mquanik@yahoo.com
Chương 1
Lược sử hình thành quỹ đầu tư
1. Lược sử hình thành quỹ đầu tư trên thế giới:
tưởng tập trung các khoản tiền nhỏ thành một nguồn lớn hơn để đầu tư xuất hiện
tại châu Âu vào khoảng giữa thế kỷ 19, khởi thủy ở Hà Lan, đến nửa cuối thế kỷ 19 thì
được du nhập sang Anh. Mặc dù có gốc gác từ châu Âu, nhưng Hoa Kỳ mới là nơi các
quỹ đầu tư phát triển mạnh mẽ nhất.
Năm 1893, các khoản quyên góp và ủng hộ tài chính xây dựng và phát triển Đại học
Harvard tại Hoa Kỳ được ghi nhận như sự xuất hiện một quỹ đầu tư. Vào ngày
21/3/1994, quỹ tương hỗ đầu tiên chính thức được thành lập bởi ba nhà kinh doanh chứng
khoán tại Boston (Hoa Kỳ) có tên gọi Quỹ Tín Thác, các nhà đầu tư Massachusetts
(Massachusetts Investors Trust-MIT). Có lẽ, chính những người sáng lập cũng không thể
dự báo trước tương lai phát triển phổ biến của loại hình này.
Sau một năm thành lập, Massachusetts Investors Trust với 50.000 đô-la Mỹ ban đầu
đã sở hữu khối tài sản trị giá 392.000 USD và thu hút gần 200 nhà đầu tư. MIT tập trung
và các cổ phiếu lớn, tăng trưởng nhanh và có trả cổ tức. Danh mục đầu tư của Quỹ gồm
các loại cổ phiếu của General Electric Co., Standard Oil Of Indiana (ngày nay là một
phần của BP PLC) và American Telephone & Telegraph Co. (AT&T Inc.). Không giống
nhiều quỹ đầu tư hoạt động trong thời kỳ này, MIT tránh sử dụng các đòn bẩy tài chính
để huy động nguồn đầu tư. Khi thị trường chứng khoán Hoa Kỳ chạm đáy vào năm 1932,
nhiều quỹ đầu tư đã gục ngã nhưng MIT vẫn trụ vững và tồn tại cho đến hôm nay, với tên
gọi được biết đến rộng rãi MFS Investment Management.
Khủng hoảng 1929 làm chậm quá trình tăng trưởng các quỹ đầu tư tương hỗ tại Hoa
Kỳ. Luật chứng khoán năm 1933 và Luật Giao dịch chứng khoán năm 1934 được ban
hành nhằm khôi phục thị trường. Theo hai đạo luật này, các quỹ đầu tư phải đăng ký hoạt
động với Ủy ban SEC (Securities & Exchance Comission) và cung cấp bản báo bạch tới
mquanik@yahoo.com
các nhà đầu tư tiềm năng. Tới năm 1940, SEC tiếp tục ban hành Luật Công ty đầu tư với
các chỉ dẫn pháp lý bắt buộc các quỹ đầu tư phải tuân theo, được áp dụng tới tận ngày
nay.
Niềm tin được phục hồi trên thị trường chứng khoán và các quỹ tương hỗ bắt đầu nở
rộ. Tới cuối thập kỷ 60 của thế kỷ trước, Hoa Kỳ có khoảng 270 quỹ với giá trị tài sản
nắm giữ ước khoảng 48 tỷ đô- la Mỹ. Năm 1976, John C. Bogle mở quỹ đầu tư chỉ số thị
trường đầu tiên, có tên First Index Investment Trust. Vào tháng 11 năm 2000, đây là quỹ
tương hỗ có giá trị lớn nhất trong lịch sử với 100 tỷ đô-la Mỹ tài sản. Quỹ này ngày nay
có tên gọi Vanguard 500 Index.
Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Mỹ:
Quỹ đầu tư chứng khoán ở Mỹ có một lịch sử khá lâu đời và đã nhanh chóng phát huy
được những đặc tính ưu việt của mình nhờ được sự hỗ trợ đáng kể của một nền kinh tế
phát triển khá ổn định và một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả.
Quỹ đầu tư chứng khoán ở Anh :
Quỹ đầu tư chứng khoán ở Anh có thể tồn tại dưới hai dạng kết thúc đóng và kết thúc m
tương ứng. Hai loại hình quỹ đặc trưng của Anh là Quỹ tín thác đầu tư và Quỹ tín thác
đơn vị. Ở Anh, các công ty quản lý quỹ hay Quỹ đầu tư cũng không đảm nhận việc mua
bán chứng chỉ quỹ hay cổ phiếu trực tiếp tới công chúng, chức năng này thường do một
công ty chứng khoán thực hiện.
Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Nhật Bản:
Các Quỹ đầu tư ở Nhật mang một đặc điểm nổi bật đó là các quỹ chỉ tồn tại theo mô hình
tín thác chứ không theo mô hình công ty.
Quỹ đầu tư lần đầu tiên xuất hiện ở Nhật vào năm 1941. Trải qua nhiều khó khăn nhưng
kể từ năm 1996 trở lại đây, các Quỹ đầu tư đã thực sự bước vào giai đoạn phát triển ổn
định và đóng một vai trò quan trọng vào sự phát triển của thị trường chứng khoán và nền
kinh tế nói chung
Quỹ đầu tư chứng khoán tại Hàn Quốc:
Quỹ đầu tư chứng khoán Hàn Quốc được hình thành từ năm 1969 với mô hình tương tự
như mô hình Quỹ đầu tư dạng tín thác ở Anh. Chính phủ Hàn Quốc quyết định chọn mô
hình này là nhằm hỗ trợ cho chính phủ trong các chính sách phát triển kinh tế. Bởi vì Quỹ
đầu tư mô hình tín thác là yếu tố cần thiết trong việc huy động được một lượng vốn
mquanik@yahoo.com
khổng lồ cho tiến trình phát triển kinh tế trong ngắn hạn và đem lại sự ổn định cho thị
trường tài chính thông qua hoạt động đầu tư chứng khoán gián tiếp. Hiện nay, Hàn Quốc
đã cho phép tồn tại cả hai mô hình tín thác và công ty.
Quỹ đầu tư chứng khoán ở Thái Lan:
Chỉ sau khi thị trường chứng khoán Thái Lan ra đời được một năm (năm 1974), chính
phủ Thái Lan đã rất chú trọng đến việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh chứng khoán và
tăng cường khả năng huy động vốn bằng cách thiết lập Quỹ đầu tư chứng khoán dưới
dạng công ty trách nhiệm hữu hạn. Nhờ đó giúp giới đầu tư Thái Lan vốn rất bỡ ngỡ với
thị trường chứng khoán có thể có được một phương thức đầu tư mới đơn giản và an toàn
hơn nhờ tính đầu tư chuyên nghiệp của quỹ. Tuy nhiên phải đến hai năm sau, hệ thống
Quỹ đầu tư chứng khoán Thái Lan mới chính thức đi vào hoạt động. Trải qua nhiều thăng
trầm, đến những năm 90, kể từ khi Luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán mới ra
đời vào năm 1992 thì hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Thái Lan mới phát triển rực rỡ.
Sự thành công này phụ thuộc rất nhiều vào khả năng phân phối và dịch vụ của các Quỹ
đầu tư. Các quỹ đã xây dựng được các kênh phân phối rất mạnh thông qua việc liên kết
với các ngân hàng thương mại lớn. Góp thêm vào sự phát triển của các quỹ còn phải kể
đến các văn bản luật và quy chế của uỷ ban chứng khoán hoạt động khá hiệu quả do được
soạn thảo bởi những người có kinh nghiệm. Bên cạnh đó, Thái Lan cũng khuyến khích
việc liên doanh với nước ngoài để thành lập Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ nhằm
tranh thủ vốn và kỹ năng của đối tác nước ngoài. Một vấn đề nữa không kém phần quan
trọng là cùng với sự hoạt động của các tổ chức tín thác đầu tư, Thái Lan cũng đã có một
sự quan tâm đúng mức đến việc đào tạo nguồn nhân lực cho hệ thống Quỹ đầu tư chứng
khoán.
2.Lược sử hình thành quỹ đầu tư tại VN:
Những quỹ đầu tư đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng đầu những năm 1990.
Trong nửa đầu những thập kỷ 90, có tám quỹ đầu tư tiến hành hoạt động tại Việt Nam với
tổng lượng vốn huy động khoảng 700 triệu USD. Những khó khăn trong nỗ lực tìm kiếm
cơ hội bỏ vốn cùng tác động của khủng hoảng tài chính-tiền tệ năm 1997 đã khiến các
quỹ nản lòng và lần lượt rút lui. Thời điểm sau năm 1997 chỉ còn lại hai quỹ đầu tư là
Vietnam Enterprise Investment Fund (VIEL) do công ty Dragon Capital quản lý và
mquanik@yahoo.com
Vietnam Frontier Fund (VFF) thuộc tập đoàn Finasa. Bản thân VFF, với qui mô 50 triệu
USD, rốt cuộc cũng ra khỏi Việt Nam sau 10 năm hoạt động. Chỉ khi thị trường chứng
khoán có những dấu hiệu tăng trưởng tích cực, quỹ này mới trở lại với qui mô khiêm tốn
hơn- 15 triệu USD, năm 2005.
