gian biến thái của ấu trùng.................................................................. 36
4.1.4 Kết quả theo dõi ấu trùng và hậu ấu trùng .................................................. 37
4.1.5 Tỷ lệ sống của hậu ấu trùng......................................................................... 37
4.2 Kết quả điều tra tình hình nuôi tôm Sú ở Sóc Trăng...................................... 39
4.2.1 Thông tin chung về nông hộ nuôi tôm ở địa bàn điều tra ........................... 39
4.2.2 Một vài khía cạnh kỹ thuật trong các mô hình nuôi.................................... 40
4.2.3 Tình hình dịch bệnh trong các mô hình nuôi tôm ....................................... 44
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT .......................................................... 48
5.1 Kết luận .......................................................................................................... 48
5.2 Đề xuất............................................................................................................ 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 49
PHỤ LỤC .............................................................................................................-1-
Phụ lục I................................................................................................................-1-
Phụ lục II ............................................................................................................-10-
8
Phụ Lục III..........................................................................................................-26-
DANH SÁCH BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Tuổi và kích cỡ các giai đoạn ấu trùng tôm sú ...................................... 5
Bảng 2.2: Bệnh của tôm sú nuôi thương phẩm .................................................... 19
Bảng 4.1: Các yếu tố môi trường bể ương ........................................................... 33
Bảng 4.2: Nhiệt độ của các bể ương..................................................................... 33
Bảng 4.3: pH của các bể ương.............................................................................. 34
Bảng 4.4: Ammonia của các bể ương .................................................................. 35
Bảng 4.5: Nitrite của các bể ương ........................................................................ 35
Bảng 4.6: Thời gian biến thái (giờ) của ấu trùng ................................................. 36
Bảng 4.7: Tỷ lệ sống của hậu ấu trùng ................................................................. 38
Bảng 4.8: Kinh nghiệm của các hộ nuôi tôm ....................................................... 39
Bảng 4.9: Trình độ chuyên môn ........................................................................... 40
Bảng 4.10: Thông tin mô hình các hộ nuôi .......................................................... 41
Bảng 4.11: Hóa chất sử dụng trong cải tạo ao nuôi ............................................. 42
Bảng 4.12: Nguồn giống các hộ thả nuôi ............................................................. 43
Bảng 4.13: Một số bệnh trên tôm sú .................................................................... 44
9
Bảng 4.14: Mức độ gây hại của các loại bệnh...................................................... 46
DANH SÁCH HÌNH
Trang
Hình 2.1: Các giai đoạn ấu trùng và hậu ấu trùng tôm........................................... 4
Hình 2.2: Vòng đời của tôm sú .............................................................................. 6
Hình 2.3: Đặc điểm giao vĩ của tôm sú .................................................................. 7
Hình 2.4: Các giai đoạn phát triển của buồng trứng .............................................. 8
Hình 2.5: Các khu vực sản xuất tôm sú................................................................ 10
Hình 2.6: Các khu vực sản xuất tôm thẻ chân trắng ........................................... 11
Hình 2.7: Diện tích mặt nước NTTS cả nước ...................................................... 13
Hình 2.8: Sản lượng tôm nuôi cả nước ................................................................ 13
Hình 2.9: Diện tích mặt nước NTTS khu vực ĐBSCL ........................................ 14
Hình 2.10: Sản lượng tôm nuôi khu vực ĐBSCL ................................................ 14
Hình 4.1: Tỷ lệ sống của hậu ấu trùng của các bể ương ...................................... 38
Hình 4.2: Trình độ chuyên môn của người nuôi tôm ........................................... 40
Hình 4.3: Tỷ lệ các hộ nuôi sử dụng hóa chất ...................................................... 42
10
Hình 4.4: Tỷ lệ các hộ nuôi có tôm nhiễm bệnh .................................................. 44
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Nghĩa của từ viết tắt
TN Thí nghiệm
N Nauplius
Z Zoae
M Mysis
PL Postlarvae
S Sáng
C Chiều
tb Tế bào
PCR Polymerase Chain Reaction
RT-PCR Reverse Transcription PCR
ĐVTS Động vật thủy sản
TLS Tỷ lệ sống
SL Số lượng
KST Ký sinh trùng
BKC Thuốc sát trùng, diệt khuẩn nước
TCCA Tricholoroisocyanuric acid
FCR Hệ số chuyển hóa thức ăn
ĐBSCL Đồng Bằng Sông Cửu Long
NN-PTNT Nông nghiệp – Phát triển nông thôn
WSSV White Spot Syndrome Virus
11
TCBS Môi trường nuôi cấy vi khuẩn
CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Trong vài năm trở lại đây, ngành thủy sản Việt Nam không ngừng phát triển, đặc biệt là nghề nuôi tôm nước lợ. Ở Việt Nam nghề nuôi tôm Sú phát triển từ Bắc tới Nam, và Đồng Bằng Sông Cửu Long là vùng nuôi thủy sản trọng điểm của cả nước, đã góp phần quan trọng trong việc thay đổi bộ mặt vùng nông thôn ven biển. Nghề nuôi tôm ở ĐBSCL trong những năm gần đây không những gia tăng về diện tích nuôi mà còn phong phú về hình thức, ngoài hình thức nuôi tôm Sú quảng canh theo kiểu tôm rừng, nuôi tôm thâm canh ở các tỉnh ven biển thì các hình thức nuôi tôm quảng canh cải tiến, bán thâm canh và đặc biệt là mô hình luân canh tôm-lúa mang đến nhiều hứa hẹn cho con tôm Sú trong tương lai. Theo thống kê của Bộ Thủy Sản (2006), thì năm 2005 sản lượng tôm nuôi khoảng 330 nghìn tấn và sản xuất gần 29 tỷ tôm giống. Tính đến hết tháng 11/2009, xuất khẩu tôm của Việt Nam đạt 1,518 tỷ USD tăng 0,73% về giá trị so với cùng kỳ năm 2008, năm 2010 vừa qua sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt khoảng 2,82 triệu tấn, tăng 9% so với năm 2009, giá trị xuất khẩu toàn ngành đạt 4,7 tỉ USD. Trong đó, diện tích nuôi tôm Sú là 613.718 ha; diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng khoảng 25.397 ha, tăng 32% so năm 2009. Năm 2010 vừa qua, kim ngạch xuất khẩu tôm Sú đạt hơn 2 tỷ USD (Thanh Thúy, 2010).
ĐBSCL là vùng nuôi thủy sản trọng điểm với sản lượng tôm nuôi chiếm 80% và 30% tôm giống được sản xuất. Trong giai đoạn hiện nay, nghề nuôi tôm đặc biệt là tôm Sú đang có nhu cầu cao về con giống. Theo tính toán, hàng năm các tỉnh khu vực ĐBSCL có nhu cầu thả nuôi 24-25 tỷ tôm giống, với diện tích trên 540.000 ha nhưng nguồn tôm Sú giống sản xuất tại chỗ mới chiếm khoảng 30- 50%, số còn lại phải nhập từ các tỉnh khu vực Miền Trung (theo số liệu của Sở Thủy Sản các tỉnh ven biển ĐBSCL, 2009).
Việc không chủ động được nguồn tôm giống ảnh hưởng lớn đến nghề nuôi tôm thương phẩm ở các tỉnh khu vực ĐBSCL trong thời gian qua, mặt khác do chạy theo lợi nhuận và do sự quản lý thiếu chặt chẽ giữa các ngành chức năng nên chất lượng con giống trong vài năm trở lại đây giảm đi rất nhiều. Mặt khác do sự gia tăng về diện tích, mô hình nuôi một cách tự phát vượt qua khả năng quản lý của các ngành chức năng nên vấn đề kỹ thuật nuôi và quản lý dịch bệnh chưa đảm bảo dẫn đến sự gia tăng về ô nhiễm môi trường từ đó dịch bệnh phát sinh.
12
Hiện nay các trại sản xuất giống tôm Sú ở Cần Thơ không ngừng phát triển về năng suất cũng như cải tiến về kỹ thuật, ứng dụng và phát triển quy trình sản
xuất giống tôm Sú của Trường Đại học Cần Thơ tạo được nguồn tôm giống có chất lượng đã và đang là địa chỉ tin cậy cho người nuôi tôm ở ĐBSCL. Nhằm tìm hiểu quy trình sản xuất giống tôm Sú, những bất thường và dịch bệnh xảy ra trong quá trình sản xuất giống cũng như tình hình nuôi và dịch bệnh của nghề nuôi tôm thương phẩm. Từ đó đề tài: “ Tìm hiểu một số bệnh thường gặp trong quá trình ương nuôi tôm Sú (Penaeus monodon) ở Cần Thơ và Sóc Trăng” được thực hiện.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu một số bệnh thường gặp trong quá trình ương tôm Sú (Penaeus monodon) ở Cần Thơ và tình hình nuôi, dịch bệnh trong nghề nuôi tôm Sú ở tỉnh Sóc Trăng.
1.3 Nội dung nghiên cứu
Tìm hiểu quy trình sản xuất giống tôm Sú trong hệ thống lọc sinh học tuần hoàn, theo dõi những bất thường và một số bệnh thường xảy ra trong quá trình ương ấu trùng tôm Sú ở Cần Thơ.
13
Tổng hợp về tình hình nuôi, dịch bệnh xảy ra trong quá trình nuôi tôm Sú ở tỉnh Sóc Trăng.
CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Sơ lược về đặc điểm sinh học và sinh sản của tôm sú
2.1.1 Vị trí phân loại
Theo hệ thống phân loại của Holthius (1980) và Nguyễn Văn Chung (1995), tôm Sú được phân loại như sau:
Ngành: Arthropoda
Ngành phụ: Crustacea
Lớp: Malacostraca
Lớp phụ: Eumalacostraca
Bộ: Decapoda
Họ: Penaeidea
Giống: Penaeus
Loài: Penaeus monodon Fabricus, 1798
(Trích dẫn bởi Nguyễn Văn Thường và ctv, 2009)
Tôm Sú (Penaeus monodon Fabricus, 1798) có 7-8 răng trên chủy và 3-4 răng dưới chủy, chủy cong xuống rất ít. Gờ gan dài và cong. Gai đuôi có rãnh nhưng không có gai bên. Phần đầu ngực và phần bụng có những băng đen ngang. Chân ngực có thể có màu đỏ. Tôm Sú là loài kinh tế, kích cỡ lớn nhất trong nhóm tôm he, cơ thể có thể dài đến 360 mm (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009).
2.1.2 Tập tính sống
14
Tôm Sú là loài rộng muối. Tuy nhiên, tùy theo giai đoạn phát triển mà tôm có khả năng thích ứng với các độ mặn khác nhau. Trong điều kiện thuần hóa dần dần thì tôm có khả năng tồn tại và sinh trưởng ở độ mặn từ 1,5-40 ppt, nhưng thích hợp nhất từ 10-34 ppt (Nguyễn Văn Chung, 2000). Giai đoạn nhỏ và gần trưởng thành, tôm sống ven bờ biển vùng cửa sông hay vùng ngập mặn, nhưng khi trưởng thành chuyển ra xa bờ sống vùng nước sâu trên nền đáy bùn cát hay cát (Phạm Văn Tình, 2000). Tôm Sú có khả năng thích ứng với sự thay đổi lớn của nhiệt độ nên thuộc loài rộng nhiệt. Nhiệt độ thích hợp cho tôm phát triển từ 24-34 oC, dưới 15oC và trên 35oC tôm hoạt động không bình thường và có thể chết hàng loạt (Nguyễn Văn Chung, 2004). Bãi đẻ của tôm Sú thường ở vùng có
độ mặn trên 33 ppt, độ pH 7,5-8,2, chất đáy bùn cát và có độ sâu 10-20m (Nguyễn Văn Chung, 2000).
2.1.3 Vòng đời phát triển của tôm Sú
Theo Nguyễn Thanh Phương và ctv (1999), thì vòng đời của tôm Sú được chia ra các giai đoạn: phôi, ấu trùng, hậu ấu trùng, tôm giống, tôm tiền trưởng thành và trưởng thành.
Giai đoạn phôi: giai đoạn này bắt đầu từ khi trứng thụ tinh và phân cắt thành 2, 4, 8, 16, 32, 64 tế bào, phôi dâu, phôi nang, phôi vị đến khi nở. Thời gian hoàn tất giai đoạn này khoảng 12 đến 15 giờ.
Giai đoạn Nauplius: chia làm 6 giai đoạn phụ (N1-N6) dinh dưỡng bằng noãn hoàn, kéo dài 2 đến 3 ngày.
Giai đoạn Zoae: chia làm 3 giai đoạn phụ (Z1-Z3) dinh dưỡng chủ yếu bằng tảo khuê (Chaetoceros sp.,), kéo dài 4-5 ngày.
Giai đoạn Mysis: chia làm 3 giai đoạn phụ (M1-M3) tôm ăn chủ yếu là phiêu sinh động vật như ấu trùng Artemia, Branchionus plicatilis... kéo dài 3-4 ngày. Hầu hết giai đoạn ấu trùng mất khoảng 9-10 ngày, sau đó biến thái sang giai đoạn hậu ấu trùng (Postlarvae).
Giai đoạn hậu ấu trùng: Giai đoạn này tôm bám thành bể, sống đáy, có hình dạng giống như tôm trưởng thành. Ngoài động vật phù du tôm ăn cả mùn bã hữu cơ, sinh vật đáy: Oligochaeta, Polychaeta, Bivalvia,... 5-6 tuần sau trở thành tôm giống.
Hình 2.1: Các giai đoạn ấu trùng và hậu ấu trùng tôm
(Motoh, 1981. Trích dẫn bởi Thạch Thanh và ctv, 2005)
15
Giai đoạn tiền trưởng thành: Tôm giống sau 6-8 tháng thì đạt tiêu chuẩn tôm trưởng thành và có thể tham gia sinh sản.
Bảng 2.1: Tuổi và kích cỡ các giai đoạn ấu trùng tôm Sú (P. Monodon)
(Kungvankij et al., 1986. Trích dẫn bởi Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009)
Giai đoạn
Chiều dài trung bình (mm)
Thời gian sau khi nở
Nauplius 1
0,32
15 giờ
Nauplius 2
0,35
20 giờ
Nauplius 3
0,39
1 ngày 2 giờ
Nauplius 4
0,40
1 ngày 8 giờ
Nauplius 5
0,41
1 ngày 14 giờ
Nauplius 6
0,54
1 ngày 20 giờ
Zoae 1
1,05
2 ngày 16 giờ
Zoae 2
1,90
4 ngày 4 giờ
Zoae 3
3,20
6 ngày
Mysis 1
3,80
7 ngày 4 giờ
Mysis 2
4,30
8 ngày 16 giờ
Mysis 3
4,50
9 ngày 4 giờ
Postlarvae 1
5,20
10 ngày 20 giờ
Postlarvae 5
8,00
16 ngày
Postlarvae 15
12,0
26 ngày
Postlarvae 20
18,0
31 ngày
2.1.4 Phân biệt đực cái
Theo Motor (1981), Dall et all., (1990) và Bray and Lawrence (1992), (trích dẫn bởi Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009).
Ở tôm đực, các nhánh trong của chân bụng thứ nhất biến thành cơ quan giao vĩ (Petasma). Cơ quan sinh dục của tôm đực bao gồm một đôi tinh sào, đôi ống dẫn tinh và đầu mút nằm ở vùng tim phía trên của gan tụy. Đầu cuối của ống có túi tinh và dẫn ra gốc chân ngực 5.
16
Ở tôm cái có Thelycum. Thelycum là đĩa biến dạng của đốt ngực 7 và 8, ở tôm Sú có dạng Thelycum kín. Cơ quan sinh dục trong của tôm cái bao gồm một đôi buồng trứng và ống dẫn trứng. Buồng trứng kéo dài theo chiều dài cơ thể khi tôm trưởng thành.
Hình 2.2: Vòng đời của tôm sú
(Motoh, 1981. Trích dẫn bởi Thạch Thanh và ctv, 2005)
2.1.5 Kích cỡ thành thục
Theo Motoh (1985) (trích dẫn bởi Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009), cho rằng tôm đạt thành thục là lúc kích cỡ nhỏ nhất mà có thể thấy túi tinh ở đầu cơ quan giao vĩ của con đực và trong túi chứa tinh ở con cái. Trong tự nhiên thì các loài tôm thuộc giống Penaeus thường đạt tuổi thành thục sau 8-10 tháng. Tôm Sú (Penaeus monodon) là loài có kích cỡ lớn, song chúng có thể thành thục ở kích cỡ 35 g đối với con đực và 67,7 g đối với con cái. Trong ao, tôm đực có thể đạt thành thục ở trọng lượng 20 g và tôm cái ở 41,3 g.
2.1.6 Tập tính giao vĩ
Đối với nhóm tôm biển nói chung và tôm Sú nói riêng, con đực thành thục sớm hơn con cái. Đối với tôm Sú quá trình sinh sản tuân theo quy luật: lột xác-giao vĩ-thành thục-đẻ trứng. Theo Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương (2009), thì quá trình giao vĩ của tôm biển diễn ra theo trình tự sau:
- Một hay nhiều con đực bị con cái hấp dẫn, tiếp cận con cái từ phía sau,
con đực chạm đầu gai chủy vào dưới đuôi con cái.
- Con cái bên lên mặt và chúng rượt đuổi nhau hay bơi song song, con
đực thường bơi phía dưới và sau con cái.
17
- Con đực trở ngữa lên, đầu áp đầu, bụng áp bụng với con cái.
- Sau đó con đực quay vuông góc 90o với con cái, búng co đầu và đuôi
Hình 2.3: Đặc điểm giao vĩ của tôm Sú
(Bray and Lawrence, 1992. Trích dẫn bởi Trần Ngọc Hải và ctv, 2009).
vài lần để chuyển túi tinh vào con cái.
2.1.7 Sự phát triển của buồng trứng
Ở tôm cái, có 5 giai đoạn phát triển của buồng trứng dựa trên sự khác biệt về cỡ, màu sắc trứng và độ rộng tuyến sinh dục (Primavera, 1980; Motoh, 1981; Solis, 1998; Hall et al., 2002. Trích dẫn bởi Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009).
