
Giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản"
Tác giả : Th.s. Nguyễn Văn Thành - P.Trưởng khoa Kinh tế
File đính kèm: Không có
Cách đây vừa đúng 160 năm, ngày 24 tháng 2 năm 1848, tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
do Mác và Ăng ghen soạn thảo đã được xuất bản ở Luân Đôn - thủ đô nước Anh, một trong những cái nôi
của chủ nghĩa tư bản.
Tuyên ngôn đã chứng tỏ sức mạnh vĩ đại của tư tưởng - lý luận tiên tiến, vạch thời đại của thế giới quan
khoa học và cách mạng, ở chỗ không chỉ giải thích thế giới một cách khoa học mà còn cải tạo thế giới đó
bằng cách mạng. Những nguyên lý C.Mác và Ăngghen trình bày trong tác phẩm này là nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sự ra đời của tác phẩm vĩ đại này
đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác bao gồm 3 bộ phận hợp thành là triết học,
kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Tuyên ngôn là ngọn cờ tư tưởng dẫn dắt giai cấp công
nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng loài
người vĩnh viễn thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột giai cấp, bảo đảm cho loài người được thực sự sống trong
hòa bình, tự do và hạnh phúc. Những tư tưởng khoa học, cách mạng vạch thời đại trong Tuyên ngôn có
giá trị tổ chức, cổ vũ, động viên lớn lao đối với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Trước hết, những giá trị khoa học của Tuyên ngôn thể hiện qua những nguyên lý cách mạng của chủ
nghĩa xã hội khoa học, trở thành kim chỉ nam hành động cho các Đảng cộng sản sau này.
Một là, Tuyên ngôn đã vạch rõ, từ khi lịch sử xã hội loài người đã phân chia giai cấp, đã xuất hiện
những đối kháng giai cấp thì đấu tranh giai cấp là một trong những động lực của lịch sử. Tuyên ngôn viết:
“Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp. Người tự do và
người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả phường hội và thợ bạn, nói tóm lại những kẻ
áp bức và những người bị áp bức, luôn đối kháng với nhau đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng,
lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo
cách mạng toàn bộ xã hội hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau”(1) .Các cuộc đấu
tranh này là sự phản ánh về mặt xã hội của sự vận động kinh tế và sản xuất để giải quyết mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong các thời đại lịch sử khác nhau. Với tư tưởng này, Tuyên ngôn
đã thể hiện quan điểm duy vật về lịch sử. Đó là việc thể hiện quan điểm duy vật triệt để trong việc nhận
thức xã hội. Bằng sự phân tích quá trình phát triển kinh tế qua các thời đại lịch sử, Mác và Ăng ghen đã
chỉ rõ nguyên nhân cuối cùng của mọi sự biến đổi xã hội chính là bắt nguồn từ sự thay đổi trong đời sống
vật chất. Điều đó có nghĩa là, mọi sự thay đổi trong đời sống tinh thần không thể tìm nguyên nhân từ bản
thân nó mà phải giải thích và tìm cội nguồn từ sự thay đổi của đời sống kinh tế, và muốn thay đổi ý thức,
đời sống tinh thần thì phải cải tạo, biến đổi đời sống vật chất đã sinh ra nó.
