
Tài chính quốc tế Cao học K18 _ NH Đêm 05
1
RESEARCH: 1
1
GVHD: PGS. TS. Nguyễn Thị Liên Hoa
LỚP CHK18_NHĐÊM 05
NHÓM THỰC HIỆN :
1. Đinh Ngọc Trường
2. Trần Ngọc Châu
3. Nguyễn Thị Hồng Hà
4. Lê Nguyễn Nữ Hoài Lệ
5. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
6. Nguyễn Thanh Thái

Tài chính quốc tế Cao học K18 _ NH Đêm 05
2
TÓM TẮT
Nghiên cứu đánh giá những nguyên nhân cơ bản của cuộc khủng
hoảng tài chính hiện tại. Các phân tích tài chính thể hiện rằng Mô hình lí
thuyết dựa trên những giả định không thực đã dẫn đến vấn đề nghiêm
trọng trong sự mất giá của Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng ở Thị
trường không quản lý, đó là chất xúc tác làm bùng nổ việc vỡ nợ thế
chấp nhà ở. Những nghiên cứu học thuật gần đây nghiên cứu giải pháp
cho cuộc khủng hoảng, được đánh giá là ít tốn kém chi phí hơn nhiều so
với việc cứu giúp các nhà đầu tư, những người đã đưa ra quyết định tài
chính sai lầm về phương diện phân tích tín dụng.
JEL:G11,G12,G13,G14.

Tài chính quốc tế Cao học K18 _ NH Đêm 05
3
PHÂN TÍCH VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH NĂM 2008:
CÁC NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
Khủng hoảng tài chính năm 2008 mang tầm vóc lịch sử, thậm chí
cho tới bây giờ những khoản tiền kếch xù để giải quyết khủng hoảng vẫn
không đủ để xử lý. Bên cạnh 700 tỷ USD được quốc hội công bố, Cục
dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã cố gắng cứu giúp các tổ chức và thị
trường khoảng 1,3 ngàn tỷ USD bằng cách đầu tư vào những tài sản rủi
ro, bao gồm nợ của những tổ chức phá sản và các khoản nợ bảo đảm
bằng tài sản thế chấp dưới chuẩn, thứ đang vỡ nợ với nhịp độ chóng mặt
(Morris ,2008). Thêm 900 tỷ USD được đề xuất cho những công ty lớn
vay (Aversa,2008), nâng tổng số lên gần 3000 tỷ USD tiền cứu viện cho
đến nay, chưa kể đến các khoản nợ lớn của các công ty được đảm bảo
bởi chính phủ Hoa Kỳ vào năm ngoái. Một phân tích về những nguyên
nhân cơ bản của “Sự thất bại to lớn này”, đã đặt toàn bộ hệ thống tài
chính vào tình thế nguy cấp (Woellert và Kopecki,2008) đó là bảo đảm
giải quyết hai vấn đề trên và tránh rơi vào tình thế tương tự trong tương
lai.
Nguyên nhân cơ bản của khủng hoảng : Sự mất giá
trong thị trường hoán đổi rủi ro tín dụng.
Nguyên nhân khủng hoảng tài chính hiện thời được nhiều người xác
định là do sự mất thanh khoản của tài sản thế chấp, tuy nhiên bi kịch này
chỉ là một nhân tố và là dấu hiệu của vấn đề nghiêm trọng hơn. Giá trị
của Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng, khoản tiền gốc được Uỷ ban
Giao Dịch Chứng Khoán (SEC) ước tính khoảng 55 ngàn tỷ USD và
thực tế có thể vượt trên 60 ngàn tỷ USD (gấp hơn 4 lần số tiền nợ của
Công ty đại chúng và các khoản nợ có thế chấp ở Mỹ, được mong đợi là