Giai đoạn từ 2002 đến 2005, hoạt động của các quỹ đầu tư tương đối trầm lặng. Mặc dù
vậy vẫn xuất hiện thêm nhiều quỹ mới thuộc các công ty Mekong Capital, VinaCapital,
IDG, VietFund hay PXP Asset Management. Cùng với những biến đổi tích cực và mạnh
mẽ của thị trường chứng khoán, từ giữa năm 2006, hệ thống tài chính Việt Nam ghi nhận
giai đoạn bùng nổ các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ.
Trong hai năm 2006-2007, khoảng 20 quỹ đầu tư được mở mới. UBCKNN cũng cấp
giấy phép hoạt động cho 17 công ty quản lý quỹ. Trong số này, nổi bật có Công ty liên
doanh Quản lý quỹ đầu tư BIDV-Vietnam Partners với quỹ VIF có qui mô vốn tối đa
1.600 tỷ đồng và một loạt công ty thành lập vào nửa cuối năm 2007 với qui mô vốn lớn:
Công ty cổ phần Quản lý quỹ đầu tư FPT (vốn điều lệ lớn nhất thị trường- 110 tỷ đồng),
Công ty TNHH Quản lý quỹ SSI (vốn điều lệ 30 tỷ đồng), Công ty TNHH Quản lý quỹ
đầu tư chứng khoán Đông Á (vốn điều lệ- 30 tỷ đồng) Còn phải kể tới hoạt động của các
công ty chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam như Nomura International (Hongkong),
Blackhorse Asset Management Pte Ltd. (Singapore) hay Mirae Asset Maps Investment
Management Co., Ltd. (Hàn Quốc)
mquanik@yahoo.com
Chương 2
Thực trạng hoạt động của quỹ đầu tư tại Việt Nam
1. Tổng quan về các quỹ đầu tư tại Việt Nam:
Trong năm 2009, với 46 công ty quản lý quỹ được thành lập, hoạt động ngành quản lý
quỹ tại Việt Nam dần khẳng định vị trí của mình trên thị trường chứng khoán. Tính đến
cuối năm 2009, các công ty quản lý quỹ đã huy động vốn để đầu tư thông qua quỹ đầu tư
chứng khoán và hoạt động quản lý ủy thác đầu tư lên đến gần 72 nghìn tỷ đồng (xấp xỉ 4
tỷ USD), chiếm gần 10% giá trị vốn hóa thị trường, trong đó chủ yếu nhận ủy thác thông
qua các hoạt động quản lý danh mục đầu tư chiếm tới 87% tổng số vốn huy động thông
qua các công ty quản lý quỹ.
Phần lớn tiền của các quỹ đầu tư vào cổ phiếu niêm yết với giá trị 7.500 tỷ đồng, chiếm
54% giá tr tài sản ròng của các quỹ, 2.700 tỷ đồng tương đuơng 20% vào chứng khoán
chưa niêm yết, phần còn lại vào các tài sản khác. Nguyên nhân có sự tăng mạnh giá trị
chứng khoán niêm yết là do TTCK quý 4/2009 sôi động, giá chứng khoán tăng nâng giá
trị tài sản đầu tư các quỹ vào chứng khoán niêm yết và các quỹ có xu hướng gia tăng đầu
tư vào chứng khoán niêm yết.
Về huy động vốn, tính đến đầu năm 2008, tổng quy mô các quỹ ở mức 12.600 tỷ
đồng và duy trì đến quý 3/2009, nhưng đến cuối năm 2009 chỉ còn 12.350 tỷ đồng do có
1 quỹ giải thể (Indochina capital).
Về tăng trưởng giá trị tài sản ròng (NAV) của các quỹ cũng từng bước được cải thiện.
Cuối năm 2008, giá trị tài sản ròng của các quỹ là gần 10.500 tỷ đồng, thì đến cuối năm
2009 tăng lên gần 13.500 tỷ đồng, gần 23% so với năm 2008. Hầu hết các quỹ đều đạt tỷ
lệ tăng trưởng dương. Với chiến lược đầu tư dài hạn và đầu tư vào sản phẩm chất lượng
cao, các công ty quản lý quỹ đã tạo ra được giá trị gia tăng đáng kể cho các nhà đầu tư là
tổ chức và cá nhân.
Xét về chỉ tiêu lợi nhuận (tổng thu nhập/NAV) năm 2009 khoảng 29%, tỷ lệ này
khá khả quan, các quỹ đã có dấu hiệu thoát khỏi khủng hoảng (cuối năm 2008, tỷ lệ lợi
nhuận âm 40%)