Giai đoạn I (chưa phát triển): Buồng trứng mỏng, trong suốt, không nhìn thấy được từ bên ngoài.
Giai đoạn II (giai đoạn phát triển): Buồng trứng mềm và có màu trắng hay xanh Ô liu, dạng dãy thẳng.
Giai đoạn III (giai đoạn gần chín): Buồng trứng phát triển hơi lớn, kéo dài từ đầu ngực đến đốt bụng thứ VI, màu xanh nhạt.
18
Giai đoạn IV (giai đoạn chín): Buồng trứng có dạng hạt kim cương, nở rộng phủ khắp đốt bụng thứ nhất, màu xanh ô liu hay xanh rêu đậm.
Hình 2.4: Các giai đoạn phát triển của buồng trứng
(Primavera, 1983. Trích dẫn bởi Thạch Thanh và ctv, 2005)
19
Giai đoạn V (thoái hóa sau khi đẻ): Buồng trứng sau khi đẻ mềm, nhăn nheo. Bên trong chứa noãn bào còn non, follicule rỗng, một số trứng còn sót lại.
2.1.8 Tập tính đẻ trứng
Tôm cái đẻ trứng vào ban đêm, thường từ 20:30-2:00 giờ sáng. Trong điều kiện tự nhiên, tôm thường đẻ một lần trong mỗi chu kỳ lột xác. Song, trong điều kiện nuôi, tôm có thể đẻ nhiều lần (có thể đến 13 lần) (Tăng Minh Khoa, 2010).
Trước khi đẻ tôm cái nằm yên trên đáy bể. Khi bắt đầu đẻ trứng, tôm cái bơi tới và thỉnh thoảng búng nhanh. Sau đó, tôm bơi chậm lại và đẻ trứng rơi xuống đáy bể. Trứng đẻ ra ở chân ngực 3 qua túi tinh chạy ra phía sau thân và từ từ chìm xuống. Đôi khi, trứng không rơi đều ra mà dính lại thành đám trên đáy bể, điều này sẽ làm trứng không nở (Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004). Thời gian của một lần đẻ trứng từ 3-4 phút. Các hoạt động của ánh sáng và âm thanh có thể ảnh hưởng đến hoạt động đẻ trứng của tôm. Tôm Sú có khả năng đẻ quanh năm nhưng vào hai đợt chính là tháng 3-4 và tháng 7-8 hàng năm.
Sức sinh sản của tôm Sú tỷ lệ thuận với khối lượng của tôm, tôm thành thục ngoài tự nhiên có khối lượng 145 g thì sức sinh sản là 4.050 trứng/g, còn tôm thành thục trong lồng nuôi ở biển thì sức sinh sản là 3.413 trứng/g (Nguyễn Cơ Thạch và Phan Đình Phúc, 2000).
2.2 Tình hình sản xuất giống và nuôi tôm biển trên thế giới
20
Theo Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương (2009), thì trong lịch sử phát triển của nghề sản xuất giống và nuôi tôm biển, một trong những mốc đầu tiên và quan trọng nhất là thành công trong nghiên cứu sản xuất giống loài tôm he Nhật Bản (Penaeus japonicus) trong bể lớn do Hudinaga thực hiện vào năm 1933 tại Nhật Bản. Năm 1966, Cook và Murphy đã thành công trong sản xuất giống nhân tạo loài tôm P.aztecus và P.setiferus bằng mô hình Galveston ở Texas (Mỹ). Trong thập kỷ 60 – 70, mô hình Galveston đã được ứng dụng rộng rãi ở Châu Á cho các loài tôm thẻ đuôi đỏ (F.indicus), tôm thẻ đuôi xanh (F.merguiensis), tôm sú (P.monodon). Trong thập kỷ 80, mô hình tuần hoàn cũng đã được nghiên cứu và ứng dụng thành công trong sản xuất giống tôm biển ở Tahiti và Polynesia (Pháp) (AQUACOP,1983 và 1985). Chương trình sản xuất tôm giống sạch bệnh và tiếp theo đó là sản xuất giống miễn nhiễm một số bệnh đặc thù ở tôm biển đã được bắt đầu ở Pháp từ 1987 trên đối tượng P.stiliferus, ở Mỹ từ 1989 trên tôm thẻ chân trắng (P.vanamei), và ở Úc từ 1995 trên tôm he Nhật Bản (P.japonicus) và 1999 trên tôm sú (P.monodon). Đến nay, đã có 24 loài tôm thuộc giống Penaeus và 7 loài thuộc giống Metapenaeus đã được nghiên cứu sinh sản nhân tạo, trong đó có 11 loài được ứng dụng sản xuất giống đại trà (Primavera, 1985; Jorry and Cabrera, 2003).
Hình 2.5: Các khu vực sản xuất tôm Sú chủ yếu trên thế giới (màu cam)
(http://www.fao.org/fishery/culturedspecies/Penaeus_monodon/en)
Đối với nghề nuôi tôm thương phẩm thì được hình thành từ rất sớm ở các nước Đông Nam Á với hình thức quảng canh (Primavera, 1985; Fast, 1992; Joy and Carbrera, 2003 and Brigg et al.,2005). Tuy nhiên, nghề nuôi tôm chỉ thật sự bắt đầu phát triển mạnh từ những năm đầu thập niên 70. Năm 1975, Ecuador đã trở thành nước dẫn đầu thế giới về sản lượng tôm nuôi ở Tây Bán Cầu và Đài Loan, Trung Quốc dẫn đầu ở Đông Bán Cầu. Năm 1988, sản lượng tôm nuôi trên thế giới đạt 450.000 tấn. Tuy nhiên, nghề nuôi tôm trong những năm đó đã bắt đầu gặp trở ngại lớn về dịch bệnh. Năm 1992, Thái Lan đã trở thành nước có sản lượng tôm đứng đầu thế giới và tiếp tục duy trì đến giữa thập niên 90. Sự thâm canh hóa trong nuôi tôm ở Thái Lan diễn ra rất nhanh, năm 1985 Thái Lan có 94,9% số ao nuôi tôm là quảng canh, 5,1% là thâm canh và bán thâm canh nhưng chỉ sau 10 năm (năm 1995) thì 75,8% số ao nuôi thâm canh, 7% nuôi bán thâm canh và 14,5% nuôi quảng canh. Từ năm 1995, nghề nuôi tôm trên thế giới tăng trưởng chậm lại do dịch bệnh vi-rút xảy ra trên toàn cầu, mặc dù như vậy nhưng sản lượng vẫn tăng do nhiều công nghệ mới đã được áp dụng. Trong thập niên 90, tôm Sú là loài quan trọng và được nuôi rộng rãi nhất.
21
Từ năm 1995 đến nay, tôm thẻ chân trắng (Penaeus vanamei) đã được di nhập và nuôi ở nhiều quốc gia và lục địa Châu Á như Đài Loan (1995), Trung Quốc và Thái Lan (1998), Việt Nam (2000),… Đến nay, tôm thẻ chân trắng đã trở thành đối tượng nuôi phổ biến ở các quốc gia này. Sản lượng tôm thẻ chân trắng tăng lên nhanh chóng, đạt 1.340 ngàn tấn năm 2004 và trên 2.200 tấn năm 2007.
Hình 2.6: Các khu vực sản xuất tôm Thẻ chân trắng chủ yếu trên thế giới (màu cam)
(http://www.fao.org/fishery/culturedspecies/Litopenaeus_vannamei/en)
Bên cạnh sự gia tăng nhanh chóng về sản lượng tôm nuôi nói chung, nghề nuôi tôm cũng đang phát triển đa dạng, từ hình thức quảng canh đến bán thâm canh, thâm canh và siêu thâm canh, có thể đến 300-400 con/m2 (Jory and Cabrera, 2003 and Briggs et al., 2005). Nhằm phát triển bền vững nghề nuôi tôm trên thế giới, hiện nay, nhiều tổ chức đã nổ lực trong việc phát triển các mô hình nuôi cũng như phương pháp quản lý tổng hợp đối với nghề nuôi tôm và đã bước đầu được ứng dụng ở nhiều nơi như thực hành nuôi tốt (GAP-Good aquaculture practice), thực hành quản lý tốt hơn (BMP-Best management practice), nuôi an toàn sinh học (Bio-security shrimp culture), nuôi tôm có trách nhiệm (responsible shrimp farming), nuôi kết hợp (integrated culture) và nuôi sinh thái (organic culture).
2.3 Tình hình sản xuất giống và nuôi tôm Sú ở Việt nam và ĐBSCL
22
Theo Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương (2009), thì ở nước ta, nghiên cứu sinh sản nhân tạo các loài tôm đầu tiên được tiến hành ở miền Bắc từ thập kỷ 70 với các loài tôm Penaeus merguiensis, P.penicilatus và P.japonicus. Năm 1982 trại sản xuất giống tôm biển được thành lập tại Quy Nhơn do FAO hỗ trợ với mục tiêu ban đầu là sản xuất giống tôm thẻ P.merguiensis. Từ năm 1984- 1985, tôm sú (Penaeus monodon) đã được sinh sản nhân tạo thành công ở Nha Trang và dần dần trở thành đối tượng chủ yếu trong sản xuất giống và nuôi tôm biển ở nước ta (Vu Do Quynh, 1992; Nguyen Minh Nien and Lin, 1996). Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, nghiên cứu sản xuất giống lần đầu tiên được tiến hành vào những năm 1987-1988 trên đối tượng tôm thẻ. Sau đó trại sản xuất giống đại trà được thành lập và được thành lập nhanh chóng ở các tỉnh ven biển trong vùng. Tuy nhiên từ những năm 1994-1995 nhờ sự thành công trong kỹ thuật sản xuất giống tại địa phương, tôm sú trở thành đối tượng chủ yếu trong sản xuất giống và nuôi thương phẩm ở ĐBSCL, đặc biệt từ năm 1997 (Trần Ngọc Hải, 2003). Ngoài tôm Sú và tôm Thẻ, năm 2000, tôm Thẻ chân trắng lần
đầu được nhập nuôi thử nghiệm ở tỉnh Bạc Liêu, sau đó được sản xuất giống và nuôi ở các tỉnh, đặc biệt là các tỉnh miền trung như Ninh Thuận và Bình Thuận.
Số trại tôm và sản lượng tôm giống sản xuất đã tăng lên nhanh chóng trong hai thập kỷ qua. Từ những năm đầu thành lập, cả nước chỉ có 16 trại tôm và sản xuất được 3,3 triệu tôm giống vào năm 1986, đến năm 1990 cả nước có 215 trại và 250 triệu tôm giống, và năm 1995 đạt 675 trại và sản xuất trên 2,3 tỷ con. Đặc biệt số lượng trại và sản lượng tăng lên nhanh chóng từ năm 2000 đến nay. Năm 2005, cả nước có trên 4.280 trại và đạt sản lượng trên 28,8 tỷ tôm bột. Hiện nay, khu vực sản xuất giống tập trung nhiều nhất ở nước ta là các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Cà Mau. ĐBSCL là nơi nuôi tôm chính của cả nước nhưng số trại giống chỉ là 1.261 trại và sản xuất được khoảng 11,1 tỷ tôm giống. Vì thế hàng năm ĐBSCL phải nhập thêm một lượng lớn tôm bột (trên 15 tỷ tôm giống) từ các tỉnh miền trung để đảm bảo cung cấp giống cho người nuôi trong vùng (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009).
Bên cạnh phát triển về số lượng trại giống và sản lượng tôm bột, nhiều công trình nghiên cứu đã được triển khai và ứng dụng thành công trong sản xuất. Ví dụ như nghiên cứu phát triển quy trình ương ấu trùng tôm Sú trong hệ thống tuần hoàn (Thạch Thanh và ctv, 1999) và đã triển khai rộng rãi ở các tỉnh ĐBSCL với tổng cộng trên 30 trại giống (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2006). Nghiên cứu nuôi vỗ và sinh sản tôm sú bố mẹ trong hệ thống bể tuần hoàn (Nguyễn Thanh Phương, 2006), hay bước đầu ứng dụng hệ thống tuần hoàn để gia hóa tôm Sú bố mẹ qua nhiều thế hệ (Nguyễn Quốc Hưng, 2008).
Đối với nuôi tôm thương phẩm, nghề nuôi tôm ở nước ta cũng phát triển với nhiều giai đoạn khác nhau như hình thức quảng canh từ những năm 1970, quảng canh cải tiến từ những năm 1980 và bán thâm canh và thâm canh từ những năm 1985 đến nay. Ngoài ra, hiện nay còn có nhiều mô hình kết hợp rất triển vọng như mô hình tôm-rừng, tôm-lúa.
23
Theo tổng cục thống kê Việt Nam (2009), thì diện tích mặt nước NTTS tăng nhanh ở năm 2000 (641,9 nghìn ha) đến năm 2008 là 1.052,6 nghìn ha. Sản lượng tôm nuôi ở Việt Nam không ngừng gia tăng, năm 2000 sản lượng tôm nuôi là 93,5 nghìn tấn đến năm 2008 là 388,4 nghìn tấn.
Nghìn (ha) 1200,0
1000,0
800,0
600,0
400,0
200,0
0,0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Năm
Hình 2.7: Diện tích mặt nước NTTS cả nước qua các năm
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2009)
Nghìn (tấn)
450,0 400,0 350,0 300,0 250,0 200,0 150,0 100,0 50,0 0,0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Năm
Hình 2.8: Sản lượng tôm nuôi cả nước qua các năm
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2009)
24
ĐBSCL luôn chiếm hơn 80% diện tích nuôi và tổng sản lượng tôm nuôi cả nước. Theo tổng cục thống kê Việt Nam (2009), thì diện tích mặt nước NTTS ở ĐBSCL tăng nhanh ở năm 2000 (445,3 nghìn ha) đến năm 2008 là 752,2 nghìn ha. Sản lượng tôm nuôi ở ĐBSCL cũng không ngừng gia tăng, năm 2000 sản lượng tôm nuôi là 68,995 nghìn tấn đến năm 2008 là 307,7 nghìn tấn.
Nghìn (ha)
800 700 600 500 400 300 200 100 0
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008 Năm
Hình 2.9: Diện tích mặt nước NTTS khu vực ĐBSCL qua các năm
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2009)
Nghìn (tấn) 350 300
250
200 150 100
50 0
2000 2001
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Năm
Hình 2.10: Sản lượng tôm nuôi khu vực ĐBSCL qua các năm
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2009)
Các mô hình nuôi tôm ở ĐBSCL cũng rất đa dạng gồm nuôi quảng canh cải tiến đơn (trên 300.000 ha), tôm-lúa luân canh (hơn 100.000 ha), tôm-rừng (hơn 29.000 ha mặt nước) và mô hình nuôi tôm bán thâm canh, thâm canh đang phát triển nhanh về diện tích (Nguyễn Minh Niên, 2005).
Sơ lược về tình hình nuôi tôm sú ở Sóc Trăng
25
Với gần 48.000 ha nuôi tôm, hầu hết là nuôi tôm Sú (tôm thẻ chỉ chừng dưới 200 ha), Sóc Trăng được coi là “thủ phủ” tôm Sú ở ĐBSCL. Nhìn chung, trong thời gian qua lĩnh vực thủy sản đặc biệt là nuôi trồng phát triển mạnh góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng mạnh từ 41.382 ha (năm 2000) lên 70.728 ha (năm 2010). Trong đó, diện tích nuôi thâm canh và bán thâm canh tăng từ 300 ha lên 25.776 ha (gấp 86 lần năm 2000). Năng suất nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là tôm Sú tăng từ 0,42
tấn/ha lên 1,26 tấn/ha. Sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng từ 14.800 tấn lên 125.681 tấn, gấp 8,5 lần năm 2000, trong đó, sản lượng tôm tăng từ 12.303 tấn lên 61.598 tấn (gấp 5,01 lần). Giá trị xuất khẩu thủy sản tăng từ 160 triệu USD năm 2000 lên 394,44 triệu USD năm 2010 (sản lượng thủy sản xuất khẩu 46.360 tấn), gấp 2,46 lần. Doanh thu bình quân/ha diện tích nuôi thủy sản nước lợ (tôm sú) đạt trên 100 triệu đồng/ha. Tính đến quý I/2011 tổng diện tích nuôi thủy sản của tỉnh là 16.500 ha, đạt 22,92% kế hoạch, tăng 4,15% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, diện tích thả nuôi tôm Sú là 14.500 ha, đạt 30,2% kế hoạch, tăng 0,93%. Tuy đã thông báo thời gian nhập giống, thả nuôi tôm sú trên địa bàn tỉnh kể từ ngày 01/3/2011, nhưng một số nơi vẫn có hiện tượng thả nuôi sớm, không đúng lịch thời vụ (khoảng 2.434 ha). Tổng diện tích tôm sú thiệt hại đến cuối tháng 3/2011 khoảng 1.450 ha (chiếm 10% diện tích thả nuôi). Nguyên nhân thiệt hại do con giống chất lượng kém, thời tiết, môi trường bất lợi… làm phát sinh nhiều mầm bệnh. Theo Sở NN-PTNT Sóc Trăng, đến đầu tháng 5/2011, toàn tỉnh đã thả nuôi 25.000 ha tôm sú thì có tới 13.000 ha bị mất trắng do dịch bệnh. Như vậy, chỉ trong vòng nửa tháng qua, diện tích tôm bị thiệt hại ở Sóc Trăng đã lên gần gấp đôi (tháng 4/2011, diện tích tôm bệnh là 7.000 ha). Với diện tích bị bệnh quá lớn như trên, ước tính người nuôi tôm ở Sóc Trăng bị thiệt hại trên dưới 1.000 tỷ đồng.
2.4 Các kỹ thuật liên quan đến quá trình ương tôm
Trên thế giới hiện có nhiều quy trình sản xuất giống tôm biển khác nhau. Nhưng nhìn chung, vẫn chủ yếu ở hai quy trình thay nước và tuần hoàn nước.
