intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận môn Kinh tế học quốc tế 2: Áp dụng mô hình trọng lực trong phân tích hoạt động thương mại linh kiện điện tử giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong giai đoạn 2012-2022

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:23

25
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài nghiên cứu đánh giá tác động của các yếu tố đến hoạt động thương mại linh kiện điện tử giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong giai đoạn 2012-2022 thông qua mô hình Gravity Model. Từ kết quả ước lượng mô hình hồi quy hệ số ngẫu nhiên, mối quan hệ của biến khoảng cách GDP của hai nước và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI với kim ngạch xuất nhập khẩu được củng cố.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận môn Kinh tế học quốc tế 2: Áp dụng mô hình trọng lực trong phân tích hoạt động thương mại linh kiện điện tử giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong giai đoạn 2012-2022

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ ---------***--------- TIỂU LUẬN KINH TẾ HỌC QUỐC TẾ 2 ÁP DỤNG MÔ HÌNH TRỌNG LỰC TRONG PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI LINH KIỆN ĐIỆN TỬ GIỮA VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC TRONG GIAI ĐOẠN 2012-2022 Nhóm : 09 Lớp : KTE316.1.1 Khóa : 61 Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Từ Thúy Anh TS. Chu Thị Mai Phương STT MSV HỌ VÀ TÊN 09 2211420008 Ngô Hòa Bình 56 2211410108 Trần Thị Khánh Ly 70 2214410135 Nguyễn Phương Nhi 82 2214410177 Văn Thị Thuần 84 2215410185 Lê Huyền Trang Hà Nội, 11 tháng 03 năm 2024
  2. ÁP DỤNG MÔ HÌNH TRỌNG LỰC TRONG PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI LINH KIỆN ĐIỆN TỬ GIỮA VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC TRONG GIAI ĐOẠN 2012-2022 Văn Thị Thuần1, Ngô Hòa Bình, Trần Thị Khánh Ly, Nguyễn Phương Nhi, Lê Huyền Trang Sinh viên K61 Kinh tế quốc tế - Khoa Kinh tế quốc tế Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, Việt Nam PGS. TS. Từ Thúy Anh TS. Chu Thị Mai Phương Giảng viên Khoa Kinh tế quốc tế Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, Việt Nam Tóm tắt Ngành linh kiện điện tử đang nổi lên như một trong những ngành hàng chiến lược được Việt Nam đầu tư phát triển bởi những tiềm năng và lợi thế trên thị trường thương mại quốc tế. Trong đó, Hàn Quốc là đối tác quan trọng với tỷ trọng xuất nhập khẩu cũng như lượng vốn đầu tư FDI luôn đứng trong top đầu của ngành hàng này. Bài nghiên cứu đánh giá tác động của các yếu tố đến hoạt động thương mại linh kiện điện tử giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong giai đoạn 2012-2022 thông qua mô hình Gravity Model. Từ kết quả ước lượng mô hình hồi quy hệ số ngẫu nhiên, mối quan hệ của biến khoảng cách GDP của hai nước và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI với kim ngạch xuất nhập khẩu được củng cố. Tuy nhiên, việc kí kết hiệp định thương mại Việt Nam - Hàn Quốc chưa thể hiện được tác động rõ ràng tới thương mại ngành hàng linh kiện. Một số thảo luận xoay quanh kết quả mô hình và hàm ý chính sách cũng được nhóm tác giả đề xuất phù hợp với bối cảnh Việt Nam nói chung và thương mại nội ngành nói riêng. Từ khóa: Gravity Model, thương mại quốc tế, linh kiện điện tử, Việt Nam, Hàn Quốc 1 Tác giả liên hệ, Email: k61.2214410177@ftu.edu.vn 1
  3. APPLYING THE GRAVITY MODEL IN ANALYZING THE TRADE ACTIVITY OF ELECTRONIC COMPONENTS BETWEEN VIETNAM AND SOUTH KOREA DURING THE PERIOD 2012-2022 Abstract The electronic components industry is emerging as one of the strategic industries that Vietnam invests in and develops because of its potential and advantages in the international trade market. Among them, Korea is an important partner with the proportion of import and export as well as the amount of FDI investment capital always ranking at the top of this industry. The study evaluates the impact of factors on electronic components trade activities between Vietnam and Korea in the period 2012-2022 through the Gravity Model. From the results of estimating the random coefficient regression model, the relationship of the GDP gap variable of the two countries and FDI with import-export turnover is strengthened. However, the signing of the Vietnam - Korea trade agreement has not shown a clear impact on trade in the components industry. Some discussions surrounding model results and policy implications were also proposed by the authors that are suitable for the Vietnamese context in general and intra-industry trade in particular. Keywords: Gravity Model, international commerce, electronic components, Vietnam, Korea 1. Lời mở đầu Xu hướng toàn cầu hóa và mở cửa thương mại hiện nay đang chiếm vị thế hàng đầu trong chiến lược phát triển của các quốc gia trên khắp thế giới. Trong bối cảnh này, ngành hàng linh kiện điện tử đóng vai trò quan trọng, góp phần quyết định đến sự tiến bộ toàn diện của các