
1
Tiểu luận
Chế giám sát thực hiện quyền con
người dựa trên Hiến chương

2
Nhân quyền, hay quyền con người là những quyền tự nhiên của con người và
không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Tuy nhiên, trước khi các cơ
chế bảo đảm nhân quyền ra đời thì các khái niệm nhân quyền và các yếu tố liên
quan đến nhân quyền nằm ở các văn bản rời rạc và ít được tôn trọng. Sự ra đời của
tổ chức LHQ các tổ chức quốc tế khác như Hội chữ thập đỏ đã đánh dấu 1 bước
quan trọng trong việc xây dựng các cơ chế và đảm bảo thực thi nhân quyền. Từ
đây, nhân quyền được đảm bảo bằng các văn bản với quy định rõ ràng, cụ thể
đồng thời có các cơ quan, cơ chế giám sát việc thực hiện. Cho dù có nhiều ý kiến
khác nhau nhưng có thể khẳng định , trên bình diện thế giới, với sự ra đời của các
cơ chế nhân quyền , quyền con người ngày càng được tôn trọng và đảm bảo. Nhất
là khi càng ngày có càng nhiều quốc gia tham gia vào các cơ chế nhân quyền này.
Đảm bảo nhân quyền trở thành một đòi hỏi tất yếu của xã hội văn minh.Trong
phạm vi bài thảo luận này, nhóm tôi chỉ đi vào xem xét cơ chế quyền con người ở
cấp độ quốc tế, tức là cơ chế của tổ chức LHQ
Cơ chế giám sát thực hiện quyền con người của LHQ nhìn chung được chia
làm 2 hệ thống chính.
- Hệ thống các cơ quan hình thành theo quy định của Hiến chương LHQ.
Chức năng và nhiệm vụ có liên quan đến quyền con người của các cơ quan này
được xác định bởi Hiến chương.
-Hệ thống các cơ quan giám sát thực hiện các điều ước quốc tế. Đây là các
cơ quan được hình thành từ những quy định cụ thể tại các công ước quốc tế cơ bản
về quyền con người ngoại trừ UB về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá. UB này
do Hội đồng kinh tế và xã hội của LHQ thành lập
A. Cơ chế giám sát thực hiện quyền con người dựa trên Hiến chương:
I. Cơ sở pháp lí:

3
Hiến chương LHQ đã đề cập đến quyền con người trên 3 bình diện khác
nhau. Thứ nhất, quyền con người là sự thể hiện cam kết tôn trọng của các quốc
gia. Thứ hai, quyền con người là một trong những mục tiêu cơ bản trong các oạt
động của LHQ. Thứ ba, quyền con người là điều kiện cần thiết cho hoà bình và
phát triển của nhân loại cũng như của mỗi quốc gia. Điều này được thể hiện rất rõ
trong điều 1 và điều 55 của Hiến chương LHQ.
Trong Hiến chương có một số điều khoản xác lập trách nhiệm cụ thể về
quyền con người với 1 số cơ quan của LHQ. Cụ thể: điều 13 ( 1 ) quy định chức
năng và thẩm quyền của Đại hội đồng LHQ trong việc hỗ trợ hiện thực hoá các
quyền con người và tự do cơ bản; điều 61 ( 2, 3 ) và điều 68 quy định về Hội đồng
kinh tế-xã hội LHQ. Ngoài ra, quyền con người còn được đề cập tại điều 76 ( c )
về hệ thống quản thác của LHQ.
II.Hội đồng bảo an Liên hợp quốc
1. Chức năng và quyền hạn
Hội đồng bảo an là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc. Chức
năng của hội đồng được quy định tại điều 24 của hiến chương. Hội đồng trách
nhiệm chính trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Những quyền hạn nhất
định được trao cho Hội đồng bảo an để hội đồng có thể làm tròn các nghĩa vụ của
mình được quy định ở các chương VI, VII, VIII và IX. Với chức năng và quyền
hạn được trao chúng ta có thể nhận thấy vấn đề quyền con người không thuộc
trách nhiệm và quyền hạn của hội đồng. Tuy nhiên mối quan hệ của Hội đồng bảo
an với vấn đề quyền con người có thể được xác định tại điều 34 của Hiến chương.
Theo điều 34, Hội đồng bảo an “có thẩm quyền điều tra mọi tranh chấp hoặc tình
thế có thể dẫn đến sự bất hòa quốc tế hoặc gây ra tranh chấp và xác định xem tranh
chấp ấy hoặc tình thế ấy nếu kéo dài có thể đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế hay
không”. Như vậy trong trường hợp có sự vi phạm nghiêm trọng quyền con người
một cách rõ ràng và ở mức độ cao, Hội đồng bảo an hoàn toàn có khả năng xác
định trường hợp đó sẽ tạo nguy cơ đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế theo quy

