
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN
Môn học: Tài chính quốc tế
Phân tích tình hình kinh tế thế giới hậu khủng
hoảng tài chính toàn cầu
Giáo viên: TS. MAI THU HIỀN
Lớp TCNH – 19A
Nhóm thực hiện: - Nguyễn Như Trinh
- Đậu Huy Ngọc
- Ngô Hoài Nam
- Đào Thị Thu Thủy
- Trần Thị Thu Nga

2
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I. NHỮNG HỆ LỤY VÀ CHUYỂN ĐỔI TRẬT TỰ TOÀN CẦU
CHƯƠNG II. VỊ THẾ MỚI CỦA CÁC NỀN KINH TẾ LỚN TRÊN THẾ GIỚI
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN VÀ THÔNG ĐIỆP ĐỐI VỚI VIỆT NAM

3
LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới đã trải qua một cơn chấn động mạnh với cuộc suy thoái từ năm 2008 đã
suýt tạo ra một cuộc Đại khủng hoảng thứ hai trên quy mô toàn cầu. Đợt suy thoái
quy mô ớn này, bên cạnh việc để lại những hậu quả nghiêm trọng, đã tạo ra những
tranh luận nghiêm túc về kinh tế học hiện đại với những trận chiến giữa các luồng
tư tưởng. Cuộc khủng hoảng kinh tế lần này đã để lại những hệ lụy nặng nề cho
toàn bộ nền kinh tế thế giới nói chung và các nền kinh tế bị ảnh hưởng nói riêng.
Trong phạm vi môn học, nhóm thực hiện tiểu luận cố gắng mô tả những tác động
lâu dài của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua để thấy được kết cấu mong
manh và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trên thế giới. Tất cả các nước
tại mọi nền kinh tế đều phải đối mặt với những hậu quả này và phải chật vật tìm
kiếm những giải pháp và điều chỉnh những kế hoạch trung và dài hạn.
Cho đến nay, cuộc khủng hoảng này là tồi tệ nhất kể từ Đại khủng hoảng năm
1929-1933, làm cho hàng triệu người trên khắp thế giới mất việc làm. Cuộc khủng
hoảng bắt đầu từ Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra toàn cầu và kéo theo toàn bộ nền
kinh tế thế giới xuống dốc. Trong khi người ta nghĩ rằng Mỹ là một trong những
động lực của nền kinh tế toàn cầu với những chính sách kinh tế đúng đắn thì cuộc
khủng hoảng là một sản phẩm mang nhãn hiệu Mỹ được xuất khẩu ra toàn thế giới
với khoảng một phần tư các khoản vay thế chấp của Mỹ đã được chuyển sang nước
ngoài.
Cuộc khủng hoảng cũng đã làm nhiều nền kinh tế gánh chịu tổn thất do lượng cầu
của thế giới tụt giảm. Các nước đang phát triển cũng gánh chịu những hậu quả
nặng nề, đặc biệt là dòng vốn giảm mạnh, trong một số trường hợp là đảo chiều.
Mặc dù đã có những phản ứng nhanh chóng và mạnh mẽ của nhiều chính phủ, nền
kinh tế thế giới tưởng như đã thoát khỏi suy thoái với những tín hiệu lạc quan vào
cuối năm 2010, nhưng tâm lý lo ngại vẫn bao trùm viễn cảnh kinh tế toàn cầu.
Cuộc khủng hoảng đã bắt đầu từ năm 2008 đã để lại một hệ lụy là nền kinh tế suy
yếu, những khoản nợ chồng chất, giá cả tăng vọt, lạm phát leo thang, thất nghiệp
tăng cao và các chính sách thắt lưng buộc bụng đã gây ra bất ổn xã hội ở nhiều
quốc gia.
Trong cuộc khủng hoảng, người ta cũng chứng kiến một xu hướng bổ sung là sự
thay đổi vị thế sản xuất và lợi thế so sánh ở Trung Quốc, Ấn Độ, Brasil và các
nước đang phát triển khác. Sự tăng trưởng ở các nước đang phát triển cũng cho