2.4.1 Ương ấu trùng theo quy trình thay nước
Trên thế giới quy trình này được áp dụng từ rất sớm trong nghề sản xuất giống tôm biển với các quy trình nước xanh quy mô lớn và quy trình Galveston. Ở Việt Nam trại tôm giống đầu tiên được thành lập tại Quy Nhơn với sự hợp tác của FAO vào năm 1982. Quy trình này được hoàn thiện dần và trong quá trình thay nước thì các yếu tố môi trường được đặc biệt quan tâm để không xảy ra hiện tượng sốc cho tôm ương. Theo Phạm Văn Tình (2004), chỉ nên thay 20% nước ương ở giai đoạn Zoae 3 và từ giai đoạn Mysis 1 đến Mysis 3 thì thay 30- 40% nước hàng ngày. Đến giai đoạn Postlarvae thì lượng nước thay tăng dần từ 40-70% tùy theo giai đoạn phát triển.
2.4.2 Ương ấu trùng theo quy trình tuần hoàn
26
Trong thập kỷ 80, quy trình ương tôm nước tuần hoàn đã được nghiên cứu ứng dụng thành công trong sản xuất tôm biển ở Tahiti và Polynesia (Pháp) (Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004). Ở Việt Nam thì quy trình ương ấu trùng tôm Sú bằng hệ thống tuần hoàn đã được nghiên cứu và ứng dụng thành
công ở Đại học Cần Thơ năm 1999 (Thạch Thanh và ctv, 1999). Đến nay quy trình này đã được ứng dụng cho nhiều trại sản xuất ở ĐBSCL mà chủ yếu là vùng xa biển như tại Thành phố Cần Thơ.
Theo kết quả nghiên cứu của Tăng Minh Khoa (2001), cho thấy rằng ứng dụng lọc sinh học vào sản xuất giống tôm Sú gồm lọc ngầm và lọc khô với giá thể cho lọc ngầm là đá 1x2 và cho lọc khô là nhựa có hiệu quả lọc cao, hàm lượng đạm trong hệ thống ương thấp, tỷ lệ sống của ấu trùng cao, tuy kích thước nhỏ song tôm giống có chất lượng rất cao. Theo Thạch Thanh và ctv (1999), thì tăng trưởng về chiều dài cũng như tỷ lệ sống của Postlarvae 7 trong hệ thống lọc sinh học tốt hơn (49,35%) hệ thống thay nước (40,93%). Kết quả nghiên cứu của Phạm Văn Quyết (2000), cho rằng chất lượng tôm bột ương trong hệ thống tuần hoàn sử dụng lọc sinh học tốt hơn hệ thống thay nước. Ngoài ra, hệ thống lọc sinh học luôn được nghiên cứu cải tiến với hệ thống tách đạm nhằm tạo môi trường tốt trong suốt quá trình ương từ đó có thể nâng mật độ ương lên cao (210 ấu trùng/lít) nhưng vẫn đạt được tỷ lệ sống cao, tăng trưởng tốt về chiều dài và khối lượng (Trần Anh Thư, 2003). Sử dụng Ozon trong xử lý nước và diệt khuẩn trên ấu trùng tôm cũng được nghiên cứu áp dụng cho quy trình tuần hoàn. Theo kết quả nghiên cứu của Tạ Văn Phương (2006), cho rằng xử lý Ozon trên ấu trùng Nauplius với nồng độ 0,10 ppm làm giảm 84%, và ở nồng độ 0,15 ppm 86% tổng vi khuẩn.
2.4.3 Một số yếu tố môi trường bể ương ấu trùng
+ từ 0-1 ppm.
Môi trường nước ương là một yếu tố quan trọng quyết định đến tỷ lệ sống và +, sinh trưởng của ấu trùng tôm. Nhiệt độ, pH, nồng độ kiềm, các chất khí (NH4 -…) là các yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến ấu trùng. NH3, NO2
- từ 0-0,1 ppm và NH4
Theo Tăng Minh Khoa (2010), thì môi trường bể ương tôm sú cần đảm bảo các điều kiện sau độ mặn từ 28-30 ppt, nhiệt độ nước 28-30oC, pH 7,5-8,5 , nồng độ kiềm 100-120 ppm, hàm lượng NO2
2.4.4 Nguyên lý hoạt động của lọc sinh học
Nguyên lý hoạt động của lọc sinh học là nước từ các bể ương nói chung được thay liên tục đi qua các bể lọc. Tại đó các tác nhân sinh học (vi khuẩn) sẽ biến - không độc) và quay đổi hợp chất chứa ammonia (NH3 độc) thành nitrate (NO3 lại bể ương. Như vậy chỉ cần một lượng nước nhất định trong suốt chu kì ương nuôi.
27
Lọc sinh học là một hệ thống bao gồm một số quá trình sinh hóa quan trọng xảy ra trong bể lọc. Theo Lê Trình, 1997 (trích dẫn bởi Võ Tuấn Kiệt, 2005) các
phản ứng chuyển đổi ammonia và nitrite thành nitrate dưới tác dụng của vi khuẩn như sau:
Nitrosomonas
+ + O2 2NO2
- + 4H+ + 2H2O + năng lượng
2NH4
-
Nitrobacter
- + O2
+ năng lượng
NO2 2NO3
Theo Tăng Minh Khoa (2001), thì ứng dụng lọc sinh học vào sản xuất giống tôm sú, lọc sinh học gồm lọc ngầm và lọc khô cho hiệu quả lọc cao, hàm lượng đạm trong hệ thống ương thấp, tỷ lệ sống của ấu trùng cao, tuy kích thước ấu trùng nhỏ song tôm giống có chất lượng rất cao. Ngoài ra thiết kế lọc sinh học với giá thể lọc ngầm là đá 1x2 và giá thể lọc khô là nhựa còn rút ngắn được thời gian cấy vi khuẩn.
2.5 Tình hình dịch bệnh trên tôm sú
Ở Việt Nam với mức độ thâm canh trong nuôi tôm Sú không ngừng gia tăng, đi đôi với việc phát triển đó là tình hình dịch bệnh, dịch bệnh bộc phát mạnh vào những năm 1993-1994, đặc biệt từ tháng 1 đến tháng 3/1994 đã làm thiệt hại cho nghề nuôi tôm ở hầu hết các tỉnh khu vực ĐBSCL như Cà Mau, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng và Kiên Giang. Năm 1995, Việt Nam đã xác định được 2-3 loài vi-rút gây bệnh cho tôm nuôi, dấu hiệu bệnh lý thấy rõ khi tôm bị bệnh là những đốm trắng dưới vỏ kitin, thân đỏ và đầu vàng (báo cáo tôm số 51 trang 10, trích dẫn bởi Nguyễn Minh Hậu, 2006). Theo báo cáo của Các chi cục bảo vệ nguồn lợi các tỉnh phía Nam và một số tỉnh phía Bắc thì trong các năm 1996- 1998 tôm Sú thường chết vào mùa khô (tháng 12 năm trước đến tháng 3 hay tháng 4 năm sau) (Bùi Quang Tề, 2003).
Theo Mai Phương và ctv, 2003 (trích dẫn bởi Hoàng Tuấn, 2007) đầu năm 2001, tôm Sú chết hàng loạt trên diện rộng ở khu vực ĐBSCL được coi là “đại dịch tôm Sú” với dịch bệnh xảy ra ở nhiều nơi nhất là những vùng mới chuyển đổi đã có 20.854 ha bị thiệt hại như Bạc Liêu 5.000 ha, Sóc Trăng 300 ha, Đồng Nai từ những tháng đầu năm 2001 cũng điêu đứng do tôm chết hàng loạt khi mới 30-40 ngày tuổi, một số vùng ở Cà Mau thiệt hại do bệnh tôm lên đến 80%.
28
Năm 2003, cả nước có 546.757 ha nuôi tôm nước lợ thương phẩm trong đó diện tích tôm nuôi bị bệnh và chết là 30.083 ha, riêng các tỉnh từ Đà Nẵng đến Kiên Giang có tới 29.200 ha tôm bị chết chiếm 97,06% diện tích tôm nuôi bị chết cả nước. Giữa tháng 4/2003 tỉnh Sóc Trăng thả nuôi tôm Sú 35.000 ha đã có 4000 ha tôm bị bệnh, Bạc Liêu có 200 ha bị thiệt hại trên 50%. Đến hết tháng 9/2003, số diện tích nhiễm bệnh ở Kiên Giang là hơn 8.000 ha, Cà Mau là 232 ha, nhất
là miền trung thất bại nặng nề khi Khánh Hòa, Quảng Nam, Phú Yên, Ninh Thuận có hàng nghìn ha tôm bị nhiễm bệnh. Riêng thiệt hại của Khánh Hòa ước tính 26,6 tỷ đồng, Bình Định 40 tỷ. Đặc biệt ngoài bệnh MBV, Đốm trắng, HPV… từ những năm trước, đến thời điểm năm 2005 xuất hiện thêm một số bệnh mới như teo gan, phân trắng đã làm cho các tỉnh miền Trung và Sóc Trăng một phen khốn đốn (Bộ Tài nguyên và môi trường, 2005).
Theo Cục Nuôi trồng thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN- PTNT) năm 2008 có gần cả trăm ngàn ha nuôi tôm sú ở các tỉnh ĐBSCL như: Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng... bị thiệt hại, ước tổng giá trị hàng trăm tỷ đồng. Một trong những nguyên nhân chính là tình trạng buông lỏng quản lý khiến một số đàn tôm giống không qua kiểm dịch, phần lớn là tôm kém chất lượng, bị nhiễm bệnh, trong khi năng lực sản xuất tôm giống trong nước không đáp ứng được nhu cầu.
Ngay từ những tháng đầu năm 2010, nhiệt độ cao và biên độ nhiệt độ giữa ngày và đêm lớn, mặn xâm nhập… đã làm thiệt hại rất nhiều diện tích nuôi tôm Sú ở vùng ĐBSCL. Ngoài ra, điều kiện cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm chưa hoàn chỉnh, chưa có kênh cấp và kênh xả riêng biệt, hệ thống thủy lợi hiện đang sử dụng trong tiêu thoát nước nuôi tôm là hệ thống thủy lợi phục vụ cho canh tác nông nghiệp đã bị bồi lắng, ý thức người dân trong việc phòng chống dịch bệnh, dập dịch, ý thức nuôi tôm cộng đồng chưa cao, đây cũng là những nguyên nhân làm cho diện tích tôm bệnh tăng.
Tính đến tháng 03/2010 tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi tại Long An đã xảy ra trầm trọng, diện tích thiệt hại trên toàn tỉnh Long An đã trên 255,95 ha, tập trung chủ yếu ở xã Tân Chánh, huyện Cần Đước.Theo nhận định ban đầu của các nhà chuyên môn, nguyên nhân gây bệnh chủ yếu vẫn là vi-rút đốm trắng tồn lưu trong môi trường (Văn Dũng và Hồng Điệp, 2010).
Tháng 07/2010 một bệnh mới xuất hiện làm gây chết hàng loạt tôm Sú nuôi ở các tỉnh Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu với biểu hiện bệnh lý trên cơ quan gan tụy. Đây là một trong những bệnh lạ mới xuất hiện gây hoang mang cho người nuôi. Bệnh gan tụy trên tôm được tìm thấy trên cả tôm Sú và tôm thẻ chân trắng. Các dấu hiệu bệnh lý bao gồm tôm chậm lớn và phân đàn, gan sưng, nhũn, màu nhạt so với bình thường có trường hợp gan tụy teo nhỏ và dai (Lê Hồng Phước và Nguyễn Văn Hảo, 2011).
29
Theo báo cáo của ngành nông nghiệp Bạc Liêu, đến đầu tháng 9/2010, người dân đã thả gần 116.000 ha tôm, trong đó nuôi theo mô hình công nghiệp và bán công nghiệp hơn 7.600 ha, diện tích còn lại nuôi theo mô hình quảng canh, quảng canh cải tiến kết hợp với nhiều loại thủy sản khác. Nhưng do nhiễm vi-rút
vi bào tử xâm nhập, cộng thêm thời tiết bất lợi nên số diện tích bị thiệt hại khá lớn, đã có gần 20.000 ha tôm nuôi bị chết, gây thiệt hại kinh tế hàng tỷ đồng.
Theo Tổng cục Thú y (Bộ NN-PTNT), tính đến ngày 2/6/2011, diện tích tôm nuôi bị thiệt hại của 7 tỉnh khu vực ĐBSCL đã là 52.470 ha, chiếm hơn 98% diện tích tổng thiệt hại của cả nước.Trong đó, Sóc Trăng là tỉnh thiệt hại nặng nề nhất với trên 19.800 ha tôm chết, chiếm 76% diện tích thả nuôi; Bạc Liêu có 8.586 ha thiệt hại, chiếm 7,6% diện tích; Trà Vinh có 6.546 ha, chiếm 30% diện tích đã thả… Tôm chết chủ yếu ở giai đoạn từ 20-30 ngày sau khi thả, tập trung ở khu vực nuôi thâm canh và bán thâm canh.
2.6 Một số bệnh thường gặp trong quá trình ương nuôi tôm Sú
Bảng 2.2: Bệnh của tôm Sú nuôi thương phẩm theo tháng nuôi (Bùi Quang Tề, 2003)
STT Bệnh
Tháng thứ nhất
Tháng thứ 2 Tháng thứ 3 Tháng thứ 4
MBV
+++
++
+
-
1
Đốm trắng
+
+++
+++
+
2
Đầu vàng
-
+
++
+
3
Hoại tử mắt
-
+
++
+
4
Vibriosis
+
++
+++
+++
5
Nấm
-
+
+++
+++
6
Sinh vật bám
++
++
+++
+++
7
-
++
+++
+++
Phân trắng
8
Tôm bông
-
-
+
+
9
10
Chết đen
-
-
+
+
11 Mềm vỏ
-
+
++
+
-
++
+++
+++
12
Trúng độc
NH3, H2S
Ghi chú: “ – ” rất ít gặp; “+” ít gặp; “++” gặp ở mức độ trung bình; “+++” gặp nhiều và gây thành dịch bệnh làm tôm chết.
Khi nuôi trồng thủy sản phát triển, mức độ thâm canh cao, năng suất tăng nhanh thì cũng kéo theo dịch bệnh bùng phát và ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng và chất lượng sản phẩm nuôi.
2.6.1 Bệnh Vi-rút
2.6.1.1 Bệnh Vi-rút MBV
30
Bệnh do Vi-rút monodon Baculovirus (gọi tắt là MBV), là vi-rút có dạng hình que, kích thước 75 x 300 nm, cấu trúc axít nhân chuỗi đôi DNA. MBV ký sinh ở
tế bào biểu mô hình ống của gan tụy và trước ruột giữa. Nhiễm bệnh tất cả các giai đoạn phát triển của tôm. Nhưng biểu hiện chủ yếu từ giai đoạn giống.
Cơ thể tôm bị nhiễm bệnh có màu xanh sẫm, mang có màu đen, tôm trở nên lờ đờ. Gan tụy teo lại có màu vàng, tôm giảm ăn nên ruột không đầy có khi rỗng, tôm chậm lớn và bị còi, mang và vỏ có nhiều sinh vật bám. Tôm chết dần từ 3-7 ngày (tỷ lệ chết có thể lên đến 70-100%) (Từ Thanh Dung và ctv, 2005).
Theo Đỗ Thị Hòa và ctv (2004), thì khi nghiên cứu về đặc điểm lan truyền của MBV, Paynter và nhiều tác giả khác đã khẳng định rằng vi-rút này có thể lây nhiễm theo 2 trục, trục dọc và trục ngang. Mầm bệnh có thể từ phân tôm mẹ vào môi trường bể đẻ và sẽ lây nhiễm cho ấu trùng tôm khi ấu trùng sử dụng thức ăn bên ngoài, bắt đầu từ giai đoạn Zoae. Ngoài ra MBV cũng lây nhiễm theo trục ngang rất mạnh. MBV có thể nằm trong các thể ẩn (occlusion bodies) theo phân tôm bị nhiễm ra môi trường, nằm ở đáy ao trong nhiều năm và gây bệnh cho tôm khỏe theo trục ngang.
Chẩn đoán bệnh có thể dựa vào những dấu hiệu đã mô tả ở trên, ngoài ra còn có thể sử dụng phương pháp mô học để phát hiện các thể ẩn hoặc dùng phương pháp PCR để nhận biết DNA đặc trưng của MBV.
Trong trại giống để có đàn tôm Postlarvae của tôm Sú có chất lượng cao, ít nhiễm MBV cần chú ý đến việc cách ly mầm bệnh, vệ sinh bồn bể và dụng cụ thật kỹ trước khi ương. Dùng kỹ thuật rửa Nauplius hay trứng qua Formol 100- 200 ppm trong 30 giây, Iodine 1-2 ppm trong 1-2 phút hoặc rửa bằng nước biển sạch trong 3-5 phút.
Để phòng bệnh cho tôm thịt cần lựa chọn đàn tôm giống không hoặc ít nhiễm MBV. Cũng có thể sử dụng biện pháp sốc Formol 100-200 ppm trong 30 giây-1 phút để loại bỏ bớt nhưng con tôm mang mầm bệnh. Tẩy dọn và vệ sinh ao nuôi cẩn thận trước vụ nuôi và không được nuôi tôm ở mật độ quá cao (khuyến khích 25-30 con/m2).
2.6.1.2 Bệnh đầu vàng (YHV)
31
Vi-rút gây bệnh đầu vàng trên tôm được phát hiện đầu tiên ở Thái Lan (Fleget et al., 1995; Lightner et al., 1997). Bệnh đầu vàng được xem là một trong những tác nhân gây bệnh đặc biệt nguy hiểm cho các vùng nuôi thâm canh trước đây ở Thái Lan (Flegel, 1997; Flegel et al., 1995). Sau đó mầm bệnh được phát hiện ở nhiều nước khác thuộc khu vực Châu Á (Albaladejo et al., 1998). Theo Bùi Quang Tề (2003), thì ở Việt Nam, bệnh đầu vàng thường gặp nhất là từ 50-70 ngày tuổi ở các ao nuôi thâm canh, ngoài ra bệnh còn gặp ở một số loài tôm nuôi tự nhiên khác như tôm thẻ, tôm bạc và tôm rảo.