Tài chính quốc tế Cao học K18 _ NH Đêm 05
4
có đảm bảo), thì hoàn toàn không được quản lý và thường là hợp đồng
giao dịch trên điện thoại và không có văn bản pháp lý (Simon, 2008), đó
là vấn đề cơ bản về nguồn gốc của cuộc khủng hoảng.
Về khái niệm, hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng là những công cụ
khá đơn giản, đó là sự ủy thác mà một bên sẽ trả một khoản phí định kỳ
cho bên kia để đảm bảo rằng khoản nợ của một vài pháp nhân (ví dụ một
công ty cụ thể) không vỡ nợ trong một khoảng thời gian ví dụ như 5
năm. Chúng là những văn bản đảm bảo nợ hiệu quả trong khi nó còn
được gán cho là tránh né sự quản lý vì thông thường sẽ bị đánh thuế lên
Hợp Đồng bảo hiểm. Thị trường không được điều tiết này lớn mạnh như
thổi từ 900 tỷ USD đầu Thiên niên kỉ đến hơn 50 ngàn tỷ USD trong
năm 2008 sau khi Quốc hội ban hành luật miễn thuế năm 2000.
Đầu tư vào một khoản nợ luôn đòi hỏi sự bù đắp không chỉ giá trị
thời gian của tiền tệ mà còn phần bù cho rủi ro tín dụng của những
khoản nợ đó. Sự bù đắp cho giá trị thời gian của tiền tệ luôn được cung
cấp bởi cam kết nợ, tối thiểu một tỷ suất sinh lời ngang bằng lãi suất Trái
Phiếu Chính phủ phi rủi ro như Trái phiếu kho bạc Mỹ. Phần bù rủi ro
tín dụng trên đây cho thấy tỷ suất phải bù đắp cho nhà đầu tư không chỉ
giá trị dự kiến của những mất mát vỡ nợ mà còn cho cả rủi ro hệ thống
liên quan đến khoản nợ cũng như vài quyền chọn ấn định.(Murphy,1988)
Trong hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng hay hợp đồng bảo hiểm
trái phiếu, bên bảo hiểm không có sự đầu tư ban đầu vào các khoản nợ
và cũng chỉ yêu cầu phí bảo hiểm. Tuy nhiên, phí này phải gồm cả 2 phí:
bảo hiểm rủi ro vỡ nợ và rủi ro hệ thống. Phương pháp thích hợp để định
giá phí bảo hiểm đã được biết đến từ lâu (Callaghan and Murphy,1998).
Tuy nhiên, ngày nay nhiều người áp dụng lý thuyết Toán học Thuần
Tuý để định giá rủi ro tín dụng và ước tính phí bảo hiểm rủi ro tín dụng
(Glanz và mun, 2008). Rajun, Seru và Vig (2008) đã đưa ra phân tích

Tài chính quốc tế Cao học K18 _ NH Đêm 05
5
của những dự báo sai lầm do áp dụng những mô hình như vậy, mặc dù
đã đưa dữ liệu quá khứ vào mô hình cực kỳ tốt nhưng lại bỏ qua những
đánh giá của con người về “thông tin mềm”. Mô hình như “quants” của
những người đã có ảnh hưởng lớn đến Ngân hàng hiện đại, theo vài nhà
phân tích, là “rất vô dụng” (New Scientist, 2008b) và kết quả thật thê
thảm cho nhiều tổ chức trung thành mù quáng với chúng. Ví dụ như, các
nhà Bảo hiểm nợ danh tiếng thông qua hoán đổi rủi ro tín dụng (AIG)
đặt niềm tin mù quáng vào mô hình rủi ro tài chính và tập thể nhân viên
tài năng của họ ban đầu tạo ra thu nhập lớn cho công ty trong vài năm
đầu nhưng sau đó đã dần thua lỗ (Morgenson ,2008).
Trong vài năm trước, những dự báo về các vấn đề nghiêm trọng và
“câu chuyện khủng khiếp” về cuộc khủng hoảng hôm nay của những nhà
quản lý đã bị xem nhẹ vì sự vận động thành công của những định chế tài
chính mà ngày nay đã phá sản hay đang nhận cứu trợ từ quỹ của Chính
phủ (Associate Press ,2008). Ví dụ sự thất bại của 2 định chế Liên bang
(FANNIE MAE và FREDDIE MAC) được dự báo trước vào năm 2005
bởi một chiến dịch 2 triệu USD của Freddie Mac vận động Quốc hội
thành công bãi bỏ hạn chế việc đầu tư của họ vào những khoản thế chấp
rủi ro cao (Yost, 2008). Tương tự, các ngân hàng và định chế khác bảo
hiểm các khoản cho vay của họ (bao gồm những khoản nợ có hiệu lực
mà không có văn bản pháp lý đầy đủ) thì “an toàn” dựa trên sự định giá
từ dữ liệu quá khứ (Associate Press,2008).
Một vài nhà đầu tư chứng khoán nhìn vào kết quả xếp hạng tín
nhiệm do một số công ty xếp hạng tín nhiệm như Moody’s và Standard
& Poors (S & P) đưa ra, những công ty này cũng định giá chủ yếu dựa
trên Mô hình toán học. Những mô hình đó sử dụng thống kê để tìm ra
mối liên hệ trong quá khứ giữa vỡ nợ và một vài biến số như trong
nghiên cứu của Altman (1968), có thể bỏ qua nhiều yếu tố quan trọng và
có xác suất xảy ra cao (Woellert and Kopecki, 2008). Trong khi có một
vài đề nghị rằng những mô hình chỉ cần được cải thiện (New Scientist,