Thứ hai, Tuyên ngôn đã luận chứng cho vai trò cách mạng mang tính lịch sử thế giới của giai cấp vô
sản trong việc lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Sự ra đời của giai cấp vô sản
được Tuyên ngôn chỉ rõ, đó là do nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện
đại, cạnh tranh tự do đã đưa giai cấp tư sản lên địa vị thống trị về kinh tế và chính trị. Song nền sản xuất
đại công nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản đã tạo ra lực lượng xã hội ngày càng mạnh mẽ để chống lại chính
chủ nghĩa tư bản, đó là giai cấp vô sản. “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình
mà nó còn tạo ra những người sử dụng những vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại,
những người vô sản”(2). Trong sự phân tích của Mác-Ăng ghen, giai cấp vô sản sở dĩ thực sự là một giai
cấp cách mạng bởi nó đại diện và tiêu biểu cho lực lượng sản xuất mới, tiên tiến của toàn xã hội, cho một

phương thức sản xuất tiên tiến của lịch sử, nó đại biểu cho xu thế, triển vọng của tương lai. Nó không có
lợi ích riêng với nghĩa là tư hữu. Nó đại biểu cho lợi ích của toàn xã hội. Giai cấp vô sản tìm thấy lợi ích
chân chính của mình khi đấu tranh cho lợi ích của toàn xã hội. Chỉ bởi điều đó mà giai cấp vô sản mang
được một phẩm chất cao quý là triệt để cách mạng, cùng với tinh thần quốc tế cao cả, phấn đấu cho lợi
ích chung, không chỉ giải phóng mình mà cho toàn thể loài người, xóa bỏ sự thống trị, nô dịch của chủ
nghĩa tư bản không chỉ trong phạm vi dân tộc mà trên toàn thế giới. Đại công nghiệp đã rèn cho giai cấp
vô sản những đức tính tổ chức và kỷ luật để thực thi sứ mệnh lịch sử của nó.
Thứ ba, Tuyên ngôn đã vạch rõ con đường đấu tranh của giai cấp vô sản. Để đấu tranh giành thắng lợi
thì giai cấp vô sản cần có một Đảng thực sự sáng suốt về mặt tư tưởng cho cuộc đấu tranh của mình.
Đảng tập hợp trong hàng ngũ của mình những người ưu tú nhất của giai cấp vô sản. Đảng đi đầu quần
chúng vô sản trong đấu tranh. Sự ra đời của Đảng cộng sản là tất yếu để đảm bảo cho giai cấp vô sản
hoàn thành sứ mệnh lịch sử. Mác - Ăng ghen đã vạch rõ mục tiêu của giai cấp vô sản và Đảng của nó là
tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành
lấy chính quyền, trở thành một giai cấp thống trị, tức là nắm chính quyền để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới. Nhưng Đảng cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, Đảng là một bộ phận gắn liền với giai
cấp. Lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích giai cấp, mục đích của Đảng là mục đích của giai cấp, Đảng là
đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào vô sản. Kết quả của phong trào vô sản không dừng lại ở sự ra
đời của chính Đảng mà còn biểu hiện ở chỗ giai cấp vô sản biết hành động theo sự lãnh đạo của Đảng.
Con đường phát huy sức mạnh của Đảng cộng sản trước hết phải giữ vững và cũng cố mối liên hệ giữa
Đảng và giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Tuyên ngôn đã đưa ra một nhận định sắc bén
và đầy tinh thần lạc quan cách mạng: “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều
là tất yếu như nhau” (3).
Thứ tư, Tuyên ngôn chỉ rõ giai cấp vô sản chỉ có thể đạt được mục đích bằng con đường đấu tranh giai
cấp, dùng bạo lực cách mạng để lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, bởi trong cuộc cách mạng ấy,
những người cộng sản nếu mất chỉ là mất xiềng xích, còn được thì được cả thế giới. Nhiệm vụ nặng nề mà
giai cấp vô sản phải thực hiện sau khi giành được chính quyền là từng bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới trên mọi lĩnh vực vì quyền lợi của nhân dân lao động. Nguyên tắc sách lược chung của Đảng cộng
sản là ủng hộ mọi phong trào cách mạng chống chế độ tư sản đương thời và tập hợp các lực lượng dân
chủ nhưng những người cộng sản phải luôn giữ vững tính độc lập của giai cấp mình.
Thứ năm, để đập tan luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản của giai cấp tư sản, Tuyên ngôn đã
khẳng định và bảo vệ một loạt những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản. “Lý luận của những người cộng
sản tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát
minh hay phát hiện ra.” (4). Mà lý luận của những người cộng sản là sự phản ánh hiện thực khách quan
của phong trào vô sản.
Trong vấn đề sở hữu, Tuyên ngôn đã chỉ rõ, đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản là xóa bỏ sở hữu tư sản.