Theo Từ Thanh Dung và ctv (2005), vi-rút gây bệnh có tên Nidovirus có hình que, kích thước 40-50 x 150-170 nm, cấu trúc axít nhân chuỗi đơn ARN. Vi-rút gây bệnh đầu vàng thường ký sinh trong tế bào chất của tế bào ngoại và trung phôi bì ở mang, cơ quan tạo bạch cầu và hồng cầu. Tôm thường bị bệnh từ giai đoạn giống nhất là 50-70 ngày sau khi thả giống.
Dấu hiệu bệnh là tôm ăn nhiều một cách khác thường và tăng trưởng nhanh trong vài ngày, sau đó ngừng ăn. Phần đầu ngực có màu vàng do gan tụy chuyển màu vàng và sưng. Sau 1-2 ngày, tôm bắt đầu lờ đờ trên mặt nước và ven bờ rồi chết với mức độ tăng dần. Tỷ lệ tôm chết có thể lên đến 100% trong vòng 3-5 ngày.
Bệnh đầu vàng ở tôm nuôi có thể được chẩn đoán bằng nhiều phương pháp khác nhau. Một số phương pháp đang được áp dụng phổ biến hiện nay bao gồm phương pháp mô bệnh học (Lightner, 1996), phương pháp RT-PCR (Tang and Lightner, 1999. Trích dẫn bởi Nguyễn Minh Hậu, 2006).
Biện pháp phòng bệnh chủ yếu là chọn nguồn giống tốt, không nhiễm đầu vàng, loại bỏ tôm bệnh, tẩy trùng ao ương nuôi và kênh cấp thoát nước thật triệt để trước khi nuôi. Xử lý nước kỹ trước khi nuôi bằng Chlorine 25 ppm, hạn chế thay nước trong khi nuôi và xử lý nước thải bằng Chlorine (Từ Thanh Dung và ctv, 2005).
2.6.1.3 Bệnh đốm trắng (WSSV)
Theo Từ Thanh Dung và ctv (2005), vi-rút gây bệnh đốm trắng có tên là White spot syndrome virus – WSSV. Vi-rút dạng hình trứng, có một đuôi phụ ở một đầu, bộ gen: 305.107bp (TQ), 292967bp (TL), 307287bp (ĐL). Cấu trúc axít nhân chuỗi đôi ADN và không có thể ẩn. Nhiễm bệnh từ các giai đoạn Mysis đến tôm bố mẹ, đặc biệt tôm từ 4-15 g/con rất mẫn cảm với bệnh đốm trắng.
Tôm bệnh có nhiều đốm trắng khoảng 0,5-3 mm xuất hiện bên trong vỏ, nhất là vỏ đầu ngực và đốt bụng thứ 5 và 6 sau đó lan ra khắp cơ thể tôm. Tôm bị nhiễm bệnh bơi lờ đờ, nổi lên mặt hay bám vào bờ ao, phụ bộ bị gãy hoặc mất, tôm giảm ăn.
32
Những nghiên cứu về đặc điểm sinh học của WSSV cho thấy, vi- rút này chỉ có thể sống tự do trong môi trường nước khoảng 3-4 ngày, nhưng tồn tại lâu trong sinh vật mang mầm bệnh là các loài giáp xác hoang dã (tôm, cua, còng, ghẹ…) đây là con đường lây lan quan trọng của vi-rút này. Các nghiên cứu đều cho thấy vi-rút này có thể nhiễm theo cả 2 trục dọc và ngang: vi-rút này tồn tại trong tuyến sinh dục của tôm mẹ nên có thể lây nhiễm trực tiếp từ mẹ sang ấu trùng
và lây nhiễm từ con bệnh sang con khỏe, từ sinh vật mang mầm bệnh sang tôm nuôi cũng là một đặc trưng lây nhiễm của vi-rút này (Đỗ Thị Hòa và ctv, 2004).
Có thể phát hiện bệnh bằng những dấu hiệu đã mô tả ở trên ngoài ra cũng có thể dùng phương pháp nhuộm mẫu biểu mô bằng thuốc nhuộm Giemsa hay phương pháp PCR.
Là bệnh do vi-rút nên hiện nay chưa có biện pháp chữa trị, nên phòng bệnh là định hướng chủ yếu để quản lý dịch bệnh này trong thực tế sản xuất. Để phòng bệnh cần quan tâm đến một số vấn đề như chỉ nên dùng tôm mẹ không nhiễm vi-rút để tham gia sinh sản nhân tạo trong các trại giống. Nên chọn những đàn tôm giống không nhiễm WSSV bằng kỹ thuật PCR để nuôi thịt. Làm tốt công tác tẩy dọn vệ sinh ao nuôi trước và sau một vụ nuôi.
2.6.1.4 Bệnh phân trắng
Bệnh phân trắng hay còn gọi “teo gan” được gọi dựa dấu hiệu bệnh lý thấy được của bệnh, đó là hiện tượng phân tôm có màu trắng nổi trên mặt nước và hiện tượng gan tôm bị teo hoặc chai cứng. Thực chất có thể đây là hai bệnh khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, sự xuất hiện của bệnh này là điều kiện cho bệnh kia phát triển và lây lan. Có sự hiện diện và thể hiện dấu hiệu bệnh của MBV và HPV trên tiêu bản mô học của tôm bị bệnh phân trắng ở cơ quan gan tụy (Hoàng Tuấn, 2007).
Triệu chứng ban đầu dễ thấy nhất là trong ao nuôi có xuất hiện những đoạn phân trắng nổi trên mặt nước về cuối hướng gió, phân tôm có màu trắng đục. Giai đoạn này tôm có thể giảm ăn nhanh và nếu không có các biện pháp xử lý kịp thời thì tôm có thể bỏ ăn hoàn toàn chỉ trong vòng vài ngày.
Có nhiều ý kiến về tác nhân của bệnh phân trắng trên tôm Sú. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Khắc Lâm, 2006 (trích dẫn bởi Hoàng Tuấn, 2007), thì bệnh phân trắng có thể bao gồm một số tác nhân sau: nhóm vi-rút HPV, nhóm vi khuẩn Vibrio và nhóm tảo lam.
Theo Bùi Quang Tề (2003), thì bệnh gây ra còn có thể do nhóm nguyên sinh động vật Gregarine gây tổn thương thành ruột, dạ dày tạo điều kiện cho nhóm vi khuẩn Vibrio gây hoại tử thành ruột tạo nên các đốm trắng hay vàng nhạt trên thành ruột.
33
Để phòng bệnh phấn trắng người nuôi cần kiểm tra chất lượng con giống trước khi thả, thả giống với mật độ vừa phải quản lý tốt môi trường nước ao hạn chế tảo lam phát triển, thăm thường xuyên để phát hiện bệnh sớm để có hướng điều trị. Cần diệt hết các loại giáp xác trong ao và không cho tôm ăn tươi sống, sử
dụng các chế phẩm EM, Vitamin, khoáng chất định kỳ để tăng cường sức đề kháng của tôm và cải thiện chất lượng nước nuôi.
2.6.2 Bệnh vi khuẩn
2.6.2.1 Bệnh do vi khuẩn Vibriosis
Theo Đỗ Thị Hòa và ctv (2004), Tác nhân gây bệnh chủ yếu là do nhóm vi khuẩn vibrio spp.,. Giống Vibrio thuộc họ Vibrionaceae, có một số đặc điểm chung như sau: có dạng hình que hay hình dấu phẩy, kích thước tế bào 0,3-0,5 x 1,4-2,6 µm. Vibrio không hình thành bào tử và có khả năng chuyển động nhờ một tiên mao hoặc nhiều tiên mao mảnh. Vi khuẩn Vibrio spp., có thể cảm nhiễm và gây nhiều bệnh khác nhau ở động vật thủy sản, đặc biệt là cá và giáp xác sống ở vùng nước có độ mặn cao. Ở ĐVTS, vi khuẩn Vibrio có thể gây một số bệnh khác nhau với những dấu hiệu bệnh lý như sau:
Bệnh phát sáng ở ấu trùng tôm
Khi tôm bị bệnh thường yếu, lờ đờ, kem bắt mồi, bệnh nặng có thể bỏ ăn, trong bóng tối phát ra ánh sáng xanh liên tục. Khi bệnh xảy ra ở các trại giống tác hại thường lớn, đặc biệt ở các giai đoạn tiền ấu trùng như Zoae, Mysis. Tỷ lệ chết có thể đến 100%. Bệnh phát sáng thường gây tác hại lớn ở giai đoạn ấu trùng, hậu ấu trùng, giai đoạn ấu niên trong ao nuôi thịt cũng có thể bị ảnh hưởng nhưng tác hại thấp hơn. Từ mẫu tôm bị phát sáng phân lập được: Vibrio harveyi, V. vulnificus, V. parahaemolyticus.
Bệnh hoại tử cục bộ ở giáp xác
Bệnh này còn có thể có các loại tên gọi khác: bệnh vỏ, bệnh đốm nâu, đốm đen,…Giáp xác khi bị bệnh này thường có một số dấu hiệu sau: xuất hiện các vùng mềm trên vỏ kitin, sau đó tạo nên các điểm nâu, đen hay trắng, tại đó vỏ kitin bị ăn mòn, các phần phụ (chân bò, chân bơi, râu…) và đuôi tôm có thể bị phồng lên rồi mòn cụt dần. Sắc tố Melanin bị khuyếch đại, sự mờ đục của đốt bụng thứ 6 và xuất hiện sắc tố đen trên mô gan tụy. Bệnh này có thể xảy ra ở các giai đoạn khác nhau: tôm mẹ, tôm thịt, ấu trùng và hậu ấu trùng trong các trại giống. Cũng có hiện tượng bệnh xảy ra kèm theo một số dấu hiệu khác trong các ao nuôi tôm như: tôm bị bệnh thường bẩn mình, bẩn mang, có màu hồng đỏ trên cơ thể, yếu, bỏ ăn rồi chết.
Hiện tượng chết có thể xảy ra khi tôm bị nhiễm ở mức độ cấp tính. Nếu mãn tính có thể gây chậm lớn, phân đàn, mềm vỏ…
34
Có nhiều vi khuẩn được phân lập từ bệnh này: Vibrio alginolyticus, Vibrio parahaemolyticus, Vibrio ordali,…
Chẩn đoán bệnh
Có nhiều phương pháp chẩn đoán bệnh do nhóm Vibriosis: Dựa vào dấu hiệu bệnh lý, phương pháp vi sinh vật học (trên môi trường TCBS), phương pháp PCR hoặc kính hiển vi điện tử.
Phòng bệnh
Làm tốt công tác sát trùng bể, ao và dụng cụ trước một đợt sản xuất. Nguồn nước phải được sát trùng và xử lý trước khi sử dụng. Trong ương giống nên rửa trứng hay rửa Nauplius của giáp xác bằng nước biển sạch hay bằng Formol 100- 200 ppm trong 30 giây đến 1 phút. Đến giai đoạn hậu ấu trùng giảm độ mặn xuống 15-20 ppt để kìm hãm sự phát triển của Vibrio.
Si-phông đáy bể và lọc nước để loại bỏ các chất hữu cơ lắng đáy và lơ lửng trong bể ấp, đối với ao nuôi thâm canh thì thay nước đáy, lựa chọn loại thức ăn có chất lượng tốt và tránh cho ăn dư. Dùng chế phẩm sinh học (Probiotic) để ổn định môi trường trong ao, bể kìm hãm sự phát triển của Vibrio gây bệnh.
2.6.2.2 Bệnh vi khuẩn dạng sợi
Do vi khuẩn Leucothrix sp., gây ra. Các tế bào vi khuẩn có hình trụ, dài khoảng 3 µm với sợi tơ rất dài đến khoảng 5 mm, sợi tơ không màu. Vi khuẩn dính vào bề mặt vật rắn, có tính cử động, hiếu khí. Ngoài ra một số vi khuẩn dạng sợi khác như Thiothrix sp., Flexibacter sp., Cytophaga sp., và Flavobacterium sp., cũng có thể xuất hiện. Các vi khuẩn này sống tự do hay nội sinh trên bề mặt vật chủ. Nhiễm trên tất cả các gia đoạn phát triển của tôm. Ở trứng nhiễm bệnh vi khuẩn bám thành thảm dày trên vỏ, làm cản trở hô hấp hay sự nở của trứng. Ở ấu trùng và tôm bột, vi khuẩn dạng sợi phát triển trên bề mặt cơ thể, nhất là trên các lông của phụ bộ. Phương pháp chẩn đoán là kiểm tra trực tiếp ấu trùng, hậu ấu trùng hay các phần phụ, tơ mang của tôm thịt bằng kín hiển vi có độ phóng đại ≥100X hoặc phân lập vi khuẩn trên môi trường agar, hoặc dùng phương pháp mô bệnh học với thuốc nhuộm H và E để phát hiện tác nhân vi khuẩn dạng sợi (Đỗ Thị Hòa và ctv, 2004).
35
Tôm nhiễm bệnh nặng mang sẽ có màu vàng đến xanh, tùy theo loại rong tảo mắc vào đám vi khuẩn. Vi khuẩn dạng sợi làm cản trở hô hấp, lột vỏ, bắt mồi, hoạt động của tôm, gây chậm lớn, chết tôm. Bệnh có thể gây chết trên 80% trong vòng vài ngày đến vài tuần. Để phòng và trị bệnh hiệu quả cần đảm bảo môi trường tốt, quản lý chất thải hữu cơ. Dùng thuốc tím (KMnO4) 2,5-5 ppm trong 4 giờ, Formaline 10-25 ppm, Chloramine T 5 ppm, Oxytetracyline 100 ppm, Neomycine 10 ppm, Streptomycine 1-4 ppm (Từ Thanh Dung và ctv, 2005).
2.6.2.3 Bệnh hoại tử gan ở tôm
Theo Đỗ Thị Hòa và ctv (2004), thì bệnh về gan tôm được xác định là bệnh do nhóm vi khuẩn là một giống mới thuộc α Proteobacteria.
Tôm bị bệnh sẽ giảm bắt mồi hay bỏ ăn, ruột rỗng, sinh trưởng chậm, hệ số chuyển đổi thức ăn cao, tỷ lệ giữa trong lượng và chiều dài nhỏ, vỏ mềm, mang đen tối. Tôm bị bệnh hôn mê, gan tụy hoại tử và có màu trắng nhợt khác biệt với màu nâu vàng bình thường, có các vết sọc đen trên mô gan tụy, gan tụy mềm dễ nát vụn hay hóa lỏng, trung tâm gan chứa nước. Tỷ lệ chết có thể ≥ 90% trong 30 ngày kể từ khi xuất hiện bệnh lý.
Do đây là một loại bệnh mới liên quan đến nhiều tác nhân nên chưa có biện pháp phòng trị đặc hiệu, chủ yếu là chọn nguồn giống tốt, duy trì ổn định môi trường ao nuôi. Đặc biệt cần quan tâm đến sức khỏe của tôm nuôi khi nhiệt độ và độ mặn cao và kéo dài.
2.6.3 Bệnh nấm và động vật nguyên sinh
2.6.3.1 Bệnh nấm ấu trùng ở giáp xác (nấm Mycosis)
Bệnh nấm Mycosis chủ yếu là do nấm Lagenidium sp., . Ngoài ra, những loài khác cũng thường kết hợp Sirolpidium sp., Haliphthoros sp., Atkinsiclla sp. Nguồn mang và lây bệnh nấm cho ấu trùng ương nuôi có thể là do tôm bố mẹ, nước nuôi hay lứa ấu trùng bị nhiễm. Dấu hiệu nhiễm bệnh là nấm phát triển thành một mạng lưới khắp bề mặt trứng hay cơ thể và phụ bộ của ấu trùng, sau đó ăn vào và thay thế phần mô của ấu trùng. Trứng và ấu trùng tôm bị nhiễm nấm Mycosis sẽ chết rất nhanh từ 20-100% trong vòng 48-72 giờ, nếu không được trị kịp thời (Từ Thanh Dung và ctv, 2005).
Theo Đỗ Thị Hòa và ctv (2004), Ấu trùng tôm he (Penaeus spp) khi bị nhiễm nấm thường có một số dấu hiệu: bỏ ăn đột ngột, đứt đuôi phân, khó lột xác và có thể gây chết hàng loạt, đặc biệt là các giai đoạn tiền ấu trùng (Zoae, Mysis). Khi ấu trùng bị nhiễm nấm nặng đưa lên kính hiển vi quan sát ở độ phóng đại ≥100X có thể phát hiện dễ dàng hệ sợi nấm trong suốt, phân nhánh chằng chịt, bao phủ trên bề mặt hệ cơ của cơ thể ấu trùng. Bào tử nấm xâm nhập vào bể ấp trứng và ấu trùng giáp xác thông qua một số con đường như: tôm mẹ, vỏ Artemia, xác tảo, nguồn nước,…đặc biệt nấm này có thể cảm nhiễm trên tôm mẹ nhưng không gây bệnh, khi đưa tôm mẹ vào bể đẻ, bào tử nấm sẽ lây nhiễm từ tôm mẹ sang trứng và ấu trùng.
36
Để chẩn đoán bệnh có thể dựa vào dấu hiệu bệnh lý như đã mô tả ở trên và phương pháp kiểm tra trực tiếp mẫu tươi trứng và ấu trùng bị bệnh trên kính
hiển vi quang học ở độ phóng đại ≥100X hoặc dùng phương pháp mô học hay phân lập trên môi trường agar.
