intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 42 - Lý luận hình thái kinh tế xã hội

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:16

148
lượt xem
33
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận triết học, triết học Mac Lenin, lý luận hình thái kinh tế xã hội,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 42 - Lý luận hình thái kinh tế xã hội

  1. MỞ ĐẦU Năm 1975, giải phóng miền Nam, đất nước việt Nam hoàn toàn độc lập, hai  miền Nam Bắc thống nhất, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, đó là  cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Sự lựa chọn con đường đi lên CNXH   ở  nước ta là sự  lựa chọn đúng đắn hay sai lệch? Vì sao không đi theo con đường   TBCN mà kiên định đi theo CNXH ? trong khi đây là giai đoạn phát triển kỳ diệu,là  thành tựu của nhân loại.Bên cạnh đó lịch sử  thế  giới đã cho thấy nhiều bài học   kinh nghiệm về  sự  sụp đổ  CNXH  ở  Liên Xô đã tồn tại hơn 70 năm,ở  các nước   Đông Âu hơn 40 năm kể từ 1945.Đó là những nước đều đạt những thành tựu to lớn   về khoa học kỹ thuật,về kinh tế xã hội.Trong khi,xã hội Việt Nam là một nước có   nền kinh tế nghèo nàn,lạc hậu ở Đông Nam á.Vốn là một xã hội phong kiến trong  hơn 1000 năm,và chịu ách thống trị của thực dân Pháp trong gần 100 năm, cho nên   xã hội Vệt Nam mang tính chất thụôc địa nửa phong kiến. Sau khi dành độc lập,  nền kinh tế   ở  trạng thái kiệt quệ, bộ  máy nhà nước cồng kềnh,kém năng động,  sáng tạo, hệ thống vật chất kĩ thuật còn thô sơ lạc hậu, đời sống người dân nghèo   nàn...Vậy vì sao đảng ta lại kiên quyết xây dựng đất nước theo con đường CNXH   mà không phải con đường nào khác? Nghiên cứu vấn đề  này dưới góc độ  triết học mà cụ  thể  là lý luận các hình  thái kinh tế xã hội nhằm khẳng định sự lựa chọn của đảng ta hoàn toàn đúng đắn.  Thực tế hơn 15 năm đổi mới , những thành tựu về kinh tế ,chính trị , khoa học xã  hội đã chứng minh một cách hùng hồn nhất về  sự  lựa chọn của nhân dân ta , của  đảng ta là đúng đắn và khẳng định sự lựa chọn con đường xây dựng đất nước theo   CNXH là một tất yếu khách quan.
  2. PHẦN NỘI DUNG Chương I: Lý luận hình thái kinh tế xã hội 1­Khái niệm hình thái kinh tế – xã hội Hình thái kinh tế  – xã hội là một phạm trù của chủ  nghĩa duy vật lịch sử,   dùng để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định , với một kiểu quan hệ sản   xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ  nhất định của lực lượng   sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương  ứng được xây dựng trên những  quan hệ sản xuất ấy. 2­ Sự phát triển của các  hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch sử tự   nhiên Xã hội đã phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai   đoạn của sự  phát triển là một hình thái kinh tế  – xã hội nhất định. Các hình thái   kinh tế – xã hội  vận động và phát triển do tác động của các quy luật khách quan,   đó là quá trình tự nhiên của sự  phát triển. C Mác viết : “ Tôi coi sự  phát triển của   những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên” , tức là muốn nói  đến quy luật khách quan của lịch sử, quy luật đó được coi là sự phát triển của quá  trình sản xuất vật chất , xét đến cùng là do mâu thuẫn bên trong giữa lực lượng   sản xuất và quan hệ  sản xuất , do tính tất yếu kinh tế  quy định. Các quy luật xã   hội chính là hiện thân của các quy luật tự  nhiên được con người sử  dụng nó để  kiến tạo nên xã hội loài người.  Tiến trình lịch sử  là quá trình phát triển biện chứng vừa bao hàm sự  phát   triển đứt đoạn và liên tục. Trong quá trình sản xuất , con người có những quan hệ 