Giai cấp tư sản đã xuyên tạc rằng những người cộng sản xóa bỏ cái riêng của cá nhân, tức là xóa bỏ sở
hữu do cá nhân của mỗi người làm ra, kết quả lao động của cá nhân, sở hữu mà người ta bảo là cơ sở của
mọi tự do, mọi hoạt động và mọi sự độc lập của cá nhân. Tuyên ngôn đã giải thich rằng tư bản không phải
là lực lượng cá nhân, nó là lực lượng xã hội, nó chỉ có thể vận động được là nhờ sự hoạt động chung của
nhiều người. Người sở hữu thì không lao động, người lao động thì không được quyền sở hữu, xã hội vận
động trong hai cực đối lập ấy, chỉ có xóa bỏ chế độ tư hữu mới giải quyết được sự đối lập trong xã hội.
Điều đó có nghĩa là xóa bỏ tư hữu ở đây không phải là xóa bỏ sở hữu mang tính chất cá nhân mà là xóa
bỏ tư hữu về tư bản. Vì tư hữu tư bản là cơ sở để bóc lột sức lao động của người khác. “Chủ nghĩa cộng
sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ
tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác.” Ở nước ta hiện nay mục tiêu

vẫn là xóa bỏ tư hữu tư bản, xác lập chế độ công hữu để xóa bỏ áp bức bóc lột nhưng trong điều kiện lực
lượng sản xuất đang ở trình độ chưa cao, chúng ta còn phải chấp nhận còn tồn tại hình thức sơ hữu tư
nhân bằng thừa nhận sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Về sau, khi lực lượng sản xuất phát triển ở trình
độ cao, nước ta sẽ từng bước xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Tuyên ngôn cũng đã trình bày rõ vấn đề dân tộc và quốc tế. Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản
nắm quyền đại diện cho tổ quóc, dân tộc. Lợi ích của tổ quốc, dân tộc cơ bản vẫn là lợi ích của giai cấp tư
sản. Vì vậy, giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một
giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc.
Hai là, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là tác phẩm có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối vơi cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Chỉ vài thập niên sau khi Tuyên ngôn ra đời, công xã Pari bùng nổ và đứng vững hơn 70 ngày. 70 năm
sau thời điểm Mác - Ăng ghen khởi thảo Tuyên ngôn, cách mạng tháng 10 năm 1917 đã giành thắng lợi
tại nước Nga, mở ra thời đại mới, thời kỳ quá độ từ chủ ngfhĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới.
Hiện nay, sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là tổn thất vô cùng nặng nề, nhưng đó không phải
là sự “cáo chung của CNXH”, nó chỉ càng làm nổi bật hậu quả của một loạt mô hình duy trì quá lâu những
khiếm khuyết, biến dạng đã dẫn chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào trì trệ, khủng hoảng.
Thực tiễn của Việt Nam, Trung Quốc và một số nước khác hiện nay vẫn đang vững bước trên con
đường xây dựng CNXH, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới cải cách, mở rộng giao lưu hội nhập và hợp
tác quốc tế chính là bằng chứng sinh động, vững chắc khẳng định tính chân lý của chủ nghĩa Mác được
thể hiện trong tuyên ngôn.
Xu hướng toàn cầu hóa đã được dự báo trong tuyên ngôn. “Nền đại công nghiệp đã xây dựng nên thị
trường thế giới vốn được chuẩn bị từ khi phát hiện ra châu Mỹ”, “Vì luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những
nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp hoàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở
khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ khắp nơi”(5) . Toàn cầu hóa rõ ràng là gắn liền với chủ nghĩa tư
bản và hiện nay cũng đang bị chủ nghĩa tư bản chi phối lợi dụng để phục vụ cho mục đích của họ, hay nói
cách khác, toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đang đi trong quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Đứng trước tình
hình đó, Đảng ta đưa ra chủ trương chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đảng ta xác định: chúng
ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa chính là sự
vận dụng đúng đắn quy luật phát triển kinh tế – xã hội, khắc phục tối đa mặt trái của cơ chế thị trường, tạo
dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh, tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện công bằng xã hội, xây
dựng một xã hội công bằng dân chủ văn minh, mọi người lao động đều được hưởng những giá trị vật chất
và tinh thần do mình tạo ra, toàn xã hội quan tâm đến xóa đói giảm nghèo.