Để phòng bệnh cần ngăn chặn sự xâm nhập của nấm vào bể ấp ấu trùng bằng các biện pháp kỹ thuật khác nhau như: tắm cho tôm mẹ bằng Formol 50-100 ppm trong 10-30 phút, tắm bằng Malachite green 0,005-0,1 ppm, lọc sạch vỏ Artemia trước khi cho ăn, sát trùng kỹ bể và dụng cụ bằng Malachite green hay bằng Formol. Do bệnh này thường xảy ra ở giai đoạn tiền ấu trùng nên sức chịu đựng của ấu trùng với tác dụng phụ của thuốc yếu, tuy vậy nếu phát hiện sớm có thể dùng một số hóa chất diệt nấm như: Malachite green 0,005-0,1 ppm, Treplan 0,05-0,1 ppm phun vào bể ấp sẽ có hiệu quả trị bệnh.
2.5.3.2 Bệnh do sinh vật bám
Theo Từ Thanh Dung và ctv (2005), thì bệnh có thể do một vài nhóm hay rất nhiều nhóm sinh vật cùng gây ra như vi khuẩn dạng sợi, nấm, nguyên sinh động vật hay tảo. Các mầm bệnh này có thể phát sinh từ môi trường nuôi và nhiễm bệnh cho các vật chủ hay từ bố mẹ lây cho trứng trong quá trình sinh sản hay từ trứng cho ấu trùng qua quá trình ấp và nở.
Tùy từng loại sinh vật bám mà cơ thể, mang hay phụ bộ tôm sẽ có màu khác nhau như màu rong tảo do tảo bám, màu bùn đen do chất hữu cơ bám, màu trắng đục do Protozoa bám. Tôm nhiễm bệnh có triệu chứng lờ đờ, nhưng luôn di chuyển lên mặt hay tập trung lên mé ao, bệnh nặng tôm rất khó lột xác và bắt mồi.
Chẩn đoán bệnh có thể dựa vào triệu trứng, quan sát hoạt động của tôm. Quan sát trứng và mẫu tươi các bộ phận như mang, phụ bộ dưới kính hiển vi. Để phòng và trị bệnh có hiệu quả nên giữ môi trường nuôi tốt, xử lý trứng Artemia trước khi cho nở.
2.5.4 Bệnh do các nguyên nhân khác
2.5.4.1 Bệnh mang (mang đen, mang đỏ, phồng nấp mang)
Theo Từ Thanh Dung và ctv (2005), thì bệnh mang có thể có nhiều nguyên nhân cùng tác động. Bệnh có thể do các yếu tố vô sinh như do nhiễm độc của kim loại nặng: Cadium, đồng, Permanganate Kali; do ao bị phèn; do thiếu oxy kéo dài…Các yếu tố hữu sinh như vi-rút, vi khuẩn, nấm, protozoa, tảo cũng tấn công gây bệnh mang tôm. Bệnh đen mang tôm cũng còn do thiếu Vitamin C.
37
Giai đoạn nhẹ, trên mang tôm có những chấm nâu, đen. Tôm bị bệnh nặng thì toàn bộ mang sẽ có màu nâu đen, bị hoại tử. Tôm cua bị bệnh mang sẽ bị tổn thương hô hấp bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nhất là khi môi trường thiếu oxy,
tôm cua bỏ ăn, lờ đờ và có thể chết rải rác đến 80-90% hay giảm chất lượng thương phẩm.
Chẩn đoán bệnh: quan sát bằng mắt thường và kính hiển vi. Phòng trị bệnh chủ yếu là cải thiện chất lượng môi trường ao nuôi, tăng cường dinh dưỡng khoáng chất cho tôm giúp tôm tăng sức đề kháng.
2.5.4.2 Bệnh cong thân
38
Khi tôm bị yếu do suy dinh dưỡng hay môi trường bất lợi cùng với việc gây sốc tôm lúc trời nắng nóng. Khi tôm bị sốc búng đuôi và cơ thể bị cong mà không duỗi bình thường trở lại được. Tôm bị bệnh nhẹ có thể còn bơi lội được với tình trạng lưng gù. Tuy nhiên, tôm bệnh nặng thường nằm nghiêng bên, gây khó khăn cho tôm khi lột xác, bơi lội và bắt mồi. Phòng trị bệnh cho tôm chủ yếu là tăng sức đề kháng tôm nuôi, ổn định môi trường nuôi, tránh gây sốc tôm khi trời nắng nóng (Từ Thanh Dung và ctv, 2005).
CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm thực hiện đề tài
Đề tài thực hiện từ ngày 01/03/2011 đến 30/06/2011.
Bố trí thí nghiệm tại cơ sở sản xuất tôm Sú giống Hậu Giang, địa chỉ số 111 Đường Tầm Vu, Phường Hưng Lợi, Quận Ninh Kiều, Tp Cần Thơ và phòng thí nghiệm Thủy Sản, Khoa Sinh học Ứng dụng – Đại học Tây Đô.
Điều tra tình hình dịch bệnh trong nghề nuôi tôm sú ở huyện Vĩnh Châu và Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
3.2 Vật liệu nghiên cứu
3.2.1 Bố trí thí nghiệm:
Hệ thống bể ương ấu trùng gồm 5 bể Composite, thể tích 4 m3/bể.
Bể lọc sinh học: 2 bể, thể tích 3 m3/bể.
Bể nuôi cấy tảo: 2 bể Composite thể tích 500 lít/bể.
Bể ấp Artemia dạng phễu: gồm 4 bể.
-, ống đo độ mặn.
Hệ thống ống tách đạm.
+, NO2
Nhiệt kế thủy ngân, các bộ test pH, NH4
Các dụng cụ khác như: cân, ống siphon, thao, vợt.
Hóa chất xử lý nước: Chlorine, EDTA, Bcar, formol, iodine.
Chất bổ sung cho môi trường: Shrimp favour, Larvae Power.
Men tiêu hóa: Tz 002, ZP 25.
Thức ăn cho ấu trùng: Frippak-1, Frippak-2, Frippak-150, N2, Lansy.
3.2.2 Điều tra số tình hình nuôi tôm ở Sóc Trăng
Sử dụng phiếu điều tra nông hộ (phụ lục bảng 2).
3.3 Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Theo dõi quá trình sản xuất giống
3.3.1.1 Cách bố trí thí nghiệm
39
Đề tài gồm 2 thí nghiệm, thí nghiệm thứ nhất thực hiện từ ngày 09/03/2011 đến ngày 07/04/2011 và thí nghiệm thứ hai thực hiện từ ngày 21/04/2011 đến ngày 01/06/2011. Mỗi thí nghiệm gồm 5 bể ương ấu trùng tôm Sú (bể Composite có
thể tích 4m3) theo dõi từ lúc bố trí ấu trùng (Nauplius) đến khi thu hoạch (Postlarvae 12).
Bể lọc, bể ương ấu trùng đều được bố trí trong nhà và có hệ thống sục khí. Bể ương cấy tảo, bể ấp Artemia được bố trí dưới mái che nhựa trong, có hệ thống sục khí.
3.3.1.2 Nguồn nước sử dụng
Nước được pha có nồng độ muối 30 ppt (cho bố trí ấu trùng vào bể) hoặc có nồng độ muối 25 ppt (dùng cho cấp thêm nước và cấy tảo) từ nước ót (80-120 ppt) và nước ngọt (lấy từ nhà máy nước). Sau khi lấy nước xong tiến hành xử lý nước với nồng độ Chlorine 60 ppm (60 mg/l). Nếu hoạt tính Chlorine 65% thì lượng cần sử dụng là: 60 ppm/0,65 = 92,3 ppm. Khi xử lý Chlorine cần phải sục khí mạnh trong 2 giờ cho Chlorine hòa tan đều trong bể, tắt sục khí 6 giờ cho Chlorine phát huy tác dụng (diệt mầm bệnh và tác động lên chất lượng nước), sục khí mạnh và liên tục trong 2 ngày sau đó để lắng 2 ngày cuối cùng lọc đưa vào bể chứa. Kiểm tra lại nồng độ Chlorine, pH, kiềm trước khi cấp vào bể ương. Nếu còn Chlorine thì trung hòa bằng Thiosulfate natri (Na2S2O3) (chú ý nếu trung hòa lượng thiosufate natri còn dư sẽ gây độc đến ấu trùng. Sử dụng NaHCO3, CaCO3 để tăng pH và độ kiềm của nước. Môi trường nước thích hợp cho ương tôm có pH từ 7,5-8,5, độ kiềm từ 100-120 ppm. Sau khi kiểm tra xong bước xử lý EDTA 5-10 ppm để kết tủa kim loại nặng (Tăng Minh Khoa, 2010).
Sau đó tiệt trùng bằng Ozon khoảng 10-12 giờ và lọc nước đã xử lý qua dàn lọc than hoạt tính: gồm các ống lọc gòn có kích thước lần lượt 5µm, 1µm, 0,5 µm và cuối cùng là ống lọc than hoạt tính. Sau đó đánh Shrimp favour 1-1,5 g/m3 trước khi lắp ấu trùng 5-6 giờ.
3.3.1.3 Chuẩn bị bể ương
Bể ương ấu trùng, dụng cụ rửa sạch, sau đó khử trùng bể bằng Chlorine nồng độ từ 100-200 ppm, Formol 200-500 ppm. Gần đến ngày sử dụng rửa thật sạch bằng nước ngọt, cấp nước 30 ppt đã pha và khử trùng trước đó.
3.3.1.4 Nuôi cấy tảo
Tảo đóng vai trò làm thức ăn quan trọng trong giai đoạn biến thái của ấu trùng. Đặc biệt ở giai đoạn Zoae, trong sản xuất giống thường sử dụng Chaetoceros sp.
40
Nguồn tảo gốc Chaetoceros sp., mua tại Khoa thủy sản – Đại học Cần Thơ. Để tạo được lượng sinh khối ổn định cho tảo thường dùng một số hóa chất (môi trường Walne) để tạo nguồn dinh dưỡng cho chúng (Thành phần môi trường Walne phụ lục bảng 2).
3.3.1.5 Bố trí ấu trùng vào bể
Nguồn ấu trùng: mua tôm bố mẹ (ở Gạch Gốc – Tỉnh Cà Mau) về cho đẻ và thu ấu trùng bố trí thí nghiệm.
Thu ấu trùng từ bể đẻ, rửa ấu trùng qua dung dịch formol 300 ppm trong 30 giây và dung dịch iodine 50 ppm trong 30 giây trước khi thuần hóa và bố trí vào bể ương. Trứng không nở và nước còn lại trong bể đẻ cần phải được tiệt trùng bằng Chlorine 30 ppm trước khi xả bỏ (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009). Ấu trùng sau khi tắm qua dung dịch Formol và Iodine được cho vào xô 20 lít và cho sục Ozone trong thời gian 1-2 phút, khi ấu trùng đã phân tán đều trong thùng ta tiến hành định lượng: dùng Micropipete (1ml) thu ngẫu nhiên ở ba vị trí khác nhau, tính số ấu trùng trung bình trong 1ml, sau đó nhân với thể tích nước trong thùng chứa ấu trùng để tính ra lượng ấu trùng bố trí vào bể ương theo công thức:
Số ấu trùng sau ba lần đếm x 1000
Số ấu trùng bố trí = xV (3.1)
V: là thể tích nước trong thùng chứa ấu trùng (lít).
3
3.3.1.6 Thức ăn và chế độ cho tôm ăn
Các loại thức ăn sử dụng: gồm Artemia, tảo tươi, và thức ăn nhân tạo. Ấu trùng Artemia: được cho nở từ trứng Artemia (Sanders-USA) sấy khô đóng hộp. Trứng Artemia cần được khử trùng trước khi cho nở nhằm loại bỏ mầm bệnh bám trên vỏ trứng. Ngâm trứng Artemia cần cho nở trong nước ngọt 2 giờ cho trứng trương nước và sau đó ngâm trong dung dịch hóa chất khừ trùng (Javel, Chlorine) 200 ppm trong 20 phút với mật độ khử trùng là 50 g trứng/1 lít dung dịch. Sau đó rửa sạch trứng bằng lưới lọc 100-150 µm và cho nở (Tăng Minh Khoa, 2010). Trứng Artemia ấp ở độ mặn 25 ppt, mật độ ấp 2 g/lít sục khí mạnh liên tục 15-24 giờ trứng nở. Thu ấu trùng Artemia: tắt sục khí, đậy kín bể, chờ 15 phút cho trứng nổi lên, mở val thu ấu trùng tách biệt dưới đáy bể, rửa sạch cho tôm ăn hoặc bảo quản lạnh cho tôm ăn nhiều lần.
Chế độ cho ăn và liều lượng cho ăn theo Thạch Thanh, 1999 (phụ lục bảng 4 ).
3.3.1.7 Quản lý môi trường bể ương
41
Trong thời gian ương tôm từ giai đoạn Nauplius đến Mysis 1 nên che bể với tấm bạt để giữ tối bể, ổn định nhiệt độ, tảo không phát triển quá mức và tránh lây lan bệnh.
Cấp nước vào bể ương khoảng 2 m3 đến khi ấu trùng chuyển qua giai đoạn Mysis thì cấp thêm cho đủ 3 m3 và đến giai đoạn Postlarvae thì cấp nước cho đủ 4 m3. Trước mỗi lần cấp nước đánh Shrimp favour hoặc Larvae Power từ 1-1,5 g/m3 nhằm ổn định môi trường nước. Tiến hành si-phông đáy bể cuối mỗi giai đoạn và từ giai đoạn Postlarvae trở đi thì si-phông định kì 2 ngày 1 lần. Chỉ thay nước khi thật sự cần thiết. Khi ấu trùng chuyển sang giai đoạn Mysis cho bể ương lưu thông với bể lọc sinh học.
Từ giai đoạn Zoae trở đi bổ sung men vi sinh (Probiotic) vào bể ương định kì 3- 4 ngày một lần, càng về cuối quá trình ương có thể tăng lên. Sử dụng nhóm vi sinh có nhóm Nitrosomonas sp., Nitrobacter sp., Bacillus spp., và Lactobacillus spp.
Ưu điểm của hệ thống tuần hoàn là ít tốn kém nước, môi trường nước ổn định. Do hạn chế dùng thuốc kháng sinh trong quá trình ương nên ấu trùng khỏe, nhưng khi gặp trở ngại về dịch bệnh sẽ khó xử lý (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009).
3.3.1.8 Chuẩn bị bể lọc sinh học
Bể lọc gồm một bể đôi có thể tích 3 m3 được ngăn ra làm 2 và vận hành cho 3 bể ương. Nước từ bể ương chảy tràn qua ống tách đạm (có gắn máy tách đạm) chảy qua bể đá thứ nhất, nước từ đưới đáy bể dâng lên đi qua lớp đá thứ nhất (đá 1x2 đã có vi khuẩn) và tràn qua bể đá thứ 2 theo hướng từ trên xuống và máy bơm đặt ở đáy bể lọc thứ hai sẽ bơm nước trở lại bể ương và cứ như thế tiếp tục quá trình tuần hoàn.
Trước khi ương ấu trùng một tuần, nên vận hành nội bộ bể lọc bằng cách cho nước vào với độ mặn thích hợp. Bổ sung đạm NH4Cl, nếu nồng độ này dưới 0,1 ppm thì vi khuẩn đã bắt đầu hoạt động. Tiếp theo bổ sung thêm NH4Cl 0,5 mg/l. Sau 4-5 ngày kiểm tra lại và bắt đầu cho thông nước với bể ương khi NH4Cl dưới 0,1 ppm (New, 2005. Trích dẫn bởi Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009).
3.3.1.9 Theo dõi các chỉ tiêu môi trường và ấu trùng
- 4 ngày
- bằng bộ test Sera NH4
+/NH3, NO2
Các chỉ tiêu môi trường theo dõi
42
Nhiệt độ được đo bằng nhiệt kế với nhịp đo 2 lần/ngày. pH xác định bằng phương pháp so màu (bộ Test pH) 2 lần/ngày. + Kiểm tra hàm lượng NH4 và NO2 /lần.
Theo dõi mẫu ấu trùng Thu mẫu ấu trùng 2 ngày/lần, số lượng ấu trùng mỗi lần thu là 50 ấu trùng. Ấu trùng được quan sát dưới kính hiển vi: quan sát giai đoạn phát triển và ghi nhận sự phát triển của ấu trùng. Sử dụng Bảng đánh giá chất lượng ấu trùng và hậu ấu trùng (dựa theo bảng Các chỉ tiêu đánh giá ấu mẫu ấu trùng và hậu ấu trùng dựa theo FAO, 2007) (trích dẫn bởi Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009) (phụ lục bảng 1) để ghi nhận sự phát triển của ấu trùng và hậu ấu trùng. Ước lượng tỷ lệ sống của hậu ấu trùng Từ số lượng Postlarvae thu hoạch được, tỷ lệ sống của hậu ấu trùng được xác định theo công thức
TLS =
x 100% (3.2)
Số ấu trùng ban đầu
Số hậu ấu trùng có trong bể ương
3.3.2 Điều tra tình hình dịch bệnh trong quá trình nuôi tôm Sú ở Sóc Trăng
Điều tra tại 2 vùng nuôi tôm chính của tỉnh là các hộ nuôi thuộc huyện Vĩnh Châu và huyện Mỹ Xuyên. Sử dụng phiếu khảo sát nông hộ điều tra 30 hộ nuôi tôm sú ở Sóc Trăng, nội dung phỏng vấn chủ yếu về các khía cạnh kỹ thuật và một số bệnh thường xuất hiện trong quá trình nuôi tôm.
Tổng hợp số liệu về tình hình nuôi và dịch bệnh phát sinh trong quá trình nuôi tôm Sú ở tỉnh Sóc Trăng.
3.3 Phương pháp phân tích số liệu
43
Khi tiến hành thu thập số liệu hoàn tất thì các số liệu và thông tin sẽ được tổng hợp, kiểm tra bổ sung mã hóa trước khi nhập vào máy tính. Sử dụng chương trình Excel để xử lý số liệu.