ngành công nghiệp hiện đại. Linh kiện điện tử không chỉ là nền tảng cho nhiều sản phẩm và công nghệ tiên tiến, mà còn là nguồn động lực đánh thức sự đổi mới và thách thức trong cuộc cạnh tranh toàn cầu. Trong bối cảnh mối quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và Hàn Quốc ngày càng mở rộng và chặt chẽ, sự gần gũi về địa lý, tương đồng về lịch sử và văn hóa, cùng với lợi ích chung trong hợp tác phát triển, đang tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ngành hàng linh kiện điện tử. Sự quan tâm của lãnh đạo hai nước cùng với nỗ lực đáng kể từ phía nhân dân và doanh nghiệp đã làm nổi bật quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia, đặt ra nhiều thách thức và cơ hội đối với ngành này. Nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của ngành hàng linh kiện điện tử đối với mối quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và Hàn Quốc, nhóm tác giả đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu “Áp dụng mô hình trọng lực trong phân tích 2
  4. hoạt động thương mại linh kiện điện tử giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong giai đoạn 2012-2022” nhằm tìm hiểu và phân tích các yếu tố tác động đến mức độ thương mại ngành linh kiện điện tử giữa hai quốc gia, từ đó đề xuất những chính sách phù hợp nhằm củng cố mối quan hệ thương mại trong lĩnh vực này. Đây là một bước quan trọng để định hình chiến lược hợp tác và phát triển bền vững giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong thời kỳ toàn cầu hóa ngày nay. Không gian nghiên cứu của bài tiểu luận được nhóm khảo sát trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam và Hàn Quốc trong giai đoạn 11 năm từ 2012 -2022. Nhóm tác giả lựa chọn phương pháp nghiên cứu định lượng, xây dựng và điều chỉnh mô hình dựa trên lý thuyết mô hình lực hấp dẫn (gravity model) với nguồn dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn tin cậy: World Bank, UN Comtrade, Tổng cục thống kê. Từ đó đưa ra kết quả một cách chính xác, đáng tin cậy, không chỉ mang lại cái nhìn toàn diện về đề tài nghiên cứu mà còn là cơ sở cho các nhận định và đề xuất chi tiết các hàm ý chính sách, hỗ trợ cho quá trình ra quyết định và phát triển trong lĩnh vực thương mại của ngành hàng linh kiện điện tử giữa Việt Nam và Hàn Quốc. 2. Cơ sở lý thuyết 2.1. Lý thuyết lực hấp dẫn trong kinh tế quốc tế Nghiên cứu xem xét mối quan hệ thương mại song phương trong ngành hàng linh kiện điện tử giữa Việt Nam và Hàn Quốc bằng cách sử dụng lý thuyết lực hấp dẫn trong kinh tế quốc tế. Đây là một lý thuyết kinh tế học được sử dụng để dự đoán quan hệ thương mại song phương hoặc dòng chảy FDI dựa trên quy mô của nền kinh tế - thường sử dụng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), GDP bình quân đầu người, Tổng sản phẩm quốc dân (GNP), và GNP bình quân đầu người - và khoảng cách giữa hai đối tác thương mại đầu tư. Mô hình trọng lực đầu tiên được áp dụng bởi Tinbergen (1962) va Linnemann (1966): 𝑮𝒊 𝑮𝒋 𝑻 𝒊𝒋 = 𝑨 ( 𝒊 ≠ 𝒋) (𝟏) 𝑫 𝒊𝒋 Trong đó: T: là mức độ tương tác không gian (di cư, dòng chảy thương mại, du lịch hàng không, …) giữa các địa điểm i và j. Tij tỷ lệ thuận với quy mô của quần thể và tương quan nghịch với khoảng cách. Dij: là khoảng cách địa lý giữa 2 địa điểm i và j. Gi: là khối lượng nền kinh tế của nơi xuất phát và Gj là khối lượng nền kinh tế của điểm đến. 3
  5. Dựa trên các giả định và các biến giải thích đã được nêu trên, lấy logarit phương trình (1), ta có mô hình tuyến tính: 𝐥𝐧(𝑻𝒓𝒂𝒐 đổ𝒊 𝒉𝒂𝒊 𝒄𝒉𝒊ề𝒖) = 𝜶 + 𝜷 𝟏 ∗ 𝐥𝐧(𝑮𝑫𝑷 𝒒𝒖ố𝒄 𝒈𝒊𝒂 𝒊) + 𝜷 𝟐 ∗ 𝐥𝐧(𝑮𝑫𝑷 𝒒𝒖ố𝒄 𝒈𝒊𝒂 𝒋) − 𝜷 𝟑 ∗ 𝐥𝐧(𝑲𝒉𝒐ả𝒏𝒈 𝒄á𝒄𝒉) + 𝜺 (𝟐) Trong đó: β1, β2, β3 là các hệ số thể hiện mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố trong mô hình. Ban đầu, mô hình trọng lực truyền thống bị chỉ trích do không thiếu nền tảng lý thuyết. Tuy nhiên, sau đó các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm đã chứng minh tính đúng đắn của lý thuyết này (Anderson 1979, Bergstrand 1985, Bergstrand 1989, Chi và Kilduff 2010, Dao và cộng sự 2014, Taimur và cộng sự 2016). Phương trình trọng lực có thể được rút ra từ các mô hình và lý thuyết khác nhau, bao gồm lý thuyết của Ricardo về thương mại quốc tế, Heckscher - Ohlin và các mô hình cạnh tranh độc quyền. Cụ thể, Deardorff (1998) đã chỉ ra rằng phương trình trọng lực cũng có thể được suy ra từ mô hình Hecksher-Ohlin mà không giả định sự khác biệt hóa sản phẩm. Eaton và Kortum (2002) đã rút ra phương trình loại trọng lực từ lý thuyết của Ricardo dựa trên sự khác biệt về công nghệ và nhấn mạnh vai trò của địa lý trong việc chuyên môn hóa các nguồn lực sản xuất. 2.2. Khung nghiên cứu Khung nghiên cứu tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới luồng thương mại của ngành linh kiện điện tử giữa Việt Nam và Hàn Quốc được đề xuất như trong Hình 2.1 dưới đây. Quy mô nền kinh tế FDI Dòng chảy thương mại Khoảng cách Hội nhập quốc tế Hình 2.1. Khung lý thuyết các nhân tố tác động đến dòng chảy thương mại song phương Việt Nam - Hàn Quốc Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp 4