  3. với nhau, đó chính là quan hệ sản xuất. Những quan hệ sản xuất đó do trình độ của   lực lượng sản xuất quy định. đến lượt nó quan hệ  sản xuất lại quy định các quan   hệ  xã hội khác như  : chính trị, luật pháp, đạo đức… Khi lực lượng sản xuất phát   triển đến một mức độ  nào đó thì những thay đổi về  chất mâu thuẫn gay gắt với   những quan hệ  sản xuất có, dẫn đến đòi hỏi khách quan là thay đổi quan hệ  sản   xuất cũ bằng quan hệ  sản xuất mới thông qua cuộc cách mạng xã hội. Quan hệ  sản xuất thay đổi  thì toàn bộ các quan hệ  sản xuất khác cũng thay đổi. Như  vậy,   phương thức sản xuất thay đổi, các quan hệ  xã hội, chính trị, tinh thần thay đổi  dẫn   đến   sự   thay   đổi   của   hình   thái   kinh   tế   –   xã   hội.   Chính   vì   thế,   V.I.Lênin   viết:”Chỉ  có đem quy những quan hệ  xã hội vào những quan hệ  sản xuất, và   đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất   thì người ta mới có thể có được những cơ sơ vững chắc để quan niệm sự phát   triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên.” Quá trình tự  nhiên của sự  phát triển lịch sử  được chia ra thành những bậc   thang lịch sử  khác nhau,  ứng với một trình độ  kinh tế, kỹ  thuật nhất định trong  từng phương thức sản xuất nhất định. Thực tiễn đã cho thấy, loài người đã, đang  và sẽ trải qua 5 hình thái kinh tế – xã hội theo thứ tự từ thấp đến cao. Đó chính là  quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử, thể hiện tính liên tục của lịch sử. Tuy   nhiên, đối với mỗi nước cụ thể, do những điều kiện khách quan và chủ quan riêng   thì một nước nào đó, một dân tộc nào đó có thể  “ bỏ  qua” những chế  độ  xã hội   nhất định. Sự khác nhau về  trật tự phát triển ở phạm vi toàn nhân loại vẫn là quá   trình lịch sử – tự nhiên, còn đối với từng quốc gia, dân tộc cụ thể bỏ qua những “   nấc thang ”nhất định. V.I.Lênin viết: “ …tính quy luật chung của sự  phát triển   trong lịch sử  toàn thế  giới đã không loại trừ  mà trái lại, còn bao hàm một số  
  4. giai đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc về hình thức, hoặc về trình tự   của sự phát triển đó”. Thực tế  lịch sử  của một số  nước đi theo con đường XHCNđã chứng minh   tính đúng đắn, khoa học của hình thái kinh tế – xã hội và lý luận về khả năng “bỏ  qua” một chế độ xã hội nhất định.  Từ việc nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế – xã hội chúng ta có thể rút   ra một số điểm có ý nghĩa phương pháp luận sau: Việc vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự  phát triển xã  hội, những nguyên nhân và cơ sở của sự xuất hiện, biến đổi của các  hiện tượng xã hội đã biến đổi xã hội học thành một khoa học thực   sự, khắc phục mọi quan điểm duy tâm về lịch sử. Từ đó có một cách   nhìn đúng đắn, thấy được vai trò thực sự  của LLSX, QHSX, mối  quan hệ  biện chứng giữa chúng và các mối quan hệ  khác trong quá  trình phát triển xã hội. Là công cụ lý luận giúp chúng ta nhận thức những quy luật phổ biến   đang tác động và chi phối sự  vận động của xã hội. Vũ trang cho  chúng ta phương pháp khoa học để  nghiên cứu xã hội và chỉ  đạo  thực tiễn ở tầm vĩ mô và vi mô. Là cơ sở lý luận của việc hoạch định các đường lối cách mạng của   Đảng Cộng Sản. là cơ  sở  lý luận cho việc triển khai đường lối,  chính sách ở tầm quốc gia và mỗi địa phương nhằm thực hiện thành   công sự  nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Giúp chúng ta một cái nhìn biện chứng về sự phát triển liên tục của  các hình thái kinh tế  – xã hội, của các giá trị  văn hoá, khoa học , kĩ  thuật và của chính bản thân thế  hệ  con người. Từ đó giúp chúng ta 