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Kết quả sản xuất giống tôm Sú
4.1.1 Tổng quan về cơ sở sản xuất giống Hậu Giang
Cơ sở sản xuất giống Hậu Giang được xây dựng và đi vào hoạt động từ năm 2009. Cơ sở chuyên về sản xuất giống tôm Sú (Penaeus monodon), gồm 2 trại: một trại ương 48 m3 và một trại tôm mẹ 12 m3. Sản xuất theo quy trình lọc sinh học tuần hoàn của Khoa Thủy Sản – Đại học Cần Thơ, mỗi năm trại cung cấp số lượng khoảng 10 triệu PL cho các hộ nuôi, chủ yếu là khu vực ĐBSCL.
4.1.2 Các yếu tố môi trường bể ương
Điều kiện môi trường là nhân tố quan trọng tác động trực tiếp lên sự sinh trưởng và phát triển của ấu trùng. Các yếu tố môi trường bể ương trong 2 thí nghiệm đã tiến hành được ghi nhận như sau:
Thí nghiệm 1
Thí nghiệm 2
Các yếu tố Nhiệt độ (0C)
S
27,5 ± 0,3
28,5 ± 0,3
C
28,2 ± 0,3
29,0 ± 0,3
pH
S
7,6 ± 0,2
7,8 ± 0,2
C
7,81 ± 0,2
8,0 ± 0,3
1,1 ± 0,8
1,2 ± 0,8
NO2
- (ppm) +
1,0 ± 0,7
1,1 ± 0,8
(ppm)
NH4
Bảng 4.1: Các yếu tố môi trường bể ương
Bảng 4.2: Nhiệt độ (oC) của các bể ương
TN
Thời gian
Bể
2
1
3
4
5
S
27,6 ± 0,2
27,4 ± 0,2
27,6 ± 0,3
27,6 ± 0,5
27,5 ± 0,3
1
C
28,4 ± 0,2
28,2 ± 0,2
28,0 ± 0,4
28,1 ± 0,3
28,2 ± 0,3
S
28,4 ± 0,2
28,5 ± 0,3
28,6 ± 0,3
28,4 ± 0,3
28,6 ± 0,2
2
C
29,0 ± 0,2
29,2 ± 0,3
29,0 ± 0,3
29,0 ± 0,3
28,8 ± 0,4
Yếu tố nhiệt độ
44
Kết quả theo dõi yếu tố nhiệt độ môi trường nước các bể ương ở 2 TN đã thực hiện thì nhiệt độ biến động trong khoảng từ 27,5 ± 0,3 đến 29,0 ± 0,3. Nhiệt độ buổi chiều ở các bể ương thì cao hơn nhiệt độ buổi sáng. Nhiệt độ giữa các bể
ương chênh lệch không nhiều là do các bể ương được bố trí trong cùng một khu vực nên chịu sự chi phối từ môi trường bên ngoài là như nhau. TN 2 bố trí trong khoảng thời gian có nhiệt độ cao nên nhiệt độ trung bình cao hơn ở TN 1.
Theo Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004), thì nhiệt độ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến mọi hoạt động sống của tôm, khi nhiệt độ trong nước thấp dưới mức nhu cầu thì trạng thái sinh lý của tôm sẽ bị ảnh hưởng, các quá trình chuyển hóa bên trong cơ thể thay đổi. Khi nhiệt độ quá giới hạn chịu đựng kéo dài thì tôm bị rối loạn sinh lý và chết. Vũ Thế Trụ (2001), cho rằng ấu trùng tôm sú phát triển tốt trong môi trường nhiệt độ khoảng 27-30oC nhưng Whetstone et al., 2002 (trích dẫn bởi Trương Minh Trường, 2010), cho rằng tôm Sú có thể sống và sinh trưởng tốt ở nhiệt độ từ 23-34oC và chênh lệnh nhiệt độ ngày đêm không quá 5oC trong ngày được xem là tối ưu cho tôm nuôi.
Theo kết quả nghiên cứu của Lê Đông Cung (2010), thì nhiệt độ nước trong bể ương trung bình là 29,18 ± 0,05oC và Trương Minh Trường (2010), là 29,30oC, so với các kết quả trên thì yếu tố nhiệt độ trong suốt quá trình thí nghiệm không chênh lệch nhiều. Như vậy, nhiệt độ của các bể ương tương đối ổn định và nằm trong khoảng thích hợp cho ấu trùng phát triển.
Bảng 4.3 pH của các bể ương ở hai thí nghiệm
TN
Thời gian
Bể
1
2
3
4
5
1
S
7,7 ± 0,2
7,7 ± 0,2
7,8 ± 0,3
7,6 ± 0,2
7,7 ± 0,2
C
7,6 ± 0,2
7,8 ± 0,3
7,9 ± 0,3
7,8 ± 0,2
7,8 ± 0,2
2
S
7,8 ± 0,2
7,8 ± 0,2
7,7 ± 0,2
7,9 ± 0,3
7,7 ± 0,2
C
7,9 ± 0,2
8,1 ± 0,3
7,9 ± 0,3
7,9 ± 0,3
8,0 ± 0,2
Yếu tố pH
Yếu tố pH của các bể ương ở 2 TN biến động trong khoảng từ 7,7 ± 0,2 đến 8,1 ± 0,3. pH là một trong những nhân tố môi trường có ảnh hưởng rất lớn trực tiếp hay gián tiếp đối với đời sống thủy sinh vật, pH thích hợp cho thủy sinh vật là 6,5-9,0 (Trương Quốc Phú, 2006).
Theo Tăng Minh Khoa (2010), cho rằng khoảng pH cần duy trì trong bể ương tôm sú là 7,5-8,5 và đây cũng là pH tối ưu cho sự phát triển của ấu trùng tôm sú là 7,5-8,5 (Kungvankij et al., 1986. Trích dẫn bởi Võ Tuấn Kiệt, 2005).
45
Theo kết quả của Trương Minh Trường (2010), thì pH trong bể ương biến động từ 7,8-8,17 và của Lê Đông Cung (2010), là 7,59-7,98. Như vậy, giá trị pH trung bình của 2 thí nghiệm không chênh lệch nhiều với các nghiên cứu trước
đó, pH ở các bể ương tương đối ổn định và đều nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng.
Ammonia (NH4
+/NH3)
Bảng 4.4: Ammonia (ppm) của các bể ương ở hai thí nghiệm
TN/Bể 1
2
3
4
5
1
1,1 ± 0,8
1,3 ± 0,8
0,8 ± 0,6
1,1 ± 0,8
0,9 ± 0,6
2
1,0 ± 0,8
1,3 ± 0,8
1,2 ± 0,8
1,1 ± 0,8
1,25 ± 0,8
Kết quả theo dõi hàm lượng Ammonia trong các bể ương của 2 thí nghiệm
Từ kết quả trên cho thấy hàm lượng ammonia biến động trong khoảng từ 1,0 ± 0,8 đến 1,3 ± 0,8. Hàm lượng trung bình của các bể ương trong hai TN đã tiến hành là 1,0 ± 0,7 và 1,1 ± 0,8.
Ammonia là yếu tố gây độc trực tiếp cho ấu trùng tôm trong hệ thống ương nuôi. Trong hệ thống ương ammonia được hình thành do quá trình phân hủy các hợp chất đạm, xác bã thực vật phù du, sản phẩm bài tiết của ấu trùng. Ammonia + (không độc) tùy thuộc nhiều vào pH và nhiệt độ có thể ở dạng NH3 hay NH4 nước. Khi nhiệt độ và pH nước tăng thì hàm lượng NH3 trong nước sẽ gia tăng, tính độc của ammonia đối với ấu trùng tôm sẽ tăng và ngược lại. Theo Whetstone et al., 2002 (trích dẫn bởi Trương Minh Trường, 2010), cho rằng tôm sú có thể tồn tại và phát triển tốt ở hàm lượng ammonia dao động từ 0,2-2 ppm. Hàm lượng ammonia giai đoạn đầu của quá trình ương còn ở mức thấp do chất thải còn ít, càng về sau thì hàm lượng ammonia tăng lên chứng tỏ nhóm vi khuẩn Bacillus đã ổn định và phát huy tốt vai trò của mình trong việc chuyển +. Kết quả trên cho thấy hàm lượng Ammonia tổng ở hóa đạm tạo ra nhiều NH4 các bể ương nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng.
-)
Nitrite (NO2
Bảng 4.5: Nitrite (ppm) của các bể ương ở hai thí nghiệm
TN/Bể 1
2
3
4
5
1
1,1 ± 0,8
1,3 ± 0,8
0,9 ± 0,6
1,3 ± 0,8
1,0 ± 0,8
2
1,3 ± 0,8
1,3 ± 0,8
1,3 ± 0,8
1,2 ± 0,8
1,3 ± 0,7
-
- trong 2 TN biến động từ 0,9 ± 0,6 đến 1,3 ± 0,8. Đạm nitrite Hàm lượng NO2 -) rất độc đối với tôm nuôi. Nguồn nitrite được tạo ra chủ yếu là do quá (NO2 trình chuyển hóa từ đạm ammonium nhờ hoạt động của vi khuẩn Nitrosomonas, sau đó nhờ vi khuẩn Nitrbacter thì nitrite sẽ chuyển hóa thành nitrate (không độc). Theo Boyd (1998) (trích dẫn bởi Trương Minh Trường, 2010), thì NO2 có
46
Kết quả theo dõi hàm lượng Nitrite trung bình ở các bể ương là
tác dụng gây độc cho tôm cá khi lớn hơn 2 ppm, hàm lượng thích hợp cho ao - trong 2 nghiệm thức là nuôi thủy sản phải nhỏ hơn 0,3 ppm. Nhìn chung NO2 - trung tương đối cao nhưng vẫn phù hợp cho tôm (0-2 ppm), hàm lượng NO2 bình của các bể ương của hai nghiệm thức lần lượt là: 1,1 ± 0,8 và 1,3 ± 0,8. - tăng nhanh có thể do mật độ vi khuẩn cao nên quá trình Hàm lượng NO2 - vẫn không giảm chuyển hóa đạm tăng, về cuối thí nghiệm thì hàm lượng NO2 mà ổn định ở mức 2 ppm chứng tỏ nhóm mật số nhóm vi khuẩn Nitrobacter còn thấp.
4.1.3 Thời gian biến thái của ấu trùng
Bảng 4.6: Thời gian biến thái (giờ) của ấu trùng tôm Sú
TN
Bể
Giai đoạn
Nauplius
Zoae
Mysis
46
120
96
TN1
1
48
125
96
2
45
110
93
3
46
110
90
4
46
106
93
5
44
96
92
TN2
1
42
106
90
2
42
108
81
3
40
103
83
4
40
102
79
5
Mỗi giai đoạn ấu trùng cần phải có một thời gian hoàn tất phát triển và biến thái chuyển sang giai đoạn kế tiếp, thời gian biến thái của từng giai đoạn phụ thuộc vào nhiệt độ, thức ăn và mật độ ương…Quan sát sự biến thái của ấu trùng từ giai đoạn này sang giai đoạn khác đạt tỷ lệ trên 90% ghi nhận thời gian biến thái của ấu trùng.
Từ kết quả trên cho thấy thời gian trung bình các giai đoạn Nauplius là 43,9 ± 2,76 giờ, Zoae giờ là 108,6 ± 8,50 và Mysis là 89,3 ± 6,14 giờ. Thời gian các giai đoạn của ấu trùng ở TN1 kéo dài hơi ở TN2, do nhiệt độ trung bình ở TN2 cao hơn TN1 điều đó cho thấy nhiệt độ có ảnh hưởng đến thời gian biến thái của ấu trùng và điều này phù hợp với kết luận của Nguyễn Văn Chung (2000), tốc độ phát triển của ấu trùng các loài tôm he chịu ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh, nhất là nhiệt độ.
47
Theo Nguyễn Văn Thường (1990), sự biến thái của ấu trùng tôm he từ Nauplius đến Zoae 2-3 ngày, Zoae đến Mysis: 3-4 ngày, Mysis đến Postlarvae: 4-5 ngày.
Theo kết quả nghiên cứu của Phạm Văn Quyết (2000), thì thời gian biến thái của ấu trùng tôm sú từ Nauplius đến Zoae là 1,5-2 ngày, Zoae đến Mysis 4-5 ngày và từ Mysis đến Postlarvae: mất 3-4 ngày.
Như vậy, thời gian biến thái của ấu trùng ở hai thí nghiệm đã thực hiện không sai khác lớn so với những kết quả nghiên cứu trước và phù hợp cho sự phát triển của ấu trùng.
4.1.4 Kết quả theo dõi ấu trùng và hậu ấu trùng
Qua quá trình theo dõi ấu trùng tôm Sú qua 2 thí nghiệm cho thấy sự phát triển của ấu trùng bình thường, không phát hiện dịch bệnh cũng như kí sinh trùng trong suốt quá trình ương. Do làm tốt các công tác phòng bệnh trước khi ương giống.
Do trại nuôi vỗ và cho tôm mẹ đẻ cách xa khu vực trại ương nên phần nào cách ly được những mầm bệnh từ con tôm mẹ. Theo nhóm nghiên cứu chương trình gia hóa tôm Sú bố mẹ (Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2) thì tôm bố mẹ có nguồn gốc tự nhiên là nguồn lây lan các mầm bệnh virus nguy hiểm (đặc biệt vi- rút đốm trắng WSSV, vi-rút đầu vàng YHV, vi-rút gây còi MBV). Mặt khác, trại sản xuất giống tôm nước lợ mặn nhưng hoạt động ở vùng nước ngọt, cách xa vùng nuôi tôm thương phẩm là một ưu thế của con giống tôm sú sản xuất ở Cần Thơ nói chung và Cơ sở Hậu Giang nói riêng.
Theo Đỗ Thị Hòa và ctv (2004), Kết quả nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy nhóm vi khuẩn Vibrio gây bệnh phát sáng tốn tại phổ biến ở nước biển ven bờ và mật độ có thể tăng lên nhiều lần vào các ngày biến động do bão, gió mùa hay áp thấp nhiệt đới. Bệnh phát sáng do nhóm Vibrio thường thấy ở những vùng có độ mặn cao, nhưng phát triển mạnh ở độ mặn 30-35 ppt và dưới 5 ppt không thấy bệnh xuất hiện còn theo Nguyễn Văn Hảo (2004), thì bệnh phát sáng lây lan nhanh vào mùa nóng. Do nguồn nước ương trong trại là nguồn nước ót lấy từ ruộng muối có độ mặn cao và được xử lý kĩ trước khi sử dụng nên cách ly được mầm bệnh phát sáng.
4.1.5 Tỷ lệ sống của hậu ấu trùng
48
Trong quá trình ương ấu trùng, tỷ lệ sống phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chất lượng ấu trùng, mật độ ương, điều kiện thời tiết ảnh hưởng đến môi trường nước bể ương và kể cả dịch bệnh.
Bảng 4.7: Tỷ lệ sống của hậu ấu trùng
TN
Bể
SL Nauplius
SL Postlarvae
TLS
bố trí
thu hoạch
(%)
1
900.000
450.000
50,0
2
800.000
408.000
51,0
1
3
1.200.000
800.000
66,6
4
1.000.000
480.000
48,0
5
900.000
500.000
55,0
1
900.000
554.000
61,5
2
950.000
570.000
60,0
2
3
1.200.000
562.000
46,8
4
1.300.000
600.000
46,1
5
1.200.000
600.000
50,1
TLS (%)
70 60 50 40 30
20 10
0
Bể ương
1
2
3
4
5
TN1
TN2
Hình 4.1: Tỷ lệ sống của hậu ấu trùng của các bể ương
Qua bảng số liệu cho thấy tỷ lệ sống của ấu trùng ở 2 TN biến động từ 46,1- 66,6%, tỷ lệ sống giữa các bể không đều nhau, vì các bể ương được bố trí trong cùng một khu vực, nguồn nước và cách chăm sóc, nhưng tỷ lệ sống của hậu ấu trùng ở các bể có sự chênh lệch là do tỷ lệ sống còn phụ thuộc nhiều vào chất lượng của ấu trùng khi bố trí.
49
Từ biểu đồ cho thấy, tỷ lệ sống giữa các bể ương là không đều nhau, cao nhất là bể số 3 ở TN1 là 66,6%, thấp nhất là bể số 4 ở TN2 là 46,1%. Tỷ lệ sống của hậu ấu trùng ở các bể ương hai TN có sự chênh lệch, ở TN2 thời gian biến thái của ấu trùng sớm hơn TN1 do nhiệt độ cao hơn, nhưng nhìn chung tỷ lệ sống ở
TN2 thấp hơn TN1, có thể thấy rằng tỷ lệ sống của ấu trùng và hậu ấu trùng còn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác, không chỉ do chất lượng của ấu trùng.
Tỷ lệ sống của hậu ấu trùng là yếu tố quyết định đến hiệu quả sản xuất và chất lượng đàn tôm giống. Qua 2 bảng trên cho thấy tỷ lệ sống của tôm là khá cao, trung bình ở TN1 là 54,2% và TN2 là 53,0%, còn theo Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương (2009), thì ương ấu trùng tôm Sú bằng quy trình tuần hoàn tại Khoa Thủy Sản – Đại học Cần Thơ tỷ lệ sống của tôm biến động trong khoảng 40-55%. So với kết quả của Tăng Minh Khoa (2001), Huỳnh Hàn Châu (2005) và Lê Đông Cung (2010), thì tỷ lệ sống của tôm ở hai thí nghiệm trên không có sự chênh lệch nhiều.
4.2 Kết quả điều tra tình hình nuôi tôm Sú ở Sóc Trăng
Nuôi tôm nước lợ là ngành kinh tế chủ lực của tỉnh Sóc Trăng .Trong đó, mô hình nuôi tôm thâm canh ngày càng khẳng định vai trò của mình trong nghề nuôi thủy sản ở tỉnh. Tuy nhiên, việc thâm canh hóa diễn ra nhanh, môi trường ngày càng xấu đi, đã tạo điều kiện cho dịch bệnh lây lan khó kiểm soát. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến nghề nuôi tôm của tỉnh trong vài năm gần đây.