  6. Quy mô nền kinh tế: Như những bài nghiên cứu thực nghiệm sử dụng mô hình trọng lực khác, bài viết sử dụng các biến GDP và quy mô dân số để đo lường quy mô nền kinh tế ở hai quốc gia. Hầu hết các nghiên cứu đều kết luận GDP tác động tích cực tới mô hình thương mại song phương (Kahouli 2016, Oesingmann 2022, Jiang và Oh 2023). Ngược lại, các nghiên cứu đề xuất kết luận rằng biến dân số có tác động tiêu cực nhưng không đáng kể. Họ lập luận rằng quốc gia càng đông dân thì càng dễ đạt được quy mô hiệu quả tối thiểu. Vì vậy, đất nước này đang trở nên ít có động lực tham gia thương mại hơn so với một quốc gia ít dân số hơn (Carrere 2006, Iwanow và Kirkpatrick 2007, Kahouli 2016). FDI: Các nghiên cứu trước đây đã nhấn mạnh tầm quan trọng của FDI trong việc ảnh hưởng đến dòng chảy thương mại giữa hai quốc gia. FDI không chỉ cung cấp vốn và cơ hội việc làm cho nền kinh tế địa phương (Wu và cộng sự, 2022) mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao và phổ biến công nghệ (Bwalya, 2006; Wu và cộng sự, 2022). Do đó, FDI có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa và xuất khẩu. Tuy nhiên, một vài nghiên cứu lại đưa ra kết luận rằng FDI có thể tác động tiêu cực tới xuất khẩu của nước sở tại. Điều này hàm ý đầu tư nước ngoài vào nội địa có thể nhằm mục đích giành được thị trường trong nước hơn là để sản xuất xuất khẩu (Tho, 2013). Khoảng cách: Khoảng cách là chỉ số chính về chi phí vận chuyển được sử dụng trong mô hình trọng lực. Trong hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm liên quan, biến khoảng cách có tác động tiêu cực tới kim ngạch thương mại của hai nước do khoảng cách càng lớn thì chi phí vận chuyển tương ứng cũng càng lớn (Yamaguchi 2008, Yu và cộng sự 2022). Hội nhập quốc tế: Nhân tố đại diện cho mức độ hội nhập kinh tế quốc tế đã được sử dụng là các hiệp định thương mại và tỷ giá hối đoái. Các nghiên cứu cũng đã khẳng định mối tương quan chặt chẽ và hướng tác động tích cực của các hiệp định thương mại tự do đối với dòng thương mại. Trở thành thành viên của các hiệp định thương mại song phương và đa phương quan trọng trong khu vực và ngoài khu vực có lẽ là chìa khóa để Việt Nam tiếp cận thị trường quốc tế (Narayan và Nguyen 2016, Kahouli 2016). Ngoài ra, Dascal và cộng sự (2002) cho rằng sự tăng giá của đồng tiền nội địa so với các đồng tiền khác làm tăng nhập khẩu, trong khi sự mất giá thúc đẩy xuất khẩu. Mặt khác, nghiên cứu của Hafiz và Fakhrul (2014) kết luận rằng khi xem xét mối quan hệ giữa giá trị xuất khẩu và tỷ giá hối đoái có thể tồn tại hiệu ứng đường cong J, hay sự giảm giá trị xuất khẩu trong ngắn hạn khi đồng tiền nội địa giảm giá. 5
  7. 3. Tổng quan tình hình nghiên cứu 3.1. Khái quát dòng chảy thương mại trong ngành linh kiện điện tử của Việt Nam và Hàn Quốc Với tỷ trọng 17.8% trong toàn ngành công nghiệp, ngành công nghiệp điện tử hiện đang là ngành công nghiệp sản xuất then chốt và đang trên đà phát triển mạnh mẽ để trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam. Hiện Hàn Quốc là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam khi là nhà đầu tư FDI lớn nhất vào Việt Nam với số vốn đầu tư lũy kế tính đến hết tháng 5/2022 đạt 79,06 tỷ USD. Hàn Quốc cũng là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam sau Trung Quốc và Hoa Kỳ. Ở chiều ngược lại, Việt Nam là trọng tâm trong chính sách hướng nam của Hàn Quốc trong khu vực ASEAN khi kim ngạch thương mại của hai nước chiếm hơn 40% tổng kim ngạch thương mại giữa Hàn Quốc với ASEAN. Hình 3.1: Xuất nhập khẩu linh kiện điện tử Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 2012-2022 Nguồn: UN Comtrade 3.1.1. Xuất khẩu Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc rất nhiều mặt hàng, trong đó đáng chú ý nhất là xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện của Việt Nam sang thị trường Hàn Quốc chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc và liên tục tăng trong những năm gần đây. Trong 5 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện của Việt Nam sang thị trường Hàn Quốc đạt gần 2,42 tỷ USD, tăng 31,86% so với cùng kỳ năm 2021. 6
  8. 3.1.2. Nhập khẩu Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính đến năm 2021, doanh nghiệp có xu hướng chuyển dịch nhập khẩu linh kiện điện tử từ Trung Quốc sang Hàn Quốc do ngày càng nhiều tập đoàn Hàn Quốc đầu tư và đặt cơ sở sản xuất tại Việt Nam, trong đó kể đến hai tập đoàn lớn là Samsung và LG; bên cạnh đó Việt Nam đã thực hiện nhiều cam kết xóa bỏ thuế quan đối với Hàn Quốc trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc. Tính chung 7 tháng đầu năm 2022, kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này từ thị trường Hàn Quốc đạt trên 14,33 tỷ USD, tăng 37,09% so với 7 tháng đầu năm 2021 và chiếm 28,61% kim ngạch nhập khẩu hàng máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện của cả nước. 3.