Ngày nay, do phải đối mặt với CNXH hiện thực, phải đối phó với phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động cho nên dù bản chất áp bức, bóc lột tàn bạo không thay đổi nhưng chủ
nghĩa tư bản hiện đại đã có sự điều chỉnh. Sự điều chỉnh này làm cho nhiều người lầm tưởng bản chất của
chủ nghĩa tư bản đã thay đổi như việc quan tâm đến người thất nghiệp, cho công nhân mua cổ phần, phát
triển phúc lợi xã hội... Nhưng thực chất đó là việc trích một phần nhỏ giá trị thặng dư mà chủ nghĩa tư bản
bóc lột được để nhằm xoa dịu đấu tranh giai cấp, bảo vệ cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Ngay cuối
năm 2007, ở nước Mỹ với dân số 301 triệu người thì vẫn có đến 35 triệu người đói, 11 triệu người không
biết đọc, tội phạm gia tăng, tỷ lệ tù nhân trên đầu người cao nhất thế giới. Trong khi đó chính phủ Mỹ đã
chi cho 2 cuộc chiến tranh I Rắc và Apganixtan lên đến 700 tỷ USD (Báo Nhân dân ngay 6/1/2008). Như
vậy, bản chất của chủ nghĩa tư bản như đã trình bày trong tuyên ngôn đó là bản chất bóc lột - do chế độ
tư hữu quy định, vẫn không hề thay đổi. Giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản luôn chạy theo lợi nhuận, nó
không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào khác, ngoài lợi ích trần trụi và lối “tiền trao cháo

múc” không tình, không nghĩa. Vì vậy, tuyên ngôn đã đặt ra nhiệm vụ cho giai cấp vô sản là lật đổ sự
thống trị của giai cấp tư sản và không chỉ giải phóng mình mà cho toàn thể loài người thoát khỏi áp bức
bóc lột. Tuyên ngôn nêu lên mục tiêu, bản chất của xã hội tương lai là sự phát triển tự do và toàn diện của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do và toàn diện của tất cả mọi người.
Tóm lại, sự ra đời của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đánh dấu sự ra đời và chín muồi của chủ nghĩa
Mác. Giá trị, sức sống bền vững của tuyên ngôn phản ánh giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác. Giá trị, sức sống đó đã được thực tiễn cách mạng thế giới kiểm chứng qua nhiều lần thử thách nghiệt
ngã. Giá trị, sức sống và ý nghĩa thời đại của bản Tuyên ngôn vẫn được khẳng định bằng thực tiễn cách
mạng ở các nước xã hội chủ nghĩa. Công cuộc cải cách, đổi mới với nhiều thành tựu của Trung Quốc, Việt
Nam, sự đứng vững của nước Cu ba XHCN trước sự bao vây cấm vận của đế quốc Mỹ, các phong trào
cánh tả ở Châu Mỹ la tinh với khẩu hiệu “CNXH thế kỷ XXI”... là những minh chứng về tác động và ý
nghĩa thực tiễn của tuyên ngôn của Đảng cộng sản.
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản luôn đồng hành với Đảng và cách mạng Việt Nam. Tư tưởng khoa học
và phương pháp cách mạng của tuyên ngôn đã được Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo trong
những năm đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Giá trị khoa học của Tuyên ngôn trước hết giúp Đảng có được cơ sở lý
luận và phương pháp luận đúng đắn trong phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn nhằm làm sáng tỏ hơn về
CNXH và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
160 năm là quãng thời gian dài so với đời của một con người, nhưng lại là ngắn so với lịch sử tiến hóa
của nhân loại. Vượt qua thời gian của lịch sử, những giá trị của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là bất diệt,
là mặt trời, là ngọn đèn soi sáng con đường cách mạng Việt Nam đi tới tương lai ./.
Nh ng c ng hi n l n lao c a Ph. Ăng-ghen vào lý lu n ch nghĩa xã h i khoa h c cho đ n nayữ ố ế ớ ủ ậ ủ ộ ọ ế
v n gi nguyên giá tr và tính th i s đ i v i công cu c đ i m i c a đ t n c ta, đ c bi t có ýẫ ữ ị ờ ự ố ớ ộ ổ ớ ủ ấ ướ ặ ệ
nghĩa quan tr ng đ i v i vi c nâng cao nh n th c và làm sáng t s m nh l ch s c a giai c pọ ố ớ ệ ậ ứ ỏ ứ ệ ị ử ủ ấ
công nhân, tăng c ng vai trò lãnh đ o đ t n c c a Đ ng C ng s n Vi t Nam trong b i c nhườ ạ ấ ướ ủ ả ộ ả ệ ố ả
h i nh p toàn c u hi n nay.ộ ậ ầ ệ
Khi đánh giá công lao to l n c a Ph. Ăng-ghen đ i v i phong trào đ u tranh cách m ng c a giai c p vôớ ủ ố ớ ấ ạ ủ ấ
s n th gi i, V.I. Lê-nin vi t: “Sau b n ông là Các Mác, Ăng-ghen là nhà bác h c và ng i th y l i l cả ế ớ ế ạ ọ ườ ầ ỗ ạ
nh t c a giai c p vô s n hi n đ i trong toàn th gi i văn minh. T ngày mà v n m nh đã g n li n Cácấ ủ ấ ả ệ ạ ế ớ ừ ậ ệ ắ ề
Mác và Phri-đrích Ăng-ghen thì s nghi p su t đ i c a hai ng i b n y tr thành s nghi p chung c aự ệ ố ờ ủ ườ ạ ấ ở ự ệ ủ
h . Cho nên mu n hi u Phri-đrích Ăng-ghen đã làm gì cho giai c p vô s n thì ph i nh n rõ ý nghĩa c aọ ố ể ấ ả ả ậ ủ
h c thuy t và ho t đ ng c a Mác đ i v i s phát tri n c a phong trào công nhân hi n đ i”.ọ ế ạ ộ ủ ố ớ ự ể ủ ệ ạ (1)
M c dù Ph. Ăng-ghen r t khiêm t n, luôn luôn t nh n mình là “cây vĩ c m th hai” bên c nh C. Mác,ặ ấ ố ự ậ ầ ứ ạ
luôn kh ng đ nh vai trò sáng l p hàng đ u thu c v C. Mác, song qua l ch s hình thành ch nghĩa Mác,ẳ ị ậ ầ ộ ề ị ử ủ
chúng ta đ u nh n th y nh ng đóng góp to l n, d u n không th nào phai c a Ph.Ăng-ghen. C. Mácề ậ ấ ữ ớ ấ ấ ể ủ
đánh giá Ph. Ăng-ghen là m t trong nh ng đ i bi u xu t s c nh t c a ch nghĩa xã h i hi n đ i, còn V.I.ộ ữ ạ ể ấ ắ ấ ủ ủ ộ ệ ạ
Lê-nin thì kh ng đ nh: “Không th nào hi u đ c ch nghĩa Mác và trình bày đ y đ đ c ch nghĩaẳ ị ể ể ượ ủ ầ ủ ượ ủ
Mác, n u không chú ý đ n toàn b nh ng tác ph m c a Ăng-ghen”.ế ế ộ ữ ẩ ủ (2)
Chúng ta đ u bi t r ng ch nghĩa Mác là m t h th ng hoàn ch nh, toàn v n và ch t ch bao g m ba bề ế ằ ủ ộ ệ ố ỉ ẹ ặ ẽ ồ ộ
ph n c u thành không th tách r i: tri t h c mác-xít mà n i dung c a nó là ch nghĩa duy v t bi n ch ngậ ấ ể ờ ế ọ ộ ủ ủ ậ ệ ứ
và ch nghĩa duy v t l ch s , kinh t chính tr h c mà n n t ng là h c thuy t giá tr th ng d , và chủ ậ ị ử ế ị ọ ề ả ọ ế ị ặ ư ủ