4
thấy những nền kinh tế lớn trở nên ngày càng quan trọng hơn. Sự phát triển của
những nước này tác động lẫn nhau một cách đáng kể và tác động tới những nước
phát triển.
Những nền kinh tế mới nổi đã bật lên được từ cuộc khủng hoảng và trở thành động
lực của nền kinh tế thế giới trong giai đoạn này. Trong khi đó, các nước phát triển
lại phải đối mặt với hàng loạt vấn đề như tăng trưởng thấp và nợ nần. Trong môi
trường phức tạp đó, nền kinh tế thế giới đang hình thành một cục diện mới theo
hướng hợp tác để cân bằng và ổn định lại, thiết lập các điều kiện mới để có thể
giúp các nước tăng trưởng trở lại.
Cuộc khủng hoảng rồi sẽ là quá khứ, thế giới cũng sẽ thay đổi. Sẽ có các quy định
mới, những điều chỉnh chính sách để thay đổi tình trạng thất bại và sự không hoàn
hảo của nền kinh tế thế giới vừa qua. Từ hậu quả của cuộc suy thoái, người ta rồi
sẽ thành công trong việc tạo ra một cấu trúc mới hiệu quả hơn để thúc đẩy tăng
trưởng và ổn định.
CHƯƠNG I. NHỮNG HỆ LỤY VÀ CHUYỂN ĐỔI TRẬT TỰ TOÀN CẦU
1.1. Những hệ lụy của cuộc khủng hoảng
Điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới trong thập kỷ vừa qua là cuộc khủng hoảng
nặng nề diễn ra sau sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế toàn cầu lên đến đỉnh cao
vào năm 2007. Sự “rơi tự do” của nền kinh tế Mỹ vào năm 2008 – 2009 đã kéo
theo hàng loạt hệ lụy trong đó có khủng hoảng nợ ở châu Âu. Kinh tế thế giới phát
triển mạnh nhưng không vững chắc trước năm 2007 chủ yếu bắt nguồn từ chính
sách vĩ mô nới lỏng thái quá của chính phủ Mỹ sau cuộc khủng hoảng công ty
internet, thường được gọi là “dot.com” vào năm 2000. Sự mất cân đối vĩ mô toàn
cầu đã tạo điều kiện cho các dòng tài chính dịch chuyển với khối lượng chưa từng
thấy trong lịch sử, vượt qua tầm hiểu biết và kiểm soát của giới chính sách, châm
ngòi cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, sau đó lan ra các nước phát triển và kéo
theo sự suy giảm về kinh tế trên toàn thế giới.
Vấn đề của nền KTTG ngày nay mang tính cơ cấu hơn là những biểu hiện mang
tính chu kỳ. Việc đầu tư quá nhiều gây ra dư thừa về năng lực sản xuất thường kéo
theo kết quả là suy thoái. Nhưng đó là sự giảm sút tạm thời về sản lượng như một
phản ứng của việc tái định giá hoặc khấu hao sản lượng dư thừa. Thường là sau khi
những sai lầm này được chỉnh sửa, nền kinh tế sẽ tăng trưởng bình thường và thời

5
gian của các đợt suy thoái này thường là một năm. Khác với chu kỳ kinh tế, các
vấn đề cơ cấu thường diễn ra trong một thời gian dài trong cả thời kỳ tăng trưởng
kinh tế nhanh cũng như tăng trưởng chậm. Ví dụ, tỷ lệ thất nghiệp cao ở khu vực
sử dụng đồng Euro (Eurozone) hay thâm hụt cán cân thanh toán của Mỹ và việc
không tạo thêm việc làm trong nhiều năm ở Nhật Bản.
Tất cả các khu vực giàu có trên thế giới đang gặp nhiều vấn nạn. Nhật Bản với tỷ lệ
tăng trưởng bình quân trên đầu người gần như bằng không, tỷ lệ tăng trưởng ở mức
âm. Eurozone liên tục gặp tỷ lệ thất nghiệp cao, phúc lợi xã hội không bền vững, tỷ
lệ sinh sản thấp hơn nhiều so với mức đủ thay thế lực lượng lao động. Mỹ đạt kết
quả tốt hơn một chút xét về mặt tăng trưởng GDP bình quân đầu người nhưng cán
cân thanh toán của Mỹ bị thâm hụt triển miên.
Tăng trưởng trì trệ
Nền kinh tế thế giới đã trải qua một giai đoàn phát triển tương đối ổn định, trung
bình khoảng 5% cho đến trước khi cuộc khủng hoảng toàn cầu diễn ra vào quý
I/2008. Các nước đang phát triển đã đạt mức tăng trưởng trung bình cao hơn
8%/năm so với mức 3%/năm của các nước phát triển trong giai đoạn này. Cuộc
khủng hoảng kéo dài sang năm 2009 lan trộng trên toàn thế giới đã khiến GDP
toàn cầu năm 2009 giảm 5.826 tỷ USD so với năm 2008 (đây là lần đầu tiên GDP
toàn cầu tăng trưởng âm trong vòng 20 năm trở lại đây). Khi khủng hoảng kinh tế
xảy ra, các nền kinh tế phát triển bị ảnh hưởng nặng nề hơn, chạm đáy ở mức -8%
vào quý 4/2008, trong khi các nền kinh tế đang phát triển bị kéo lùi mức tăng
tưởng -4% vào quý I/2009. Tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2006 đến nay
có biên độ biến động rộng hơn hẳn so với thới kỳ trước. Sau một giai đoạn tương
đối ổn định, tăng trưởng kinh tế thế giới đã suy giảm mạnh vào những năm 2008-
2009 do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Biên độ biến động rộng của tốc độ
tăng trưởng cho thấy cùng với quá trình phát triển nhanh, có nhiều nhân tố rủi ro
tiềm ẩn, kinh tế thế giới ngày càng trở nên khó dự báo và kiểm soát. Cơ cấu GDP
của nhóm các nước phát triển và các nước đang phát triển có sự thay đổi rõ rệt.
Nhóm các nước đang phát triển có sự thay đổi rõ rệt. Nhóm các nước đang phát
triển chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng GDP của thế giới, đã duy trì được
tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định ở mức trên 6 % trong suốt thời kỳ từ 2003 đến
2008, và là động lực để kiềm chế độ suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới
trong thời kỳ suy thoái 2008 – 2009. Tuy vậy nhóm nước phát triển vẫn chiếm trên
70% giá trị GDP của toàn thế giới.