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Nhiều nghiên cứu đã khẳng định tầm quan trọng của thương mại quốc tế đến tăng trưởng kinh tế. Thông qua việc thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động xuất nhập khẩu, thương mại quốc tế đã và đang tạo tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế và kích thích tăng trưởng sản lượng một cách trực tiếp. Trong năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm trước đã có những đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Vì vậy, đánh giá các yếu tố tác động đến thương mại quốc tế là một yêu cầu cấp thiết để đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút vốn đầu tư trong các ngành hàng trọng điểm hiện nay, hướng tới mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế. Có nhiều nghiên cứu về thương mại song phương của Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới đã được thực hiện và thảo luận. Le Trung Ngoc Phat (2022) và cộng sự chỉ ra các hiệp định thương mại tự do FTA là động lực mạnh mẽ nhất để thúc đẩy dòng chảy thương mại song phương ở Việt Nam với các quốc gia phát triển và đang phát triển. Bên cạnh đó, các nhân tố như khoảng cách địa lý và khoảng cách thể chế với các nước phát triển mang lại tác động tiêu cực, trong khi đó tác động này là ngược chiều với các nước đang phát triển. Ngô Ngân Hà (2024) nghiên cứu về các yếu tố tác động đến xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang các nước Đông Á đã chỉ ra tăng trưởng kinh tế, dân số của Việt Nam và các nước Đông Á có tác động tích cực đến xuất nhập khẩu, trong đó khoảng cách và tỷ giá hối đoái có mối quan hệ tỷ lệ nghịch và có tác động tiêu cực đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tới các nước Đông Á. Hoan (2016) chỉ ra tốc độ tăng trưởng GDP có tác động mạnh mẽ tới dòng chảy thương mại song phương của Việt Nam và Hàn Quốc, trong khi thuế quan song phương có tác động ngược chiều. 7
  9. Sung Jin Kang và Seon Ju Lee (2021) chỉ ra FDI có tác động tích cực tới thương mại ở các nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Á, trong đó nó tác động mạnh nhất đến nền kinh tế Việt Nam. Anwar và Nguyen (2010) cho rằng sự mất giá của đồng tiền Việt Nam so với đồng tiền của đối tác thương mại hay sự gia tăng tỷ giá hối đoái được cho là đã khuyến khích khối lượng thương mại song phương. Park Huyn - Hee (2023) nghiên cứu về các yếu tố quyết định xuất khẩu các ngành hàng chủ lực tại Hàn Quốc sử dụng mô hình trọng lực, kết quả phân tích cho thấy có sự khác biệt về các yếu tố quyết định xuất khẩu giữa các ngành công nghiệp chính, đòi hỏi cách tiếp cận tùy theo các ngành. Vì vậy, bên cạnh những nghiên cứu tổng quát, chúng tôi cũng xem xét đến một số nghiên cứu phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thương mại ở một số ngành hàng nhất định. Luong Anh Thu và cộng sự (2019) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu mặt hàng thủ công đã chỉ ra GDP, độ mở kinh tế và ngôn ngữ chung có tác động tích cực đối với xuất khẩu các mặt hàng thủ công của Việt Nam; trong khi đó tác động của biến khoảng cách địa lý và lạm phát mang dấu âm. Dao Dinh Nguyen (2020) nghiên cứu đến các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo và cà phê của Việt Nam, chỉ ra GDP, khoảng cách và độ mở thương mại có những tác động nhất định tới thương mại của Việt Nam. Nguyễn Anh Thư, Trần Trung Đức (2015) chỉ ra GDP thực tế có mối liên hệ chặt chẽ với với giá trị xuất khẩu và nhập khẩu sản phẩm điện tử của Việt Nam sang các nước đối tác; trong khi đó việc ước tính khoảng cách thu nhập và khoảng cách địa lý chỉ ra mối tương quan nghịch với giá trị xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, các hiệp định thương mại cũng thể hiện những tác động nhất định đến giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với các nước đối tác trong ngành hàng điện tử. Mặc dù trong những năm gần đây, Hàn Quốc đã trở thành đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam và hai quốc gia cũng đã ký Hiệp định thương mại tự do VKFTA, bên cạnh đó xuất nhập khẩu linh kiện của Việt Nam sang thị trường Hàn Quốc chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc và liên tục tăng trong những năm gần đây. Tuy nhiên hiện nay có rất ít nghiên cứu về về những yếu tố tác động tới thương mại Việt Nam - Hàn Quốc, cụ thể là trong ngành hàng linh kiện điện tử. Do đó nghiên cứu này nhằm mục đích phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến thương mại ngành hàng linh kiện điện tử giữa Việt Nam và Hàn Quốc, đồng thời thảo luận và đưa ra những hàm ý chính sách cụ thể. 8