4
định tại điều 39 của hiến chương ( hội đồng bảo an đã ra những quyết định về chế
độ phân biệt chủng tộc A-pác- thai của Nam Phi, sự hiện diện của chế độ này ở
Na-mi-bi-a và hành động của I-rắc trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1990-
1991 đặc biệt đối với người Cuốc). Hơn nữa hội đồng bảo an có đủ thẩm quyền
thay mặt Liên hợp quốc để thông qua và áp dụng các biện pháp cưỡng chế nếu sự
việc không được giải quyết một cách thỏa đáng.
Thông qua việc sử dụng thẩm quyền được hiến chương giao cho, Hội đồng
bảo an là cơ quan quyết định cuối cùng về những vấn đề liên quan bao gồm cả vấn
đề quyền con người.
2. Thực tiễn và hiệu quả hoạt động
Hội đồng bảo an là cơ quan duy nhất của Liên hợp quốc có thẩm quyền ban
hành các quyết định mang tính mệnh lệnh. Khi một vấn đề nảy sinh có liên quan
đến hòa bình và an ninh quốc tế được báo cáo, Hội đồng sẽ thông qua các khuyến
nghị hoặc đề nghị với mục đích khuyến khích các bên đi đến biện pháp hòa giải.
Nếu không hiệu quả, Hội đồng sẽ thực hiện các cuộc điều tra hoặc làm trung gian
hòa giải của các bên trannh chấp bằng cách gửi phái đoàn của mình hoặc bổ nhiệm
một đại diện của Hội đồng đến hiện trường gặp gỡ các bên có liên quan. Khi xung
đột xảy ra ở mức độ nghiêm trọng và có nguy cơ đe dọa đến hòa bình và an ninh
quốc tế hội đồng sẽ tiến hành các biện pháp cưỡng chế.
Mặc dù hội đồng bảo an đã và đang đóng một vai trò tích cực trong việc
ngăn ngừa, giải quyết các xung đột quốc tế, khu vực và bảo vệ quyền con người
nhưng thẩm quyền và trách nhiệm của Hội đồng không phải đã được thực hiện
một cách có hiệu quả. Nhiều cuộc xung đột, diệt chủng lẽ ra phải được ngăn chặn
kịp thời nếu Hội đồng bảo an đưa ra được các quyết định nhanh chóng như trường
hợp thảm sát và diệt chủng ở Rwanda.
III.Đại hội đồng Liên hợp quốc
1. Quyền hạn và chức năng

5
Đối với vấn đề nhân quyền, quyền hạn và chức năng của Đại hội đồng được
ghi nhận rõ ràng tại điều 13 (1b) của hiến chương Liên hợp quốc giao cho Đại hội
đồng “đề xướng những nghiên cứu và thông qua những khuyến nghị” với mục
đích “thực hiện các quyền con người và các quyền tự do cơ bản đối với mọi người
không biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo”. Khác với hội đồng bảo an,
đại hội đồng chỉ thông qua các khuyến nghị, nghị quyết kể cả các nghị quyết thông
qua các điều ước quốc tế. Những khuyến nghị này không mang tính ràng buộc về
mặt pháp lí.Đó là tuyên ngôn thế giới về quyền con người được Đại hội đồng
thông qua năm 1948. Khi mới thông qua tuyên ngôn không phải là một văn bản có
giá trị ràng buộc pháp lí. Tuy nhiên ảnh hưởng và vị trí của nó đã được thừa nhận
một cách rộng rãi như hòn đá tảng của các văn kiện quốc tế về quyền con người
sau này.
2. Thực tiễn hoạt động và hiệu quả
Bên cạnh việc thông qua những khuyến nghị và nghị quyết về các vấn đề
liên quan, đặc biệt là các vấn đề về quyền con người, Đại hội đồng còn thông qua
các văn kiện khác có giá trị là những văn bản thiết lập các tiêu chuẩn đặc biệt về
quyền con người. Những văn bản này bao gồm các điều ước quốc tế về quyền con
người mà nếu các quốc gia thành viên Liên hợp quốc chấp nhận tham gia, chúng
sẽ trở thành những văn kiện có giá trị ràng buộc đối với quốc gia đó.
Ở giai đoạn đầu tiên của Liên hợp quốc, từ năm 1946 đến 1948, đại hội
đồng đã thông qua một loạt các nghị quyết về quyền con người, tái khẳng định
nguyên tắc của luật pháp quốc tế áp dụng đối với các tội ác chống nhân loại và tội
ác chiến tranh. Những nguyên tắc này thể hiện rõ trong Hiến chương Tòa án
Nuremberg và các phán quyết của tòa này. Năm 1946, Đại hội đồng tái tuyên bố
rằng diệt chủng là một tội ác vi phạm luật quốc tế và mở ra quá trình pháp điển
hóa nhanh chóng các quy định trừng trị loại tội phạm này. Và công ước ngăn ngừa
và trừng trị tội diệt chủng đã ra đời tháng 12-1948.