4.2.1 Thông tin chung về nông hộ nuôi tôm ở địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành vào tháng 5/2011, điều tra tình hình nuôi và dịch bệnh xảy ra trong nghề nuôi tôm Sú của 30 hộ nuôi thuộc 2 huyện Vĩnh Châu và Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
Kinh nghiệm và trình độ chuyên môn
Bảng 4.8: Kinh nghiệm của các hộ nuôi tôm tại địa bàn nghiên cứu
Số năm kinh nghiệm
Số hộ
Tỷ lệ (%)
3 – 5 năm
6
20,0
6 – 9 năm
16
53,3
10 – 12 năm
8
26,7
Mức độ thâm canh cao trong NTTS đặc biệt là nghề nuôi tôm Sú góp phần nâng cao năng suất cũng như sản lượng. Nhưng đồng thời người nuôi tôm cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn trong sản xuất, vì vậy trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của hộ nuôi cũng như người trực tiếp vận hành hệ thống trang trại là rất quan trọng, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất.
50
Kết quả điều tra 30 hộ nuôi tôm sú tại địa bàn điều tra cho thấy người nuôi tôm có số năm kinh nghiệm từ 3-12 năm (trung bình là 7,8 năm), trong đó hộ nuôi có kinh nghiệm từ 3-5 năm là 6 hộ chiếm tỷ lệ 20,0%, số hộ nuôi có kinh nghiệm từ 6-9 năm là 16 hộ chiếm tỷ lệ 53,3%, số hộ nuôi có kinh nghiệm từ
Bảng 4.9: Trình độ chuyên môn của các hộ nuôi tôm tại địa bàn nghiên cứu
Trình độ chuyên môn
Số hộ
Tỷ lệ (%)
Tập huấn
17
56,7
Kinh nghiệm
13
43,3
10-12 năm là 8 hộ chiếm tỷ lệ 26,7%. Nhóm hộ nuôi có kinh nghiệm từ 6-9 năm chiếm tỷ lệ cao nhất với 53,3% còn theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phương và ctv (2008) thì trình độ chuyên môn của các hộ nuôi trung bình là 6,9 năm, trong đó số hộ có kinh nghiệm từ 6 năm trở lên chiếm 85%.
43,3%
56,7%
Kinh Nghiệm Tập huấn
Hình 4.2: Trình độ chuyên môn của người nuôi tôm
Qua bảng số liệu trên cho thấy kỹ thuật của người nuôi tôm chủ yếu có từ thực tế nhiều năm sản xuất và tham gia các lớp tập huấn, trong đó từ kinh nghiệm là 13 hộ chiếm tỷ lệ 43,3%, được tập huấn là 17 hộ chiếm tỷ lệ 56,7%.
Từ biểu đồ trên cho thấy số hộ nuôi tham gia các lớp tập huấn chiếm tỷ lệ cao (56,7%), cho thấy công tác khuyến ngư tại địa bàn khảo sát hoạt động tốt và tinh thần tìm hiểu và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất của người dân là rất cao.
4.2.2 Một vài khía cạnh kỹ thuật trong các mô hình nuôi
Diện tích nuôi
51
Kết quả điều tra các hộ nuôi tôm sú tại địa bàn nghiên cứu, 30 hộ nuôi với tổng số lượng ao là 48 ao, số ao nuôi mỗi hộ dao động từ 1-4 ao.
Bảng 4.10: Thông tin mô hình các hộ nuôi tại địa bàn nghiên cứu
Diễn giải
Số liệu
Tổng diện tích (ha)
0,93 ± 0,51
Diện tích mặt nước (ha)
0,81 ± 0,41
Diện tích ao lắng (ha)
0,13 ± 0,09
Mực nước (m)
1,2 – 1,4
Tỷ lệ diện tích ao lắng/ao nuôi (%)
13 – 22
Diện tích mặt nước ao nuôi trung bình là 0,81 ± 0,41 ha, độ sâu của ao nuôi dao động từ 1,2-1,4 m. Theo tiêu chuẩn ngành thủy sản Việt Nam (2002), thì diện tích ao nuôi thâm canh từ 0,5-1 ha, tối ưu là 1 ha. Số hộ nuôi không sử dụng ao lắng là 23,33%, diện tích ao lắng trung bình 0,13 ± 0,09. Trong số hộ có ao lắng thì tỷ lệ diện tích ao lắng so với diện tích ao nuôi tôm thịt nhỏ nhất là 13% và lớn nhất là 22%, còn theo Trầm Phước Hưng (2008) thì có đến 97% các hộ nuôi có ao lắng, diện tích ao lắng 0,50 ± 0,56 ha/hộ.
Theo các hộ được điều tra cho biết diện tích nuôi lớn gây khó khăn trong việc quản lý dịch bệnh, khi bệnh xảy ra thì chi phí thuốc, hóa chất điều trị lớn và không hiệu quả còn diện tích ao nuôi quá nhỏ môi trường dễ biến động hơn, khó khống chế dẫn đến bị thiệt hại. Diện tích ao lắng chủ yếu là dùng để xử lý nước và dự trữ nước dùng cho quá trình cấp thêm và thay nước cho ao nuôi mà ít sử dụng nguồn nước của ao lắng để cấp cho ao nuôi tôm thịt vào thời điểm bắt đầu vụ nuôi. Do tận dụng diện tích đất canh tác sẵn có và điều kiện đầu tư nhất định của gia đình nên diện tích mỗi ao nuôi tại địa bàn điều tra không đồng đều, ngoài sự chi phối bởi chi phí đầu tư thì diện tích ao nuôi vừa và nhỏ sẽ phù hợp cho việc quản lý ở mức độ nông hộ. Nhìn chung diện tích ao nuôi tôm Sú của các hộ khảo sát phù hợp với tiêu chuẩn ngành thủy sản.
Phương pháp và thời gian cải tạo
Cải tạo ao nuôi trước khi thả tôm là khâu rất quan trọng trong quá trình nuôi tôm và đòi hỏi phải thực hiện trước khi đưa ao vào sử dụng lần đầu cũng như trước mỗi vụ nuôi. Mục đích của việc cải tạo ao là chuẩn bị cho tôm nuôi có được một nền đáy ao sạch, chất lượng nước thích hợp và ổn định, ngăn ngừa hay hạn chế dịch bệnh, các sinh vật khác hay địch hại xâm nhập và phát triển trong ao nuôi.
52
Qua kết quả điều tra tại địa bàn nghiên cứu thì đa số các hộ nuôi áp dụng phương pháp cải tạo khô, chủ yếu là các bước sau: dọn tẩy ao, sên vét loại bỏ bùn đáy ao, phơi nắng, bón vôi và chuẩn bị nước để thả tôm giống.
Bảng 4.11: Hóa chất sử dụng trong cải tạo ao nuôi
Tên hóa chất
Số hộ sử dụng
Tỷ lệ (%)
BKC
30
100
16
53,3
CaCO3
CaO
30
100
Chlorine
22
73,3
DAP
20
66,7
Mass 500
16
53,3
Saponine
10
33,3
Thuốc cá dây
20
66,7
Thuốc tím
17
56,7
Ure
13
43,3
Tỷ lệ (%) 100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
Hóa chất
Ure
Ca O
B K C
D A P
CaC O 3
C hlorine
Saponine
Đa số các hộ nuôi sử dụng 4 nhóm thuốc hóa chất: nhóm thứ nhất là khoáng thiên nhiên diệt khuẩn sơ bộ (các loại vôi CaO, CaCO3), nhóm 2 có tác dụng diệt tạp và giáp xác (sử dụng Saponine, thuốc cá dây và Mass 500), nhóm 3 để Diệt khuẩn nước (Chlorine, thuốc tím và BKC), nhóm thứ tư dùng để gây màu (DAP, Ure).
M ass 500
Hình 4.3: Tỷ lệ các hộ nuôi sử dụng hóa chất
53
Từ biểu đồ trên cho thấy trong nhóm khoáng thiên nhiên gồm các loại vôi bón trong quá trình cải tạo ao nuôi thì CaO chiếm tỷ lệ 100%, CaCO3 là 53,3%. CaO chỉ dùng trong cải tạo ao nuôi còn trong quá trình nuôi thì hầu hết các hộ nuôi sử dụng CaCO3 vì CaCO3 tương đối an toàn đối với tôm nuôi và sự thay đổi các yếu tố môi trường do nó gây ra ít hơn CaO. Liều lượng vôi sử dụng ở các hộ
nuôi chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm qua các năm và dao động trong khoảng từ 200-500 kg/ha. Mass 500 được dùng để diệt giáp xác và cá tạp, liều lượng sử dụng 0,5 lít/1000 m2 và đây cũng là kết quả nghiên cứu của Kim Văn Hợi (2008), thuốc cá dây và Saponine cũng được sử dụng để diệt cá tạp. Chlorine và BKC được các hộ sử dụng để xử lý nước trước khi nuôi, tỷ lệ các hộ sử dụng lần lượt là 73,3 và 100%, theo các hộ nuôi cho biết thì BKC có hiệu quả diệt khuẩn rất tốt ngoài sử dụng xử lý nước trước khi nuôi thì BKC còn được xử dụng thường xuyên để phòng trị một số bệnh thông thường như bệnh về mang,… Gây màu nước chủ yếu sử dụng nhóm phân vô cơ (Ure, DAP) liều lượng từ 20-25 kg/ha còn theo Nguyễn Thanh Phương và ctv (2004), thì sử dụng phân vô cơ trong gây màu cho ao nuôi tôm Sú nên bón ở mức 20-30 kg/ha.
Bảng 4.12: Nguồn giống các hộ thả nuôi
Nguồn giống
Số hộ thả
Tỷ lệ (%)
Miền Trung
5
16,7
12
40,0
Cần Thơ
Cà Mau – Bạc liêu
13
43,3
Thả giống
Qua kết quả điều tra cho thấy hiện nay nguồn giống được các hộ nuôi tôm thả nuôi gồm 2 nguồn chủ yếu, một là nguồn giống Miền Trung được phân phối qua trung gian, hai là nguồn tôm giống ĐBSCL chủ yếu là ở Bạc Liêu, Cà Mau và Cần Thơ. Nguồn giống ĐBSCL được các hộ dân thả nuôi chiếm 83,3%, trong đó nguồn giống từ Cần Thơ chiếm 40,0%. Hầu hết các hộ nuôi tôm sú tại địa bàn nghiên cứu lo ngại về nguồn giống từ các tỉnh Miền Trung do vận chuyển xa và khó khăn cho việc kiểm dịch, nguồn giống địa phương thì được kiểm tra PCR nên chất lượng con giống đảm bảo. Theo thông tin từ các hộ nuôi thì nguồn tôm giống ở Cần Thơ thì có giá thành cao nhưng chất lượng tốt và sạch bệnh. Tuy nhiên, sản lượng chưa nhiều, nên chưa đáp ứng đủ số lượng cho tất cả các vùng nuôi tôm ở ĐBSCL. Giá tôm giống biến động từ 45-60 đồng/con. Kích cỡ tôm giống thả nuôi từ PL9-PL11.
54
Mật độ thả của các hộ khảo sát trung bình dao động từ 19,9 ± 2,5 con/m2. Mật độ thả giống giữa các nông hộ không có sự chênh lệch nhiều còn theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phương và ctv (2008), thì mật độ thả trung bình là 17 con/m2. Theo số liệu thống kê của Sở nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng (2010) thì mật độ thả giống tôm sú trong tỉnh trung bình là 15 con/m2. Do vụ mùa năm 2010 trúng mùa lại được giá nên trong vụ tôm 2011, các hộ nuôi tôm tại địa bàn nghiên cứu đã nâng mật độ tôm nuôi lên 5-10 con/m2. So với mật độ thả theo
tiêu chuẩn ngành thủy sản Việt Nam (2002) là 25-40 tôm bột/m2 thì mật độ này còn thấp.
Đa số các hộ nuôi tại địa bàn khảo sát thả giống tập trung từ tháng 1 đến tháng 3, chỉ nuôi một vụ/năm còn theo nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phương và ctv (2008), thì mùa vụ thả tôm tập trung vào cuối tháng một đến cuối tháng tư.
Quản lý ao nuôi và cho ăn
Đa số các hộ nuôi trên địa bàn nghiên cứu ít thực hiện việc thay nước mà chỉ châm nước vào thêm trừ trường hợp có xảy ra dịch bệnh. Cho tôm ăn bằng sàng, 4 lần/ngày và kiểm tra thức ăn cũng như quan sát tôm hàng ngày.
Kết quả thu thập được tại địa bàn khảo sát 100% các hộ nuôi sử dụng thức ăn công nghiệp. Có 10 loại thức ăn được sử dụng và hầu hết các loại thức ăn được sử dụng là sản phẩm của những công ty uy tín, thức ăn có chất lượng tốt và phù hợp cho sự phát triển của tôm.
Thời gian nuôi của các hộ trên địa bàn nghiên cứu dao động từ 7-35 ngày, do tình hình dịch bệnh gây chết tôm nghiêm trọng nên phải xả bỏ. Tỷ lệ tôm chết từ 90 – 100%.
4.2.3 Tình hình dịch bệnh trong các mô hình nuôi tôm tại địa bàn khảo sát
Bảng 4.13: Một số bệnh trên tôm sú xuất hiện tại địa bàn nghiên cứu
Tên bệnh
Số hộ xuất hiện bệnh
Tỷ lệ (%)
Đốm trắng
4
13,3
Gan
24
80,0
Mang
9
30,0
3
10,0
Mòn phụ bộ
Phân trắng
7
23,3
Thân đỏ
3
10,0
Bệnh tôm là một vấn đề quan trọng, nó là hệ quả của việc thâm canh hóa trong nuôi tôm, sự gia tăng về diện tích, các mô hình nuôi một cách tự phát vượt qua khả năng quản lý của các ngành chức năng nên vấn đề kỹ thuật nuôi và quản lý dịch bệnh chưa đảm bảo dẫn đến sự gia tăng về ô nhiễm môi trường từ đó dịch bệnh phát sinh.
55
Qua kết quả thu thập được từ các hộ nuôi tại địa bàn điều tra xuất hiện 6 loại bệnh, trong đó chiếm tỷ lệ cao nhất là các bệnh về gan có 24 hộ, các bệnh về mang có 9 hộ, bệnh phân trắng có 7 hộ, bệnh đốm trắng 4 hộ và bệnh mòn phụ bộ và thân đỏ có tỷ lệ bằng nhau là 3 hộ. Đáng chú ý về tình hình dịch bệnh trên tôm Sú ở khu vực điều tra là bệnh đốm trắng và bệnh phân trắng đặc biệt trong
Tỷ lệ (%)
100
80
60
40
20
0
Gan
Mang Mòn phụ
Thân đỏ Tên bệnh
Đốm trắng
Phân trắng
bộ
vụ tôm 2011 này xuất hiện một loại bệnh mới không rõ nguyên nhân nhưng các triệu chứng của bệnh có liên quan đến gan tụy của tôm, còn theo Trầm Phước Hưng (2008), thì tại địa bàn điều tra xuất hiện một số bệnh phân trắng, đầu vàng, đốm trắng, mềm vỏ, đóng rong và ăn mòn phụ bộ.
Hình 4.4: Tỷ lệ các hộ nuôi có tôm nhiễm bệnh
Qua biểu đồ trên cho thấy có nhiều loại bệnh xuất hiện tại địa bàn nghiên cứu, chiếm tỷ lệ cao nhất là các bệnh về Gan (80%), bệnh về mang (30%), bệnh phân trắng (23,3%), bệnh đốm trắng (13,3%), thân đỏ (10%) và mòn phụ bộ (10%). Theo kết quả nghiên cứu của Kim Văn Hợi (2007), cũng tại Sóc Trăng thì chủ yếu là các bệnh đầu vàng, phân trắng gây chết tôm nhiều, còn lại là các bệnh thông thường như các bệnh về mang, đóng rong thì gây chết tôm không đáng kể. Theo các hộ nuôi cho biết bệnh tôm xuất hiện sau 7-35 ngày thả nuôi với các triệu chứng tôm bỏ ăn, chết nhanh trong vòng vài ngày, gan tôm bị teo và mềm nhũng. Ngoài dấu hiệu tôm bệnh về gan, tại địa bàn nghiên cứu tôm chết còn kèm theo các dấu hiệu như: bị đốm trắng, ruột rỗng, cụt râu, vỏ tôm bị xốp…
56
Theo Lê Hồng Phước và Nguyễn Văn Hảo (2011), thì từ tháng 07/2010 một bệnh mới xuất hiện làm gây chết hàng loạt tôm Sú nuôi ở các tỉnh Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu với biểu hiện bệnh lý trên cơ quan gan tụy. Đây là một trong những bệnh lạ mới xuất hiện gây hoang mang cho người nuôi. Bệnh gan tụy trên tôm được tìm thấy trên cả tôm Sú và tôm Thẻ chân trắng. Các dấu hiệu bệnh lý bao gồm tôm chậm lớn và phân đàn, gan sưng, nhũn, màu nhạt so với bình thường, có trường hợp gan tụy teo nhỏ và dai. Bệnh teo gan tụy ở tôm nuôi tại ĐBSCL là bệnh khác với tất cả các bệnh trên tôm mà thế giới từng phát hiện trước đây, nhiều khả năng bệnh này xuất hiện từ nguyên nhân sâu xa là do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, vì trong vài năm gần đây ĐBSCL luôn bị nắng nóng kéo dài, mặn xâm nhập sớm.
Bảng 4.14: Mức độ gây hại của các loại bệnh
Tên bệnh
Thời gian xuất hiện
Nguyên nhân Tỷ lệ tôm chết
(Sau ngày thả giống)
(%)
Đốm trắng
20 – 90
Con giống
50 – 80
Gan
10 – 20
Không biết
100
Mang
Rải rác suốt vụ
Môi trường
10 – 20
10 – 20
Mòn phụ bộ
Rải rác suốt vụ
Môi trường
Phân trắng
80 – 100
20 – 30
Không biết
Thân đỏ
30 – 40
20 – 90
Không biết
Tại khu vực điều tra thì tình hình dịch bệnh diễn ra phức tạp có một phần là do ảnh hưởng của thời tiết khí hậu, không có dấu hiệu bệnh riêng lẻ mà hầu hết là biểu hiện nhiều triệu chứng của nhiều loại bệnh khác nhau.