  10. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Xây dựng mô hình Bài nghiên cứu này thực hiện ước lượng tác động của các nhân tố đến quy mô thương mại linh kiện điện tử giữa Việt Nam và Hàn Quốc dựa trên nền tảng mô hình lực hấp dẫn. Do diễn biến phức tạp của dịch Covid - 19 đã ảnh hưởng nặng nề đến tình hình kinh tế nói chung và tình hình thương mại quốc tế nói riêng nên để có ước lượng vững hơn so với các ước lượng POLS, FEM, REM hay GLS trước đây đã thực hiện, nhóm nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy hệ số ngẫu nhiên bằng GLS với sự điều chỉnh của biến covid như một biến offset. Dựa vào lý thuyết mô hình trọng lực của Tinbergen và tổng quan các nghiên cứu đi trước, nhóm tác giả đề xuất mô hình như sau: 𝒏 𝒍𝒏𝒀 𝒊𝒕 = 𝒂 𝒊 + ∑ 𝜷 𝒊𝒕 𝑿 𝒊𝒕 + 𝜺 𝒊𝒕 (𝟑) 𝒊=𝟏 Trong đó: lnY : Biến phụ thuộc của quan sát i it X : Biến độc lập i.t a : Hệ số tự do i β : Hệ số hồi quy j ɛit: Sai số hồi quy Dựa vào tổng quan các nghiên cứu đi trước, nhóm tác giả xem xét mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thương mại linh kiện điện tử giữa Việt Nam và Hàn Quốc như sau: 𝒕𝒓𝒂𝒅𝒆 𝒊𝒕 = 𝒇(𝒅𝒊𝒔𝒕𝒈𝒅𝒑 𝒊𝒕 , 𝒅𝒊𝒔𝒕𝒗𝒌𝒑𝒐𝒑 𝒊𝒕 , 𝒅𝒊𝒔𝒕 𝒊𝒕 , 𝒅𝒊𝒔𝒕𝒊𝒏𝒇 𝒊𝒕 , 𝒇𝒅𝒊 𝒊𝒕 , 𝒆𝒙𝒓𝒂𝒕𝒆 𝒊𝒕 , 𝒗𝒌𝒇𝒕𝒂 𝒊𝒕 ) (4) Trong đó: tradeit: Quy mô xuất khẩu/ nhập khẩu của hàng hóa linh kiện điện tử có mã HS tới 4 chữ số i năm t distgdpit: Khoảng cách về quy mô GDP giữa Việt Nam và Hàn Quốc năm t distvkpopit: Tổng quy mô dân số giữa Việt Nam và Hàn Quốc năm t distit: Khoảng cách về địa lý giữa Việt Nam và Hàn Quốc năm t distinfit: Khoảng cách về tỷ lệ lạm phát giữa Việt Nam và Hàn Quốc năm t fdiit: Dòng vốn đầu tư nước ngoài từ các nước trên thế giới vào Việt Nam năm t exrateit: Tỷ giá hối đoái giữa đồng Kwon và VND năm t vkftait: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc 9
  11. Đầu tiên nhóm nghiên cứu kiểm tra tác động của các nhân tố đã chọn tới hoạt động nhập khẩu linh kiện điện tử giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Mô hình 1 cụ thể có dạng như sau: 𝑳𝒏𝒊𝒎𝒑𝒐𝒓𝒕 𝒊𝒕 = 𝜷 𝟎 + 𝜷 𝟏 ∗ 𝑳𝒏𝒅𝒊𝒔𝒕𝒈𝒅𝒑 𝒊𝒕 + 𝜷 𝟐 ∗ 𝑳𝒏𝒗𝒌𝒑𝒐𝒑 𝒊𝒕 + 𝜷 𝟑 ∗ 𝑳𝒏𝒅𝒊𝒔𝒕 𝒊𝒕 + 𝜷 𝟒 ∗ 𝑳𝒏𝒅𝒊𝒔𝒕𝒊𝒏𝒇 𝒊𝒕 + 𝜷 𝟓 ∗ 𝑳𝒏𝒇𝒅𝒊 𝒊𝒕 + 𝜷 𝟔 ∗ 𝑳𝒏𝒆𝒙𝒓𝒂𝒕𝒆 𝒊𝒕 + 𝜷 𝟕 ∗ 𝒗𝒌𝒇𝒕𝒂 𝒊𝒕 + 𝜺 𝒊𝒕 (𝟓) Trong đó: β0 là hệ số tự do của mô hình β1, β2, β3, β4, β5, β6, β7 là các hệ số hồi quy của mô hình. · ɛit là sai số hồi quy Sau đó nhóm nghiên cứu sẽ kiểm tra tác động của các nhân tố này tới hoạt động xuất khẩu với biến phụ thuộc là Lnexportit và loại bỏ nhân tố khoảng cách lạm phát. Mô hình 2 có dạng cụ thể như sau: 𝑳𝒏𝒆𝒙𝒑𝒐𝒓𝒕 𝒊𝒕 = 𝜷 𝟎 + 𝜷 𝟏 ∗ 𝑳𝒏𝒅𝒊𝒔𝒕𝒈𝒅𝒑 𝒊𝒕 + 𝜷 𝟐 ∗ 𝑳𝒏𝒗𝒌𝒑𝒐𝒑 𝒊𝒕 + 𝜷 𝟑 ∗ 𝑳𝒏𝒅𝒊𝒔𝒕 𝒊𝒕 + 𝜷 𝟒 ∗ 𝑳𝒏𝒇𝒅𝒊 𝒊𝒕 + 𝜷 𝟓 ∗ 𝑳𝒏𝒆𝒙𝒓𝒂𝒕𝒆 𝒊𝒕 + 𝜷 𝟔 ∗ 𝒗𝒌𝒇𝒕𝒂 𝒊𝒕 + 𝜺 𝒊𝒕 (𝟔) Trong đó: β0 là hệ số tự do của mô hình β1, β2, β3, β4, β5, β6 là các hệ số hồi quy của mô hình. · ɛit là sai số hồi quy 4.2. Phương pháp thu thập dữ liệu Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng về dòng xuất nhập khẩu linh kiện điện tử giữa Việt Nam đến Hàn Quốc trong 11 năm từ 2012 đến 2022 đối với nhóm hàng linh kiện điện tử phân loại theo Hệ thống hài hòa mô tả hàng hóa đến 4 chữ số (7 mã hàng hóa: 8518, 8519, 8524, 8525, 8532, 8541, 8542). Nguồn dữ liệu được thu thập cụ thể như bảng sau: Bảng 4.2. Nguồn dữ liệu Biến số Mô tả biến Nguồn dữ liệu Giá trị linh kiện điện tử nhập khẩu từ lnimport UN Comtrade Hàn Quốc vào Việt Nam Giá trị linh kiện điện tử xuất khẩu từ lnexport UN Comtrade Việt Nam sang Hàn Quốc Khoảng cách Tổng sản phẩm nội địa Tính toán dựa trên số liệu của lndistgdp Việt Nam và Hàn Quốc World Bank 10
  12. Tính toán dựa trên số liệu của lnvkpop Quy mô dân số Việt Nam và Hàn Quốc World Bank Tính toán dựa trên số liệu của lndistinf Khoảng cách lạm phát World Bank Dòng vốn đầu tư trực tiếp từ các nước lnfdi Bộ Kế hoạch và Đầu tư vào Việt Nam lnexrate Tỷ giá hối đoái IMF Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - vkfta Bộ Công thương Hàn Quốc 4.3. Giả thuyết nghiên cứu Với mục tiêu tổng hợp và kiểm định lại các thành tố nghiên cứu bằng bộ số liệu mới để giải thích cho vấn đề, nhóm nghiên cứu đặt ra những kỳ vọng dấu với các biến như trong bảng sau: Bảng 4.3. Mô tả biến trong mô hình Kỳ vọng Kỳ vọng dấu cho dấu cho Biến Ký hiệu Đo lường các biến Căn cứ mô hình mô hình 1 2 Quy mô giá trị nhập khẩu Tổng giá hàng linh kiện điện tử từ trị hàng Hàn Quốc vào Việt Nam linh kiện được đo lường bằng giá trị lnimport điện tử logarit tự nhiên giá trị hàng nhập hóa nhập khẩu được lấy từ Biến khẩu UN COMTRADE, tính theo phụ USD thuộc Quy mô giá trị xuất khẩu Tổng giá hàng linh kiện điện tử từ trị linh Việt Nam sang Hàn Quốc kiện điện lnexport được đo lường bằng giá trị tử xuất logarit tự nhiên giá trị hàng khẩu hóa xuất khẩu được lấy từ UN COMTRADE, tính theo 11
  13. USD Giá trị logarit chênh lệch GDP giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Dữ liệu GDP của các quốc gia được thu thập từ website của ngân hàng thế Kahouli (2016), Khoảng giới, tính theo USD. Oesingmann cách lndistgdp Lndistgdpit = ln(vgdpit - + + (2022), Jiang và GDP kgdpit) Oh (2023) Trong đó: vgdpit: Tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam năm t kgdpit: Tổng sản phẩm quốc nội của Hàn Quốc năm t Giá trị logarit của quy mô dân số Việt Nam và Hàn Carrere (2006), Quốc. Dữ liệu dân số của Iwanow và Biến các quốc gia được thu thập Kirkpatrick độc từ website của ngân hàng (2007), Kahouli lập Khoảng thế giới, tính theo người (2016), Carrere cách dân lnvkpop Lnvkpopit = ln(vpopit * -/+ -/+ (2006), Iwanow và số kpopit) Kirkpatrick Trong đó: (2007), Kahouli vpopit: Dân số của Việt Nam (2016) năm t kpopit: Dân số của Hàn Quốc năm t Giá trị logarit chênh lệch giữa tỷ lệ lạm phát giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Dữ liệu Khoảng tỷ lệ lạm phát hàng năm của cách lạm lndistinf các quốc gia được thu thập + phát từ website của ngân hàng thế giới, tính theo %. lndistinfit = ln(|vinfit - kinfit|) Trong đó: 12