  5. không nóng vội chủ  quan, không đốt cháy giai đoạn, biết kế  thừa   những thành tựu chung của văn minh nhân loại. Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đòi hỏi chúng ta phải thấu triệt  nguyên lý đó, vận dụng một cách chủ  động sáng tạo và kiến thức  tổng quát của nhiều môn khoa học khác vào công việc hàng ngày của  mỗi người, mỗi địa phương phải nhìn nhận các vấn đề  trong dòng  chảy liên tục của nó. Chương II Sự  lựa chọn con đường xây dựng chủ  nghĩa xã  hội ở Việt Nam I-  Qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta  Từ hình thái kinh tế – xã hội này chuyển sang hình thái kinh tế – xã hội khác   có một giai đoạn lịch sử đặc biệt với độ dài ngắn khác nhau, kết cấu và hình thức   biểu hiện khác nhau, đó là “ thời kỳ quá độ”. Tuỳ theo điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của mình mà các nước các dân tộc   sẽ  thực hiện sự  quá độ  lên CNXH dưới những hình thức, bước đi khác nhau, do  trình độ  xuất phát khác nhau. Có thể khái quát thành 3 loại nước tương  ứng với 3   kiểu quá độ: Những nước TBCN phát triển cao Những nứơc đạt trình độ phát triển TBCN ở mức trung bình thấp Những nước chưa trải qua giai đoạn TBCN của sự phát triển lịch sử Nước ta thuộc loại nước thứ ba. Do toàn bộ  những điều kiện khách quan và  nhân tố chủ quan quy định, nước ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là một tất  yếu của lịch sử. Để “nhận dạng”con đường đi lên của nước ta, trước hết cần phân  tích đầy đủ  và chính xác điểm xuất phát từ  đó nước ta quá độ  lên CNXH. Để  xác 
  6. định con đường đi lên của mình, cụ thể trong điều kiện hiện nay chính là thực hiện   sự  nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì điều cần thiết là phải xuất   phát từ  thực trạng kinh tế  xã hội của đất nước, xuất phát từ  đặc điểm LLSX và  QHSX  ở  nước ta để  lựa chọn đúng hình thức kinh tế  cho hiệu quả, xác định rõ  những bước đi cụ thể theo mục tiêu đã chọn. Nghị quyết Trung ương 5 về văn hoá  và Nghị quyết Trung ương 6(lần1) khoá VIII về kinh tế gần đây đã khẳng định cần  phải đẩy mạnh việc phát huy nội lực kinh tế, tăng cường chuyển dịch cơ cấu kinh   tế, mở rộng thị trường tiêu thụ, mạnh dạn hội nhập vào thị trường khu vực và thế  giới. Đó chính là những nghị quyết sát thực với cuộc sống, đã khuyến khích QHSX   phát triển trên cơ sở phù hợp với trình độ của LLSX ở nước ta hiện nay. I-  Sự lựa chọn con đường xây dựng CNXH ở nước ta  Định hướng XHCN ở nước ta: Đúng hay chệch? Trước đây, sau mấy năm khôi phục kinh tế và thực hiện cải tạo XHCN, công   cuộc xây dựng CNXH trên đất nước ta có thể nói xuất phát từ khái niệm đơn giản,   duy ý chí về  CNXH. Chúng ta tưởng rằng có thể  thực hiện được ngay mọi đặc   trưng của CNXH sau khi tiến hành quốc hữu hoá, công hữu hoá những tư liệu sản   xuất cơ bản mà không cần biết nền sản xuất xã hội hoá ấy thực hiện như thế nào. Dần dần từ  thực tiễn khủng hoảng và trì trệ  về  kinh tế  chúng ta mới hay  rằng: không thể  thực hiện được ngay mọi đặc trưng của CNXH trên cơ  sở  một   nền sản xuất xã hội hoá theo kiểu hình thức, một nền sản xuất gọi là”xã hội  hoá”nhưng trình độ của LLSX còn rất thấp, còn xa mới đạt tới xã hội hoá được coi  như một tất yếu kinh tế. Mức độ thực hiện những đặc trưng của CNXH không thể  áp đặt theo ý muốn chủ  quan mà phải căn cứ  vào trình độ  thực tế  của LLSX và  năng suất lao động trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Nghĩa là: chỉ có thể thực hiện  từng bước những đặc trưng của CNXH. 
  7. Với ý nghĩa trên, định hướng XHCN chính là sự  quay trở  về  với luận điểm  sau của Lênin:” … danh từ nước cộng hoà xô viết XHCN có nghĩa là chính quyền  xô viết quyết tâm thực hiện bước chuyển lên CNXH, chứ hoàn toàn không có nghĩa  là đã thừa nhận chế  độ  kinh tế  mới là chế  độ  XHCN”. Bởi vậy, quá trình định  hướng XHCN trên đất nước ta là quá trình xây dựng cơ  sở  vật chất kỹ  thuật của  CNXH – cốt lõi của quá trình xã hội hoá sản xuất trong thực tế. Để  có được nền  móng của CNXH, chúng ta chỉ có thể rút ngắn cái phải trải qua theo quy luật lịch   sử tự nhiên, chứ không thể bỏ qua cái phải trải qua. Cái phải trải qua ấy là gì? Là  phát triển mạnh LLSX , là xã hội hoá sản xuất trong thực tế thông qua các quá trình  chuyển hoá từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, từ mô hình  nông thôn sang mô hình đô thị, từ tổ chức cộng đồng xóm sang cộng đồng dân tộc,   quốc tế…Cũng vì vậy, quá trình định hướng XHCN ở nước ta tất yếu phải là một   quá trình đan xen giữa nhiệm vụ trực tiếp và gián tiếp xây dựng CNXH, là quá trình   còn nhiều mâu thuẫn, nghịch lý, bất công mà tạm thời phải chấp nhận, và cuộc   vận động của lịch sử CNXH trên thực tế sẽ  xoá bỏ  dần những mâu thuẫn, nghịch  lý, bất công  ấy. Sự  định hướng XHCN còn chứa đựng một vấn đề  cơ  bản không  thể  né tránh. Đó là thời kỳ  “ai thắng ai”. Cho nên, không chỉ  có khả  năng đi đúng  hướng mà còn có khả năng đi chệch hướng. Chệch hướng là một nguy cơ có thật.  Quá trình đi theo con đường XHCN quyết không phải là sự  chuyển động phẳng  lặng theo một chiều mong muốn, đặc biệt cơ  chế  thị  trường được coi là phương  tiện khách quan để  xây dựng CNXH. Nó là phương tiện để  phát triển kinh tế,   nhưng sự phát triển ấy lại tiềm ẩn nguy cơ CNXH bị huỷ hoại. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng đã   xác định 6 đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Nói định hướng  
  8. XHCN nghĩa là nói mục tiêu chúng ta đạt tới. Đó cũng là hành lang của sự  phát  triển , sự sáng tạo. Cương lĩnh vạch ra những phương hướng cơ  bản chỉ   đạo quá trình thực hiện   những đặc trưng của CNXH trên đất nước ta. Những phương hướng đó vừa mang  tính bảo đảm không chệch hướng XHCN, vừa quán triệt tinh thần đổi mới cho  phép không lặp lại những sai lầm cũ, tinh thần từng bước thực hiện những đặc   trưng của CNXH. Chẳng hạn, trong cách mạng QHSX, sự  định hướng XHCN có  nghĩa là thiết lập từng bước QHSX XHCN phù hợp với sự  phát triển của LLSX.   Do đó,QHSX XHCN sẽ được hình thành từ  thấp đến cao, rồi sự  đa dạng về  hình   thức sở hữu. Sau cương lĩnh, các hội nghị của Trung Ương Đảng từ Đại Hội VII đến nay  đã cụ thể hoá thêm một bước sự định hướng XHCN trên các mặt đời sống xã hội.   Sau 12 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế  xã hội, đã thu  được những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Đất nước ta, nhờ đó có thể  chuyển sang thời kỳ mới : đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhận định chung về  quá trình định hướng XHCN sau 12 năm đổi mới Đảng ta  khẳng định: về  cơ  bản việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những  năm qua là đúng đắn, đúng định hướng XHCN. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện   có một số khuyết điểm, lệch lạc kéo dài, dẫn đến chệch hướng ở mức độ này hay   mức độ khác. Nhận định đó là đúng đắn và sáng suốt , phản ánh tinh thần đầy trách  nhiệm của Đảng ta đối với vận mệnh của dân tộc, của hàng triệu quần chúng nhân   dân lao động – nền tảng của chế độ ta. Từ đó, một mặt cổ vũ cho nhân dân ta phát huy tinh thần tự lực tự cừơng để  đưa đất nước ra khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu,mặt khác đòi hỏi mọi người phát 
  9. huy tinh thần trách nhiệm khắc phục mọi trở  ngại trên con đường đi tới một chế  độ do nhân dân lao động làm chủ.  Như vậy con đường đi lên CNXH là con đường đúng đắn mặc dù còn nhiều  khó khăn trước mắt nhưng dưới sự  lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta không chịu lùi  bước trước bất cứ khó khăn , thử thách nào. Chương III Quá trình đi lên CNXH ở nước ta Thực trạng và giải pháp I – Thực trạng quá trình đi CNXH ở nước ta  Sau cương lĩnh, các hội nghị của Trung Ương Đảng từ Đại Hội VII đến nay  đã cụ thể hoá thêm một bước sự định hướng XHCN trên các mặt đời sống xã hội.   Sau 12 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế  xã hội, đã thu  được những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng.  Tuy nhiên trong thực tiễn, bên cạnh thừa nhận những thành tựu đáng mừng ,cũng   có những vấn đề cần xem xét một cách nghiêm túc. Chẳng hạn : Sự  tăng trưởng GDP  ở  nước ta vừa qua là nhanh hay chậm? Theo tính toán  chỉ cần đưa vào nền kinh tế của ta 1 tỷ USD thôi thì mức tăng trưởng có thể  đạt 6 %. Vậy sự tăng trưởng GDP vừa qua  ở ta chủ yếu do đâu? Do đường   lối chính trị hay do hoạt động kinh tế mà gốc rễ là quản lý tốt mang lại? Sự tăng trưởng kinh tế không đồng đều giữa các vùng có chênh lệch lớn. Hà  Nội và TP Hồ Chí Minh có mức tăng trưởng từ 15% trở lên, các vùng khác có  mức tăng trưởng 7% liên tục mấy chục năm, nhưng do sự  phát triển không   đều giữa hai vùng trong nước mà đang đứng trước nguy cơ  một nước chia  thành hai miền “phát triển và lạc hậu” 
  10. Tăng trưởng kinh tế  đi đôi với sự  chênh lệch về  thu nhập ngày càng lớn.   Kinh tế tăng trưởng nhưng mức sống thực tế của một bộ phận hưởng lương   giảm 1\3. Gạo  xuất khẩu đạt mức cao nhất, nhưng mức sống nông dân quá  thấp so với công nhân và người dân thành thị( năm 1995, thu nhập của người   dân đồng bằng sông Cửu Long là 200USD/năm trong khi ở TP Hồ Chí Minh   là 920USD/năm). Điều đáng quan tâm là sự chênh lệch về thu nhập giữa các  tầng lớp trong xã hội ngày càng lớn. Đến nay mức thâm hụt buôn bán tăng gấp đôi năm 1995 và lên tới 2,3 tỷ  USD. Nguyên nhân do khối lượng nhập khẩu thiết bị và hàng tiêu dùng tiếp   tục tăng. Sở  hữu toàn dân về  đất đai trên thực tế  đang bị  tư  nhân hoá. Diện tích đất   nông nghiệp tính theo đầu người giảm 300m^2 trong 10năm. 1/3 vốn đầu tư vào dịch vụ. Khuynh hướng đầu tư của nước ngoài là nhằm   thu hồi vốn nhanh, khai thác tài nguyên nhiều còn kỹ thuật tiên tiến không có   là bao. Vốn huy động trong dân còn  ở  tỷ  lệ  quá thấp: 7% GDP (trong khi Thái Lan  37%; Philippin 15%) Vốn đầu tư  trong nước chủ  yếu vẫn là vốn của nhà  nước. “Chủ nghĩa tiêu thụ” phát triển mạnh mẽ trong giới trung, thượng lưu. Sự lệ  thuộc của hệ  tư  tưởng vào tính thực dụng kinh tế  có xu hướng ngày càng  tăng. Tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, tệ nạn xã hội không giảm. Trong các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp hóa  có nhiều chỉ  tiêu phản ánh không rõ những bước đi để  kinh tế  nhà nước và  kinh tế tập thể thực sự là nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
  11. II – Từng bước khắc phục khó khăn trong quá trình đi lên CNXH ở nước ta 1­ Mở  rộng hợp tác quốc tế  nhằm đáp  ứng nhu cầu của sự  nghiệp công  nghiệp hoá(CNH), hiện đại hoá(HĐH) đất nước.  CNH, HĐH  ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở  vật chất, kỹ thuật cho CNXH,   tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững của nền kinh tế.  Trong quá trình tiến hành CNH,HĐH đất nước ngoài việc lấy nội lực làm nhân tố  quyết định đẩy mạnh mở rộng hợp tác quốc tế tiếp thu tối đa nguồn ngoại lực, coi   đây là nhân tố  quan trọng để  củng cố  vững chắc độc lập dân tộc, thúc đẩy sự  nghiệp CNH, HĐH đất nước thành công… để  đưa đất nước ngày càng hiện đại   hơn, văn minh hơn. Mở rộng hợp tác quốc tế trong sự nghiệp CNH, HĐH nhằm đáp ứng nhu cầu : Thu hút được nhiều vốn nước ngoài. Do nền kinh tế của chúng ta xuất phát thấp. LLSX đan xen của nhiều loại trình độ,   trong đó chiếm đại bộ phận là kỹ nghệ và công nghệ  cũ kỹ, do đó thu hút vốn để  thúc đẩy LLSX phát triển, nhập khẩu máy móc hiện đại, mở rộng thị trường… Chuyển giao máy móc, công nghệ, kỹ thuật hiện đại Đẩy mạnh buôn bán thương mại giữa các nước  Học tập kinh nghiệm và cách thức quản lý tiên tiến của các nước trên thế giới Tạo môi trường ổn định để phát triển Tiếp thu văn hoá nhân loại để xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản  sắc dân tộc Hiện nay xu thế  toàn cầu hoá và quốc tế  hoáLLSX của nhân loại do cuộc   cách mạng khoa học và công nghệ  mới hiện nay đem lại, đang chứa đựng những  phương tiện, đó là những điều kiện vật chất của những QHSX cao hơn mà những   nước lạc hậu chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, có thể tìm thấy và vận dụng  
  12. vào nước mình thông qua sự  giao lưu hợp tác quốc tế  dưới nhiều hình thức khác   nhau, từ đó tận dụng nguồn công nghệ, vốn, kinh nghiệm quản lý. Từ đó các quốc  gia chậm phát triển vẫn có thể bước vào con đường phát triển “rút ngắn” ngay cả  khi CNTB còn chưa bị đánh bại tại quê hương của nó và thậm chí khi thiếu cả sự  giúp đỡ trực tiếp của một nước XHCN tiên tiến. Khi các quốc gia chậm phát triển   đi sau nhận thấy sản xuất TBCN còn thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế đến mức độ  nhất định thì các nước đi theo con đường XHCN lại không có lý do gì không giám  sử  dụng nó như  một thành phần kinh tế  nhiều thành phần. Tất nhiên là dưới sự  dẫn dắt của thành phần kinh tế nhà nước  theo định hướng XHCN . 2­Thiết lập từng bước QHSX XHCN từ  thấp  đến cao với sự  đa dạng về  hình thức sở hữu Phải tuỳ theo trình độ phát triển của LLSX mà thiết lập hình thức QHSX sao   cho phù hợp. Phải chống tư tưởng nóng vội muốn xoá bỏ  ngay chế  độ  tư  hữu và  xác lập ngay chế  độ  công hữu về  TLSX với hình thức và quy mô quá lớn. Xuất  phát từ  một nền kinh tế  lạc hậu, chúng ta phải thừa nhận sự  tồn tại lâu dài của  nhiều thành phần kinh tế, phải phát huy tích cực cơ cấu kinh tế nhiều thành phần  kể cả thành phần kinh tế tư nhân TBCN nhưng phải xây dựng kinh tế quốc doanh   và kinh tế tập thể ngày càng lớn mạnh để trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc   dân. Phải phát triển kinh tế  hàng hoá theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ  chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Phải thực hiện hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và   hiệu quả kinh tế làm chủ yếu.
  13. PHẦN KẾT LUẬN Ở  nước ta, quá trình đi lên con đường XHCN là quá trình đầy thách thức khó  khăn. Nhưng thực tế  hơn 15 năm đổi mới đã cho chúng ta thấy sự  lựa chọn xây  dựng đất nước CNXH ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Ngoài con đường đó không  còn con đường nào khác. Vận dụng quan điểm lý luận triết học Mác Lênin xây dựng đất nước phát  triển theo định hướng XHCN một cách khoa học và hiệu quả  nhất. 15 năm đổi  mới(1986­2001) đã cho nhân dân ta nhiều bài học quý giá. Những bài học đổi mới   do Đại Hội VI, VII, VIII, IX nêu lên có giá trị  vô cùng to lớn. Trong quá trình xây  dựng đất nước theo CNXH phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên  
  14. nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác­ Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đứng trước  những khó khăn, thử thách những biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu  vực, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu cách mạng, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác  Lênin trên cơ sở xây dựng các chủ trương chính sách đổi mới. Chúng ta nhận thức rằng những thành tựu mà chúng ta đạt được qua 15 năm là sự  nỗ  lực của toàn đảng toàn dân. Đồng thời những tồn tại và những khó khăn thách  thức mà chúng ta đang và sẽ gặp phải cũng hết sức to lớn đòi hỏi chúng ta phải cố  gắng hơn nữa.  Đi lên CNXH  ở  nước ta đoì hỏi trước hết là đổi mới tư  duy nhận thức về  CNXH và con đường đi lên XHCN ở Việt Nam ngày một rõ ràng và đầy đủ hơn. có  ý nghĩa bảo đảm cho hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội cụ thể trong sự nghiệp xây  dựng và phát triển đất nước. Nhận thức bao giờ cũng là quá trình đi lên từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa  hoàn thiện đến hoàn thiện. Hơn nữa CNXH là một hiện tượng mới mẻ, đang vận   động, hình rhành trong lịch sử  loài người. Bởi vậy bám sát thực tiễn nghiên cứu,  tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận đó là yêu cầu to lớn mà thực tiễn đặt ra cho  hoạt động của Đảng ta hiện nay.
  15. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình triết học Maclênin 2. Tạp chí cộng sản số 5 ­ 96 3. Tạp chí cộng sản số 3 ­ 2001 4. Tập bài giảng triết học Maclênin Tập II chủ nghĩa  DVLS
  16. Mục lục A, Phần mở đầu:..............................................................................................1 B, Phần nội dung: Chương I: Lý luận hình thái kinh tế ­ xã hội : 1. Khái niệm hình thái kinh tế xã hội.............................................................2 2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội ...........................................2 Chương II Sự lựa chon con đường xây dựng CNXH ở Việt Nam 1. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta.............................4 2. Sự lựa chọn con đường xây dựng CNXH ở nước ta............................5 Định hướng xây dựng CNXH ở nước ta: Đúng hay chệch? Có người lo ngại rằng: hiện nay  ở nhiều nước, chế độ  XHCN bị  sụp đổ, liệu  chúng ta có thể đi lên CNXH được không? Đi lên CNXH ở nước ta là một tất yếu khách quan Chương III: Quá trình đi lên CNXH ở nước ta thực trạng và giải pháp 2. Thực trạng quá trình đi lên CNXH ở nước ta.......................................8 3. Từng bước khắc phục khó khăn trong trong quá trình đi lên CNXH  ở nước ta......................................................................................................9 Thiết lập từng bước QHSX XHCN từ  thấp đến cao với sự  đa dạng về  hình  thức sở hữu C, Kết luận.....................................................................................................12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2