nghĩa xã h i khoa h c. V i hai phát hi n khoa h c vĩ đ i là ch nghĩa duy v t l ch s , h c thuy t giá trộ ọ ớ ệ ọ ạ ủ ậ ị ử ọ ế ị
th ng d và v i vai trò t ch c, giáo d c phong trào công nhân qu c t , cùng v i C. Mác, Ph. Ăng-ghenặ ư ớ ổ ứ ụ ố ế ớ
đã đ t n n móng cho ch nghĩa xã h i khoa h c v i tính cách là h c thuy t v s nghi p gi i phóng giaiặ ề ủ ộ ọ ớ ọ ế ề ự ệ ả
c p công nhân và gi i phóng loài ng i kh i m i hình th c áp b c, bóc l t và tha hóa c a ch nghĩa tấ ả ườ ỏ ọ ứ ứ ộ ủ ủ ư
b n.ả

H c thuy t do C. Mác và Ph. Ăng-ghen sáng l p là s th ng nh t gi a tính khoa h c và tính cáchọ ế ậ ự ố ấ ữ ọ
m ng.ạ Các ông đã v ch rõ s phát sinh, phát tri n c a ph ng th c s n xu t t b n ch nghĩa, nêu lênạ ự ể ủ ươ ứ ả ấ ư ả ủ
nh ng m t ti n b , đ ng th i cũng v ch rõ nh ng khuy t t t và mâu thu n c a ch nghĩa t b n. Phùữ ặ ế ộ ồ ờ ạ ữ ế ậ ẫ ủ ủ ư ả
h p v i lý thuy t v hình thái kinh t - xã h i, coi s phát tri n c a xã h i loài ng i là m t quá trình l chợ ớ ế ề ế ộ ự ể ủ ộ ườ ộ ị
s t nhiên, Ph. Ăng-ghen cho r ng, ch nghĩa t b n t t y u s b thay th b i m t ph ng th c s nử ự ằ ủ ư ả ấ ế ẽ ị ế ở ộ ươ ứ ả
xu t m i, cao h n, ti n b h n, đó là ph ng th c s n xu t c ng s n ch nghĩa.ấ ớ ơ ế ộ ơ ươ ứ ả ấ ộ ả ủ
Ph. Ăng-ghen đã đóng góp quan tr ng trong vi c nh n th c đ c đi m và s m nh l ch s c a giaiọ ệ ậ ứ ặ ể ứ ệ ị ử ủ
c p công nhân trong cu c đ u tranh nh m xóa b áp b c bóc l t c a ch nghĩa t b n, xâyấ ộ ấ ằ ỏ ứ ộ ủ ủ ư ả
d ng ch nghĩa c ng s n.ự ủ ộ ả Chính vì v y, lý lu n c a ch nghĩa Mác tr thành vũ khí s c bén, ng nậ ậ ủ ủ ở ắ ọ
đu c soi đ ng cho phong trào đ u tranh giai c p công nhân giành th ng l i, đ a phong trào công nhânố ườ ấ ấ ắ ợ ư
t đ u tranh t phát đ n t giác, t “giai c p t mình” đ n “giai c p cho mình”. Có th kh ng đ nh vi cừ ấ ự ế ự ừ ấ ự ế ấ ể ẳ ị ệ
phát hi n ra s m nh l ch s c a giai c p công nhân là phát ki n vĩ đ i th ba cùng v i hai phát ki n vĩệ ứ ệ ị ử ủ ấ ế ạ ứ ớ ế
đ i c a C. Mác và Ph. Ăng-ghen v ch nghĩa duy v t l ch s và h c thuy t giá tr th ng d , ạ ủ ề ủ ậ ị ử ọ ế ị ặ ư càng làm
cho s phát tri n c a ch nghĩa xã h i t không t ng tr thành khoa h c.ự ể ủ ủ ộ ừ ưở ở ọ
Theo Ph. Ăng-ghen, giai c p công nhân có 2 đ c đi m c b n là: ấ ặ ể ơ ả 1- V ph ng th c lao đ ng,ề ươ ứ ộ
ph ng th c s n xu t,ươ ứ ả ấ giai c p công nhân là nh ng ng i lao đ ng tr c ti p hay gián ti p v n hànhấ ữ ườ ộ ự ế ế ậ
các công c s n xu t có tính công nghi p ngày càng hi n đ i trong n n s n xu t mang tính xã h i hóaụ ả ấ ệ ệ ạ ề ả ấ ộ
cao. Giai c p công nhân là giai c p lao đ ng ch y u trong n n s n xu t hi n đ i; 2 - V v trí trong quanấ ấ ộ ủ ế ề ả ấ ệ ạ ề ị
h s n xu t t b n ch nghĩa, giai c p công nhân ph i bán s c lao đ ng cho các nhà t b n và b tệ ả ấ ư ả ủ ấ ả ứ ộ ư ả ị ư
b n bóc l t v giá tr thăng d vì h không có t li u s n xu t. Ông kh ng đ nh: Ng i lao đ ng ho cả ộ ề ị ư ọ ư ệ ả ấ ẳ ị ườ ộ ặ
công nhân (working men) và ng i vô s n; giai c p công nhân, giai c p không có c a, giai c p vô s nườ ả ấ ấ ủ ấ ả
nh nh ng t đ ng nghĩa. M c dù là giai c p lao đ ng ch y u trong n n s n xu t hi n đ i, là “l c l ngư ữ ừ ồ ặ ấ ộ ủ ế ề ả ấ ệ ạ ự ượ
s n xu t hàng đ u” nh V.I. Lê-nin kh ng đ nh, giai c p công nhân v n b bóc l t n ng n , b b n cùngả ấ ầ ư ẳ ị ấ ẫ ị ộ ặ ề ị ầ
hóa không nh ng v đ i s ng v t ch t (ti n công th p, ch đ tái s n xu t s c lao đ ng, đi u ki n laoữ ề ờ ố ậ ấ ề ấ ỉ ủ ả ấ ứ ộ ề ệ
đ ng n ng nh c, đ c h i, tình tr ng th t nghi p, v n đ nhà khó khăn, vi c s d ng lao đ ng n vàộ ặ ọ ộ ạ ạ ấ ệ ấ ề ở ệ ử ụ ộ ữ
tr em không phù h p) mà c v đ i s ng tinh th n nh tình tr ng th t h c, không có đi u ki n tham giaẻ ợ ả ề ờ ố ầ ư ạ ấ ọ ề ệ
các ho t đ ng văn hóa, tinh th n.ạ ộ ầ
T th c t này trong quá trình phát tri n ch nghĩa t b n, Ph. Ăng-ghen đã ch rõ mâu thu n c b n c aừ ự ế ể ủ ư ả ỉ ẫ ơ ả ủ
n n s n xu t t b n ch nghĩa là: “S n xu t đã tr thành m t hành vi xã h i; trao đ i và cùng v i trao đ iề ả ấ ư ả ủ ả ấ ở ộ ộ ổ ớ ổ
là s chi m h u, v n là nh ng hành vi cá nhân, hành vi c a nh ng ng i riêng bi t: ự ế ữ ẫ ữ ủ ữ ườ ệ s n ph m c a laoả ẩ ủ
đ ng xã h i b nhà t b n cá th chi m h u.ộ ộ ị ư ả ể ế ữ Đó là mâu thu n c b n, t đó n y sinh ra t t c nh ngẫ ơ ả ừ ả ấ ả ữ
mâu thu n trong đó xã h i hi n nay đang v n đ ng, nh ng mâu thu n mà đ i công nghi p đang làm choẫ ộ ệ ậ ộ ữ ẫ ạ ệ
th y đ c bi t rõ: Tách ng i s n xu t kh i t li u s n xu t. Giam hãm ng i lao đ ng vào trong ch đấ ặ ệ ườ ả ấ ỏ ư ệ ả ấ ườ ộ ế ộ
lao đ ng làm thuê su t đ i. ộ ố ờ S đ i l p gi a giai c p vô s n và giai c p t s n”ự ố ậ ữ ấ ả ấ ư ả (3).
Giai c p công nhân là giai c p c a nh ng ng i lao đ ng đ c hình thành và phát tri n g n v i n n s nấ ấ ủ ữ ườ ộ ượ ể ắ ớ ề ả
xu t công nghi p hi n đ i, có trình đ xã h i hóa ngày càng cao, đ i bi u cho l c l ng s n xu t,ấ ệ ệ ạ ộ ộ ạ ể ự ượ ả ấ
ph ng th c s n xu t tiên ti n c a th i đ i hi n nay, đó là l c l ng lao đ ng c b n tr c ti p c a xãươ ứ ả ấ ế ủ ờ ạ ệ ự ượ ộ ơ ả ự ế ủ
h i. Giai c p công nhân là giai c p duy nh t có s m nh l ch s lãnh đ o và t ch c ti n trình cáchộ ấ ấ ấ ứ ệ ị ử ạ ổ ứ ế
m ng vô s n, xây d ng ch nghĩa xã h i và ch nghĩa c ng s n, nh Ph. Ăng-ghen vi t: “Th c hi n sạ ả ự ủ ộ ủ ộ ả ư ế ự ệ ự
nghi p gi i phóng th gi i y - đó là s m nh l ch s c a giai c p công nhân do nh ng đi u ki n kháchệ ả ế ớ ấ ứ ệ ị ử ủ ấ ữ ề ệ
quan quy đ nh”.ị
Cùng v i s phát tri n c a n n công nghi p, giai c p công nhân cũng phát tri n c v s l ng và ch tớ ự ể ủ ề ệ ấ ể ả ề ố ượ ấ
l ng. Khi ch nghĩa Mác xâm nh p phong trào công nhân, s k t h p này đã d n đ n s ra đ i c aượ ủ ậ ự ế ợ ẫ ế ự ờ ủ
đ ng c ng s n. Lúc này, phong trào đ u tranh c a giai c p công nhân chuy n t t phát sang t giác, tả ộ ả ấ ủ ấ ể ừ ự ự ừ
đ u tranh kinh t chuy n sang đ u tranh chính tr . Ph. Ăng-ghen nh n m nh, trong cu c đ u tranh ch ngấ ế ể ấ ị ấ ạ ộ ấ ố
l i quy n l c liên hi p c a giai c p h u s n, ch khi giai c p vô s n t t ch c đ c thành m t đ ng đ cạ ề ự ệ ủ ấ ữ ả ỉ ấ ả ự ổ ứ ượ ộ ả ộ
l p v i t t c chính đ ng cũ do giai c p h u s n l p ra thì m i có th hành đ ng v i t cách là m t giaiậ ớ ấ ả ả ấ ữ ả ậ ớ ể ộ ớ ư ộ
c p đ c l p đ c. Nh v y đ ng c ng s n là y u t quy t đ nh đ giai c p công nhân th c hi n sấ ộ ậ ượ ư ậ ả ộ ả ế ố ế ị ể ấ ự ệ ứ
m nh l ch s c a mình.ệ ị ử ủ
C. Mác và Ph. Ăng-ghen gi đ nh, ch nghĩa xã h i ra đ i tả ị ủ ộ ờ ừ
xã h i t b n phát tri n trình đ cao, đi u này phù h p v i lýộ ư ả ể ộ ề ợ ớ
Chính V.I. Lê-nin xu t phát t th c ti nấ ừ ự ễ
n c Nga đã t ng k t: Chúng ta không hìnhướ ổ ế
dung m t th ch nghĩa xã h i nào khác h nộ ứ ủ ộ ơ
là ch nghĩa xã h i d a trên c s t t củ ộ ự ơ ở ấ ả
nh ng bài h c mà n n văn minh l n c a chữ ọ ề ớ ủ ủ
nghĩa t b n thu đ c.ư ả ượ