  14. Vinfit :Tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam năm t Kinfit :Tỷ lệ lạm phát tại Hàn Quốc năm t Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (lnfdi) là mức độ thu hút FDI từ các nước trên Dòng thế giới vào Việt Nam. FDI vốn đầu đi vào Việt Nam được đo Bwalya (2006), +/- tư trực lnfdi lường bằng giá trị logarit tự +/- Wu và cộng sự tiếp nước nhiên dòng vốn FDI đi vào (2022) ngoài đã đăng kí tại Cục đầu tư nước ngoài (tỷ USD, tính theo giá USD hiện tại) từ năm 2012 đến năm 2022. Giá trị logarit của tỷ giá hối Dascal và cộng sự Tỷ giá đoái giữa KRW/VND theo lnexrate -/+ +/- (2002), Anwar và hối đoái trung bình giai đoạn được Nguyen (2010) thu thập từ IMF database Hiệp Biến giả sẽ được đưa vào định mô hình, biến giả sẽ nhận Narayan và thương giá trị là 1 khi Việt Nam Nguyen (2016), vkfta + + mại tự tham gia vào khu vực FTA Kahouli (2016) do với Hàn Quốc và ngược lại Biến VKFTA thì biến giả nhận giá trị 0. giả Giữ cố Giữ cố Biến giả nhận giá trị là 1 định và định và vào năm có diễn biến covid Covid - không không covid - 19 (2019 và 2020) và 19 ước ước ngược lại nhận giá trị 0 vào lượng hệ lượng hệ những năm còn lại số số 13
  15. 5. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 5.1. Kết quả ước lượng các nhân tố ảnh hưởng đến tiềm năng nhập khẩu linh kiện điện tử Việt Nam 5.1.1 Kết quả nghiên cứu Nhóm tác giả tiến hành tổng quan dữ liệu thông qua phần mềm Stata và thu được mô tả thống kê: Bảng 5.1.1. Mô tả thống kê Số quan Giá trị trung Giá trị nhỏ Giá trị lớn Biến số Độ lệch chuẩn sát bình nhất nhất lnimport 77 18.907 3.290 10.576 23.692 lndistgdp 77 27.872 0.081 27.710 28.004 lnvkpop 77 36.109 0.040 36.039 36.162 lndistinf 77 0.540 1.139 -2.526 1.932 lnexrate 77 2.966 0.038 2.891 3.022 lnfdi 77 9.461 0.258 9.032 9.792 vkfta 77 0.636 0.484 0 1 Dựa vào bảng thống kê mô tả, các biến lndistgdp, lnvkpop, lnexrate và lnfdi đều có giá trị dao động xung quanh giá trị trung bình. Trong khi đó, biến lndistinf lại có độ lệch chuẩn đáng kể. Để có cái nhìn tổng quan về tương quan giữa các biến, phương pháp mô tả tương quan đã được thực hiện tại mức ý nghĩa 10%. Bảng 5.1.2. Mô tả tương quan các biến với mức ý nghĩa 10% Biến số lnimport lndistgdp lnvkpop lndistinf lnexrate lnfdi vkfta lnimport 1.000 lndistgdp 0.075 1.000 lnvkpop 0.065 0.793* 1.000 lndistinf -0.029 -0.318* -0.232* 1.000 lnexrate 0.045 0.707* 0.220* -0.128 1.000 lnfdi 0.072 0.771* 0.974* -0.270* 0.182 1.000 vkfta 0.072 0.737* 0.868* 0.009 0.217* 0.897* 1.000 Có thể thấy các biến trong mô hình đều có tương quan tương đối thấp, duy chỉ cặp biến khoảng cách quy mô GDP – quy mô dân số hai nước và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI – Hiệp định thương mại hai nước VKFTA cho thấy tương quan khá lớn. Kiểm định đa cộng tuyến đã được thực hiện và cho kết quả khả quan rằng các biến không xuất hiện hiện tượng đa cộng tuyến. Mô hình được thử nghiệm ước lượng bằng các phương pháp hồi quy tuyến tính như OLS, FEM, REM, GLS nhằm khắc phục các khuyết tật mô hình nhưng không cho thấy hiệu quả, do đó nhóm tác giả đã tiến hành hồi quy bằng phương pháp hồi quy với hệ số ngẫu nhiên (Random-coefficient regression). Kết quả thu được: 14
  16. Bảng 5.1.3. Kết quả ước lượng lnimport Hệ số hồi quy Độ lệch chuẩn P>|z| Khoảng tin cậy (95%) lndistgdp 18.565 2.174 0.000 14.306 22.826 lnvkpop -31.047 7.068 0.000 -44.900 -17.194 lndistinf 0.0489 0.051 0.334 -0.050 0 .148 lnfdi 1.729 .939 0.066 -0.111 3.570 lnexrate -19.150 3.427 0.000 -25.866 -12.434 vkfta -.319 .262 0.224 -.833 0.195 _cons 662.952 269.668 0.014 134.413 1191.492 covid 1 (offset) Kiểm định hệ số cố định: chi2(42) = 7224.22 Prob > chi2 = 0.0000 Wald chi2(6) = 275.76 5.1.2. Thảo luận kết quả Kết quả kiểm định Wald chi-squared cho thấy giá trị là 275.76 với p – value có giá trị bằng 0.0000, điều này chỉ ra rằng ít nhất một trong các biến giải thích có ảnh hưởng đáng kể đến biến phụ thuộc. Biến lndistgdp (Khoảng cách GDP) có hệ số ước lượng 18.566 và có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy nếu khoảng cách GDP giữa Việt Nam và đối tác tăng lên 1%, thì tổng giá trị nhập khẩu linh kiện điện tử từ đối tác đó sẽ tăng khoảng 18.57%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu trước đó cho rằng khoảng cách GDP lớn sẽ làm tăng giá trị thương mại giữa hai nước. Biến lnvkpop (Khoảng cách dân số) có hệ số ước lượng -31.047 và có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy nếu khoảng cách dân số giữa Việt Nam và đối tác tăng lên 1%, thì tổng giá trị nhập khẩu linh kiện điện tử từ đối tác đó sẽ giảm khoảng 31.05%. Biến lndistinf (Khoảng cách lạm phát) có hệ số ước lượng 0.049 nhưng không có ý nghĩa thống kê. Do đó, không thể kết luận khoảng cách lạm phát ảnh hưởng đến tổng giá trị nhập khẩu linh kiện điện tử. Biến lnfdi (dòng vốn đầu tư nước ngoài) có hệ số ước lượng 1.729 và có thể có ý nghĩa thống kê ở mức tin cậy thấp hơn. Điều này gợi ý rằng nếu dòng vốn FDI tăng lên 1%, tổng giá trị nhập khẩu linh kiện điện tử có khuynh hướng tăng khoảng 1.73%, phù hợp với giả thuyết ban đầu rằng dòng vốn FDI thúc đẩy nhập khẩu nguyên vật liệu. 15
  17. Biến lnexrate (tỷ giá hối đoái) có hệ số ước lượng -19.15005 và có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy nếu tỷ giá hối đoái tăng lên 1% (đồng VND mất giá), thì tổng giá trị nhập khẩu linh kiện điện tử sẽ giảm khoảng 19.15%, phù hợp với lý thuyết kinh tế vĩ mô. Biến vkfta (hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc) có hệ số ước lượng -0.3192925 nhưng không có ý nghĩa thống kê. Do đó, không thể kết luận hiệp định VKFTA ảnh hưởng đến tổng giá trị nhập khẩu linh kiện điện tử từ Hàn Quốc. Hệ số cho hằng số (_cons) có ý nghĩa thống kê. Biến covid được sử dụng như một biến offset, có nghĩa là nó được giữ cố định trong mô hình và không ước lượng hệ số cho nó. Kiểm định tính không đổi của tham số cho thấy giá trị chi bình phương là 7224.22 với 42 độ tự do và giá trị p – value ở mức thấp bằng 0.0000, chỉ ra rằng có sự thay đổi đáng kể trong các tham số của mô hình qua thời gian, điều này cần được xem xét kỹ lưỡng hơn. Kết quả ước lượng nhìn chung đều phù hợp với lý thuyết nền và kỳ vọng tương quan mong đợi của nhóm tác giả. Điều này phản ánh khoảng cách về quy mô GDP giữa Việt Nam và Hàn Quốc tăng sẽ làm tăng giá trị nhập khẩu trong giai đoạn 2012 - 2022. Dân số của Hàn Quốc tăng sẽ làm tăng nhu cầu sử dụng hàng hóa và dịch vụ của bản thân quốc gia đó, điều này góp phần làm giảm sản lượng xuất khẩu của quốc gia này dẫn đến sản lượng nhập khẩu Việt Nam từ Hàn Quốc đó cũng giảm do ít nguồn cung. Bên cạnh đó, dấu của biến FDI từ nước ngoài vào Việt Nam có tác động cùng chiều cho thấy việc tăng nguồn vốn đầu tư nước ngoài sẽ làm tăng giá trị nhập khẩu linh kiện điện tử, thúc đẩy sản xuất. Gia tăng vốn FDI làm tăng năng lực sản xuất do đó làm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu linh kiện điện tử. Nhập khẩu của Việt Nam cũng không tồn tại hiệu ứng đường cong J do khi đồng ngoại tệ đắt hơn so với nội tệ sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thay vì nhập khẩu để tăng nguồn ngoại tệ, điều này ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động nhập khẩu linh kiện điện tử từ Hàn Quốc vào Việt Nam. Một điều thú vị là Hiệp định thương mại tự do VKFTA không có ý nghĩa thống kê trong mô hình này. Điều này cũng không quá bất ngờ vì VKFTA mới có hiệu lực từ 2015 bên cạnh đó VKFTA không thay thế AKFTA đã ký kết từ 2007 mà các doanh nghiệp có thể lựa chọn hiệp định nào có lợi hơn. Nhìn chung, mô hình cho thấy một số biến có ảnh hưởng đáng kể đến biến phụ thuộc, nhưng cũng có sự thay đổi đáng kể trong các tham số qua thời gian, điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng giải thích của mô hình. Biến offset covid được giữ cố 16
  18. định để điều chỉnh cho ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, giả định rằng nó có ảnh hưởng nhất quán đến tất cả các quan sát. 5.2 Kết quả ước lượng các nhân tố ảnh hưởng đến tiềm năng xuất khẩu linh kiện điện tử Việt Nam 5.2.1 Kết quả thống kê Nhóm tác giả tiến hành tổng quan dữ liệu thông qua mô tả thống kê: Bảng 5.2.1. Mô tả thống kê các biến Số quan Giá trị Giá trị nhỏ Giá trị lớn Biến số Độ lệch chuẩn sát trung bình nhất nhất lnexport 77 17.518 3.085 8.583 22.484 lndistgdp 77 27.872 0.081 27.710 28.004 lnvkpop 77 36.109 0.041 36.039 36.162 lndistinf 77 0.540 1.140 -2.526 1.932 lnexrate 77 2.966 0.038 2.891 3.022 lnfdi 77 9.462 0.258 9.032 9.793 vkfta 77 0.636 0.484 0 1 Dựa vào bảng thống kê mô tả, các biến lndistgdp, lnvkpop, lnexrate và lnfdi đều có giá trị dao động xung quanh giá trị trung bình. Trong khi đó, biến lndistinf lại có độ lệch chuẩn đáng kể. Bên cạnh đó, biến phụ thuộc trong mô hình về tiềm năng xuất khẩu có sự khác biệt không đáng kể khi so sánh với bộ dữ liệu về tiềm năng nhập khẩu. Để có cái nhìn tổng quan về tương quan giữa các biến, phương pháp mô tả tương quan đã được thực hiện tại mức ý nghĩa 10%. Bảng 5.2.2. Mô tả tương quan với mức ý nghĩa 10% Biến số lnexport lndistgdp lnvkpop lndistinf lnexrate lnfdi vkfta lnexport 1.000 lndistgdp 0.179 1.000 lnvkpop 0.237* 0.793* 1.000 lndistinf -0.045 -0.318* -0.232* 1.000 lnexrate 0.030 0.707* 0.220* -0.128 1.000 lnfdi 0.248* 0.771* 0.974* -0.270* 0.182 1.000 vkfta 0.228* 0.737* 0.868* 0.009 0.217* 0.897* 1.000 Phân tích dựa vào bảng tương quan ở mô hình 2 tương đối giống với mô hình 1. Mô hình được thử nghiệm ước lượng bằng các phương pháp hồi quy tuyến tính như OLS, FEM, REM, GLS nhằm khắc phục các khuyết tật mô hình nhưng không cho thấy hiệu quả, do đó nhóm tác giả đã tiến hành hồi quy bằng phương pháp hồi quy với hệ số ngẫu nhiên (Random-coefficient regression). Kết quả thu được: 17
  19. Bảng 5.2.3. Kết quả ước lượng các biến Hệ số lnexport Độ lệch chuẩn P>|z| Khoảng tin cậy (95%) hồi quy lndistgdp 17.189 5.049 0.001 7.293 27.085 lnvkpop -22.984 13.485 0.088 -49.414 3.446 lnfdi 3.765 1.696 0.026 0.441 7.088 lnexrate -18.700 5.780 0.001 -30.030 -7.371 vkfta -0.186 0.450 0.679 -1.067 0.695 _cons 387.940 426.481 0.363 -447.949 1223.828 covid 1 (offset) Kiểm định hệ số cố định: chi2(42) = 1790.49 Prob > chi2 = 0.0000 Wald chi2(5) = 42.37 5.2.2 Thảo luận kết quả Kết quả kiểm định Wald chi-squared cho thấy giá trị là 42.37 với giá trị p-value bằng 0.0000, điều này chỉ ra rằng ít nhất một trong các biến giải thích có ảnh hưởng đáng kể đến biến phụ thuộc. Kết quả ước lượng cho thấy về cơ bản đa số các hệ số đều có ý nghĩa thống kê cao ở mức 1% thông qua kiểm định z: Biến lndistgdp (Khoảng cách GDP) có hệ số 17.189 và có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy nếu khoảng cách GDP giữa Việt Nam và Hàn Quốc tăng lên 1%, thì tổng giá trị xuất khẩu linh kiện điện tử sang đối tác đó sẽ tăng khoảng 17.189%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu trước đó cho rằng khoảng cách GDP lớn sẽ làm tăng giá trị thương mại giữa hai nước. Biến lnvkpop (Khoảng cách dân số) có hệ số -22.984 và có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy nếu khoảng cách dân số giữa Việt Nam và đối tác tăng lên 1%, thì tổng giá trị xuất khẩu linh kiện điện tử sang đối tác đó sẽ giảm khoảng 22.984%. Kết quả này trái ngược với kỳ vọng ban đầu rằng khoảng cách dân số lớn sẽ làm tăng nhu cầu thương mại. Biến lndistinf (Khoảng cách lạm phát) không có ý nghĩa thống kê. Do đó, không thể kết luận khoảng cách lạm phát ảnh hưởng đến giá trị xuất khẩu linh kiện điện tử. Biến lnfdi (dòng vốn đầu tư nước ngoài) có hệ số 3.765 và có thể có ý nghĩa thống kê ở mức tin cậy thấp hơn. Điều này gợi ý rằng nếu dòng vốn FDI tăng lên 1%, giá trị xuất khẩu linh kiện điện tử có khuynh hướng tăng khoảng 3.765%. Kết quả này phù hợp với giả thuyết ban đầu rằng dòng vốn FDI sẽ thúc đẩy xuất khẩu nguyên vật liệu. 18
  20. Biến lnexrate (tỷ giá hối đoái) có hệ số -18.700 và có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy nếu tỷ giá hối đoái tăng lên 1% (VND mất giá), thì giá trị xuất khẩu linh kiện điện tử sẽ giảm khoảng 18.700%. Kết quả này phù hợp với lý thuyết kinh tế vĩ mô, đồng VND mất giá sẽ làm hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn so với đồng tiền của đối tác. Biến vkfta (hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc) không có ý nghĩa thống kê. Do đó, không thể kết luận hiệp định VKFTA ảnh hưởng đến giá trị xuất khẩu linh kiện điện tử sang Hàn Quốc. Nhìn chung, các yếu tố như khoảng cách GDP, dòng vốn FDI và tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đáng kể đến giá trị xuất khẩu linh kiện điện tử của Việt Nam. Trong khi đó, khoảng cách lạm phát và hiệp định VKFTA không cho thấy tác động rõ ràng. Kiểm định tính không đổi của tham số (Test of parameter constancy) cho thấy giá trị chi bình phương là 1790.49 với 42 độ tự do và p – value bằng 0.0000, chỉ ra rằng có sự thay đổi đáng kể trong các tham số của mô hình qua thời gian, điều này cho thấy mô hình cần được xem xét kỹ lưỡng hơn. 6. Kết luận và gợi ý chính sách 6.1. Kết luận Bài nghiên cứu này tập trung vào việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong lĩnh vực linh kiện điện tử trong giai đoạn từ 2012 đến 2020. Đối với một quốc gia như Việt Nam, ngành công nghiệp linh kiện điện tử đã trở thành một phần quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp công nghệ. Nghiên cứu đã chỉ ra những tác động tích cực của khoảng cách quy mô kinh tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc tới hoạt động thương mại linh kiện điện tử giữa 2 nước. Ngoài ra, FDI cũng đóng vai trò thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu nhưng ở mức chưa đáng kể. Ngược lại, Tỷ giá hối đoái có tác động tiêu cực tới cả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu linh kiện điện tử trong khoảng từ 2012 đến 2022. Ngoài những kết quả đã tìm được thì nghiên cứu vẫn còn một vài hạn chế cần phải được giải quyết trong tương lai như biến mức độ hiệu quả của chính sách thương mại không có ý nghĩa thống kê trong mô hình, nghiên cứu chưa đưa vào các yếu tố liên quan đến thể chế. Do đó, cần có nhiều nghiên cứu hơn để giải quyết những hạn chế này nhằm cung cấp dữ liệu và khuyến nghị cụ thể hơn. Bên cạnh đó, nó cũng gợi ý rằng cần phải nghiên cứu sâu hơn với sự tham gia của các quốc gia đối tác chiến lược khác hoặc các ngành hàng khác để phân tích sâu hơn về các yếu tố quyết định thương mại quốc tế. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2