Theo kết quả điều tra tại địa bàn nghiên cứu thì 100% số hộ nuôi tôm bị thiệt hại do tôm bệnh, tỷ lệ tôm chết từ 80-100%, các hộ nuôi phải tiêu hủy hoàn toàn. Trong đó, bệnh gan là nguy hiểm nhất mức độ tôm chết lên đến 100%, bệnh xuất hiện sau 10-20 ngày thả giống. Bệnh phân trắng thì xuất hiện sau 20-30 ngày thả giống và mức độ tôm chết từ 80-100%. Bệnh đốm trắng thì mức độ thiệt hại thường từ 50-80%. Các bệnh về mang và mòn phụ bộ xảy ra rải rác suốt vụ, chủ yếu là do môi trường và nến đáy ao nuôi. Theo các hộ nuôi cho biết thì tình hình dịch bệnh năm nay diễn ra nhanh, các triệu trứng bệnh không rõ ràng mà tôm chết do nhiều nguyên nhân, nhưng biểu hiện rõ nhất là gan tôm bị teo và mềm nhũng. Từ đầu vụ tôm đa số các hộ nuôi tuân thủ đúng với khuyến cáo của Chi cục Thủy Sản tỉnh trong việc cải tạo ao, chọn lựa con giống sạch bệnh để thả nuôi, nhưng dịch bệnh vẫn xảy ra và bùng phát mạnh mẽ có thể là do khâu chuẩn bị ao nuôi chưa thật sự tốt, mầm bệnh trong ao không bị tiêu diệt hết, thời tiết thay đổi thất thường tạo điều kiện cho mầm bệnh bùng phát.
57
Tình hình thiệt hại nghiêm trọng của các hộ nuôi tại địa bàn khảo sát một phần cũng do kiến thức xử lý dịch bệnh của các hộ nuôi chưa cao, hầu hết các hộ có tôm chết đều xả nước ra ngoài môi trường, chính việc làm đó đã làm cho dịch bệnh lan rộng và nằm ngoài khả năng kiểm soát như hiện nay. Theo Sở NN- PTNT Sóc Trăng thì ở các huyện Trần Đề, Long Phú cũng xảy ra tình trạng tôm chết hiện tại với tỷ lệ thiệt hại từ 90-100%. Ngày 5/5/2011, tại hội thảo về dịch bệnh trên tôm do Hiệp hội nuôi tôm Mỹ Thanh (Sóc Trăng) tổ chức, TS Nguyễn Văn Hảo, Viện trưởng Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2 cho biết: Kết quả xét nghiệm ban đầu trên các mẫu tôm bệnh và tôm bệnh chết tại một số vùng
nuôi vừa qua cho thấy có dấu hiệu hoại tử do nhiễm khuẩn xuất hiện với tần suất rất cao, với phương pháp xét nghiệm mẫu tôm bằng PCR, bằng mô học và cả bằng sinh học phân tử, nhóm nghiên cứu của Viện đã loại trừ được tác nhân đốm trắng, đầu vàng và cả vi bào tử. Tác nhân chính là do vi khuẩn ký sinh ở gan gây hoại tử gan.
Tình hình dịch bệnh xảy ra trong thời gian qua diễn ra theo chiều hướng phức tạp, hầu như các tỉnh ĐBSCL đều xảy ra tôm chết, nhưng thiệt hại nặng nhất là tỉnh Sóc Trăng. Mặc dù các ngành chức năng đã can thiệp nhưng đến nay vẫn chưa có ý kiến cụ thể, gây hoang mang cho người nuôi tôm. Như vậy, chỉ trong vòng nửa tháng qua, diện tích tôm bị thiệt hại ở Sóc Trăng đã lên gần gấp đôi (ngày 20/4, diện tích tôm bệnh là 7.000 ha). Với diện tích bị bệnh quá lớn như trên ước tính người nông dân Sóc Trăng bị thiệt hại trên dưới 1.000 tỷ đồng. Hiện tại thì các ngành chức năng vẫn chưa khuyến khích người dân thả giống trở lại mà nên áp dụng các phương pháp tiêu độc khư trùng. Trước thực trạng đó, nhiều hộ nuôi tôm sú ở Sóc Trăng đang chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng, nếu như vậy thì dịch bệnh ở Sóc Trăng khó có thể khống chế được, có nguy cơ dịch bệnh bùng phát trở lại.
58
Qua kết quả khảo sát cho thấy các hộ nuôi đều thua lỗ, tôm chết trong giai đoạn tháng đầu tiên nên các hộ nuôi chỉ mất tiền con giống và tiền cải tạo ao, tiền thức ăn thì không nhiều. Nhưng tác hại do dịch bệnh để lại trên vùng nuôi tôm ở Sóc Trăng là không nhỏ, việc khôi phục lại vị thế “ thủ phủ nuôi tôm” là một bài toán khó cho các ban ngành chức năng cũng như người nuôi tôm ở Sóc Trăng.
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1 Kết luận
Qua thực nghiệm ương ấu trùng tôm Sú bằng quy trình lọc sinh học cho thấy sự phát triển của ấu trùng và hậu ấu trùng bình thường, không xuất hiện dịch bệnh trong suốt quá trình ương.
Cách ly tôm mẹ với khu vực trại ương, vệ sinh trại thật kỹ trước khi ương có kết quả tốt cho việc phòng bệnh cho ấu trùng tôm.
Tỷ lệ sống của hậu ấu trùng dao động từ 46,1% đến 66,6%.
Sản xuất tôm sú giống tại những khu vực cách xa vùng nuôi tôm thương phẩm như Cần Thơ, tạo được đàn tôm giống tốt, người nuôi chấp nhận mặc dù giá thành cao hơn những khu vực khác.
Qua kết quả ương ấu trùng tôm Sú bằng hệ thống lọc sinh học tuần hoàn tại Cơ sở sản xuất giống Hậu Giang, cũng như so sánh với các kết quả trước đây có thể thấy rằng sản xuất giống tôm Sú bằng quy trình lọc sinh học tạo được đàn tôm giống chất lượng.
Dịch bệnh trên tôm Sú xảy ra ở hầu hết các khu vực nuôi tôm ở tỉnh Sóc Trăng, tình hình dịch bệnh đã và đang diễn biến rất phức tạp đặc biệt là khu vực Vĩnh Châu và Mỹ Xuyên.
Tại địa bàn nghiên cứu ghi nhận được một số bệnh: thân đỏ (10%), mòn phụ bộ (10%), đốm trắng (13,3%), bệnh về mang (30%), phân trắng (23,3%) và bệnh về gan tôm chiếm tỷ lệ khá cao (80%).
Bệnh tôm xuất hiện và bùng phát từ 7-35 ngày sau khi thả giống, mức độ tôm chết từ 90-100%.
5.2 Đề xuất
Nguồn tôm giống ở Cần Thơ được biết đến là nguồn giống chất lượng, nhưng sản lượng chưa cao, cần tạo một thương hiệu cho tôm giống Cần Thơ, sản xuất đủ số lượng và đạt tiêu chuẩn để đáp ứng cho nghề nuôi tôm sú ở ĐBSCL còn rất nhiều tiềm năng.
59
Cần có những hỗ trợ cho người nuôi tôm về kỹ thuật trong việc khắc phục tình hình dịch bệnh trên tôm hiện nay cũng như hướng phát triển của thủy sản trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Quang Tề, 2003. Bệnh của tôm nuôi và cách phòng trị. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Bộ Tài Nguyên và Môi Trường, 2005. Tình hình dịch bệnh trên tôm Sú. http://www.monre.gov.vn (truy cập ngày 10/05/2011). Đỗ Thị Hòa và ctv, 2004. Giáo trình Bệnh học Thủy sản. Khoa Nuôi trồng Thủy sản – Trường Đại học Thủy sản Nha Trang. Bộ thủy sản, 2006. Kết quả nuôi trồng thủy sản 2005, kế hoạch và giải pháp thực hiện 2006. Hoàng Tuấn, 2007. Xác định mầm bệnh Vi-rút phân lập trên tôm Sú (Penaeus
monodon) bị bệnh phân trắng. Luận văn tốt nghiệp Đại học - Khoa Thủy Sản - Đại học Cần Thơ. Huỳnh Thảo Trân, 2006. Khảo sát giải pháp quản lý dịch bệnh trong nuôi tôm
Sú (Penaeus monodon) thâm canh ở tỉnh Sóc Trăng. Luận văn tốt nghiệp Đại học - Khoa Thủy Sản - Đại học Cần Thơ. http://www.gso.gov.vn. Tổng cục thống kê Việt Nam (truy cập ngày 28/06/2011).
http://www.kinhtenongthon.com.vn (truy cập ngày 10/05/2011). http://www.agroviet.gov.vn (truy cập ngày 10/05/2011). http://nongnghiep.vn/nongnghiepvn/vi-vn/61/158/45/83/83/41890/default.aspx (truy cập ngày 22/01/2011). http://www.kinhtenongthon.com.vn/Story/kinhte-thitruong/2009/6/18772.html (truy cập ngày 22/01/2011.
http://www.soctrang.gov.vn (truy cập ngày 06/05/2011). http://www.vienthuysan2.com (truy cập ngày 6/5/2011). Kim Văn Hợi, 2007. Khảo sát khía cạnh kỹ thuật – kinh tế của các mô hình nuôi tôm Sú mùa khô và mùa mưa tại tỉnh Sóc Trăng. Luận văn tốt nghiệp Đại học - Khoa Thủy Sản - Đại học Cần Thơ. Lê Đông Cung, 2010. Xác định khả năng chuyển hóa đạm của nhóm vi khuẩn
hữu ích trong hệ thống ương tôm Sú (Penaeus monodon) tuần hoàn. Luận văn tốt nghiệp Đại học - Khoa Thủy Sản - Đại học Cần Thơ.
Lê Văn Duyệt, 2008. Đánh giá hiệu quả Kinh tế - Kỹ thuật của các mô hình nuôi tôm Sú (Penaeus monodon) quảng canh cải tiến chuyên tôm ven biển tỉnh Sóc Trăng. Luận văn tốt nghiệp Đại học - Khoa Thủy Sản - Đại học Cần Thơ. Lê Hồng Phước và Nguyễn Văn Hảo, 2011. Thông tin về bệnh gan tụy trên tôm
nuôi và các biện pháp phòng ngừa niên vụ 2011. Viện nghiên cứu thủy sản 2. Nguyễn Duy Hòa, 2009. Sản phẩm bước đầu của chương trình gia hóa tôm Sú
60
(Penaeus monodon). Viện nghiên cứu thủy sản 2. http://vienthuysan2.com/index.php?do=news&act=detail&id=30 (truy cập ngày 29/06/2011). Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 1999. Kỹ thuật nuôi hải sản. Khoa Nông nghiệp – Đại học Cần Thơ.
Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004. Giáo trình Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi giáp xác. Tủ sách Đại học Cần Thơ. Nguyễn Minh Niên, 2005. Hiện trạng nuôi trồng thủy sản các tỉnh ven biển
ĐBSCL. Tuyển tập hội thảo toàn quốc về nghiên cứu và ứng dụng Khoa học công nghệ trong nuôi trồng thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Nguyễn Minh Hậu, 2006. Bước đầu nghiên cứu về vi-rút gây bệnh đầu vàng
trên tôm Sú (Penaeus monodon) ở Đồng bằng sông cửu long. Luận văn tốt nghiệp cao học. Khoa Thủy sản – Đại học Cần Thơ. Nguyễn Quốc Hưng, 2008. Nghiên cứu công nghệ sản xuất giống nhân tạo tôm
Sú (Penaeus monodon) bố mẹ chất lượng cao phục vụ nuôi tôm xuất khẩu. Báo cáo tổng kết khoa học kỹ thuật. Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II. Nguyễn Văn Thường, 1990. Giáo trình kỹ thuật nuôi tôm. Khoa Nông nghiệp – Đại học Cần Thơ. Nguyễn Văn Thường và Trương Quốc Phú, 2009. Giáo trình ngư loại II. Khoa Thủy Sản –Đại Học Cần Thơ. Nguyễn Văn Hảo, 2004. Một số bệnh thường gặp trên tôm Sú (Penaeus
monodon). Các phương pháp chẩn đoán và biện pháp phòng trị. Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Nguyễn Thanh Phương, Vũ Nam Sơn và Võ Văn Bé, 2008. Phân tích các khía cạnh kỹ thuật và kinh tế mô hình nuôi tôm Sú (Penaeus monodon) thâm canh rải vụ ở Sóc Trăng. Tạp chí Khoa học 2008 (2): 157 – 167. Nguyễn Văn Chung, 2000. Cơ sở sinh học và kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo tôm Sú. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Nguyễn Văn Chung, 2004. Cơ sở sinh học và kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo tôm Sú. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Phạm Văn Quyết, 2000. Thực nghiệm ương ấu trùng tôm Sú (Penaeus
monodon) với các mật độ và các loại thức ăn khác nhau trong hệ thống không thay nước, thay nước và lọc sinh học. Luận văn tốt nghiệp đại học- Đại học Cần Thơ. Phạm Văn Tình, 2000. Kỹ thuật sản xuất giống tôm Sú (Penaeus monodon) chất lượng cao. Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Phan Đình Phúc và Nguyễn Cơ Thạch, 2004. Nghiên cứu tạo nguồn tôm sú (Penaeus monodon) bố mẹ thành thục bằng phương pháp nuôi lồng ở biển. Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học công nghệ (1984 – 2004). Nhà xuất bản Nông nghiệp. Sở nông nghiệp Bạc Liêu. Báo cáo tháng 9/2010.http://baclieu.gov.vn (truy cập ngày 10/05/2011).
Tạ Văn Phương, 2006. Ứng dụng Ozone xử lý nước và vi khuẩn Vibrio spp trong bể ương ấu trùng tôm Sú (Penaeus monodon). Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006: 25-33 Trường Đại học Cần Thơ. Tăng Minh Khoa, 2010. Bài giảng môn học Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi giáp xác. Khoa Sinh học Ứng dụng Đại học Tây Đô. Tăng Minh Khoa, 2001. Nghiên cứu ứng dụng lọc sinh học trong ương ấu trùng
61
tôm Sú (Penaeus monodon). Luận văn tốt nghiệp Đại học - Khoa Thủy Sản - Đại học Cần Thơ.
Thanh Thúy, 2010. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2010
đạt 19,15 tỷ USD. http://www.khuyennongvn.gov.vn/f-tttr/tong-kim- ngach-xuat-khau-nong-lam-thuy-san-nam-2010-111at-19-15-ty- usd/view. (truy cập ngày 29/06/2011).
Thạch Thanh, Trương Trọng Nghĩa và Nguyễn Thanh Phương, 1999. Cải thiện và nâng cao hiệu quả sản xuất giống tôm Sú trong hệ thống lọc sinh học. Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học-Đại học Cần Thơ. Thạch Thanh, Tăng Minh Khoa, Trần Nguyễn Hải Nam và Nguyễn Văn Hòa,
2004. Nghiên cứu ứng dụng nước biển nhân tạo trong sản xuất giống tôm Sú (Penaeus monodon). Tạp chí khoa học Đại học Cần Thơ. Từ Thanh Dung, Đặng Thị Hoàng Oanh và Trần Thị Tuyết Hoa, 2005. Giáo trình Bệnh học thủy sản. Tủ sách Đại học Cần Thơ. Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009. Nguyên lý và kỹ thuật nuôi tôm Sú (Penaeus monodon). Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Trần Tuấn Phong, 2005. Đánh giá tình hình sản xuất giống tôm Sú (Penaeus monodon) ở tỉnh Cà Mau và Thành phố Cần Thơ. Luận văn tốt nghiệp Đại học - Khoa Thủy Sản - Đại học Cần Thơ.
Trần Anh Thư, 2003. Nghiên cứu ương tôm Sú (Penaeus monodon) mật độ cao sử dụng hệ thống lọc sinh học. Luận văn tốt nghiệp Đại học - Khoa Thủy Sản - Đại học Cần Thơ.
Trần Thanh Tuấn, 2006. Đánh giá tình hình nuôi tôm Sú vụ 2 ở tỉnh Sóc Trăng. Luận văn tốt nghiệp Đại học - Khoa Thủy Sản - Đại học Cần Thơ. Trầm Phước Hưng, 2008. Điều tra tình hình sử dụng thuốc, hóa chất và chế
phẩm sinh học trong ao nuôi tôm Sú (Penaeus monodon) thâm canh tại Sóc Trăng. Luận văn tốt nghiệp Đại học - Khoa Thủy Sản - Đại học Cần Thơ.
Trương Minh Trường, 2010. Đánh giá khả năng cải thiện chất lượng nước của nhóm vi khuẩn chuyển hóa đạm trong hệ thống ương tôm Sú (Penaeus monodon) nước trong hở. Luận văn tốt nghiệp Đại học - Khoa Thủy Sản - Đại học Cần Thơ. Trương Quốc Phú, 2006. Quản lý chất lượng nước nuôi trồng thủy sản. Khoa Thủy Sản - Đại học Cần Thơ. Văn Dũng và Hồng Điệp, 2010. Long An dịch bệnh trên tôm tiếp tục hoành
hành. http://www.vietlinh.com.vn/dbase/VLTTShowContent.asp?ID=10105 (truy cập ngày 29/06/2011).
62
Võ Tuấn Kiệt, 2005. Khảo sát khả năng sử dụng Ozone để kiểm soát chất lượng nước trong sản xuất giống tôm Sú (Penaeus monodon) theo quy trình lọc sinh học tuần hoàn. Luận văn tốt nghiệp Đại học - Khoa Thủy Sản - Đại học Cần Thơ. Vũ Thế Trụ (chủ biên), 2001. Thiết lập và điều hành trại sản xuất tôm giống tại Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp.