intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tìm hiểu HỌA SỸ NGUYỄN VĂN TỴ

Chia sẻ: Dfsfds Fsdfdsf | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

125
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ sinh ngày 24/2/1917 (tức ngày 3/2 năm Đinh Tỵ tại Hà Nội). Năm 1934 - 1935, ông học dự bị ở trường Mỹ thuật Đông Dương, trong thời kỳ này ông đã có tác phẩm sơn dầu và lụa bày ở các cửa hàng tranh như Cảnh chùa và Tháp; Chân dung em gái. Năm 1936 ông thi đỗ vào trường Mỹ thuật Đông Dương, học khoá 11 (1936 - 1941) cùng với các hoạ sĩ Hoàng Tích Chù, Nguyễn Tiến Chung, Bùi Trang Chước, Trần Văn Lắm... ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tìm hiểu HỌA SỸ NGUYỄN VĂN TỴ

  1. HỌA SỸ NGUYỄN VĂN TỴ Hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ sinh ngày 24/2/1917 (tức ngày 3/2 năm Đinh Tỵ tại Hà Nội). Năm 1934 - 1935, ông học dự bị ở trường Mỹ thuật Đông Dương, trong thời kỳ này ông đã có tác phẩm sơn dầu và lụa bày ở các cửa hàng tranh như Cảnh chùa và Tháp; Chân dung em gái. Năm 1936 ông thi đỗ vào trường Mỹ thuật Đông Dương, học khoá 11 (1936 - 1941) cùng với các hoạ sĩ Hoàng Tích Chù, Nguyễn Tiến Chung, Bùi Trang Chước, Trần Văn Lắm... Trong những năm học tập, ông đã có nhiều tác phẩm tham dự các triển lãm lớn ở trong nước và nước ngoài. ở trong nước ông đã tham dự triển lãm do Hội Việt Nam khuyến khích mỹ thuật và công nghệ tổ chức (SADEAI), năm 1936 với ba tác phẩm Chân dung bà tôi - sơn dầu; Chú tiểu thắp hương - lụa; Cảnh Bình Nhi Quan Lạng Sơn và được trao tặng Huy chương Vàng; năm 1939 với tác phẩm Hai cô gái Mường - khắc gỗ in trên lụa được tặng Huy chương Ngoại hạng, ông đã viết bài Giới thiệu triển lãm hàng năm của SADEI Hội khuyến khích Mỹ thuật và công nghệ; Triển lãm của Hội hợp tác nghệ sĩ Đông Dương năm 1939 - 1940, với hai tác
  2. phẩm sơn mài Thác bờ và Mùa hè. Ông cũng có nhiều tác phẩm gửi dự triển lãm tại nước ngoài như: năm 1937 với hai tác phẩm Chị em - lụa; Hươu sao - khắc gỗ dự triển lãm quốc tế tại Paris; Năm 1938 có các tác phẩm Thuyền gạo sông Hồng - lụa dự triển lãm ở Batavia (Indonesia) và hai tác phẩm Chị em và Chim công - khắc gỗ; Chùa mở hội- lụa dự triển lãm quốc tế ở Bruxenlles (Bỉ) và ở San - Francisco (Mỹ). Năm 1941 ông tốt nghiệp hạng ưu với ba tác phẩm Vịnh Hạ Long - sơn mài; Hội đền Chèm - sơn mài; Trăng lên - khắc gỗ Từ tháng 5 đến tháng 7/1942 ông đi vẽ ở ăngkor - Cămpuchia (các tác phẩm sau này được trưng bày tại trụ sở Hội nghị văn hoá toàn quốc 1945 - 1946). Tháng 11/1942, ông tổ chức triển lãm riêng lần thứ nhất tại trụ sở của nhóm FARTA (cái nôi nghệ thuật Việt Nam) gồm 32 tác phẩm sơn mài, lụa, khắc gỗ. Năm 1943, ông đi Nhật Bản tham gia triển lãm ở Tokyô, với hai tác phẩm Nghỉ ngơi - sơn mài và Hai cô gái Mường - khắc gỗ. Dự triển lãm nhóm FARTA với ba tác phẩm về Làng Mía ở Sơn Tây - sơn dầu; Nhân vật và Vịnh Hạ Long - sơn mài, năm 1943 - 1944 làm trang trí sân khấu với đoàn kịch Thế Lữ ở Hà Nội. Năm 1945 ông làm Uỷ viên BCH Hội Văn hoá Cứu quốc, viết báo Tiên Phong, tổ chức triển lãm Văn hoá và vẽ bức tranh cổ động Độc lập hay là chết trưng bày tại
  3. Hà Nội. Nhân dịp kỷ niệm một năm ngày Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 năm 1946 ông tham gia Ban tổ chức triển lãm Mỹ thuật tháng Tám trưng bày tại Nhà hát Lớn Hà Nội, và có hai tác phẩm sơn mài Chăn trâu và Nghỉ ngoài ruộng gặt. Cuối năm 1946 tham gia tổ chức và giảng dạy Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam rồi đi vẽ ở mặt trận Nam tiến. Sau ngày toàn quốc kháng chiến năm 1947 ông đi vào miền Trung làm Uỷ viên chấp hành Văn hoá kháng chiến Thanh Hoá và Liên khu 4; Viết báo Chống giặc và Sáng tạo, vẽ tranh cổ động, trang trí sân khấu - hoá trang cho đoàn kịch kháng chiến. Năm 1948 tổ chức xưởng hoạ Liên khu 4 và dạy lịch sử Mỹ thuật và Hội hoạ phân trường Mỹ thuật liên khu 4, Biên tập và xuất bản tập san Mỹ thuật in tay có phụ bản in đá. Cũng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ông đi thực tế và đã đi vẽ ở Việt Bắc (Bắc Kạn, Bản Thi, Đại Từ -Thái Nguyên), ở những làng kháng chiến Cự Nẫm, Lệ Sơn, Cảnh Dương (Quảng Bình)..., Biên tập và xuất bản tập san Mỹ thuật (ra được 05 số có phụ bản in đá) Tạp chí “Sáng tạo” - cơ quan ngôn luận của Văn hoá kháng chiến Liên khu 4) (1948 - 1950); tham gia đội giảm tô và cải cách ruộng đất ở Phú Thọ (1953). Đi vẽ chiến dịch Điện Biên Phủ (1954). Trong điều kiện kháng chiến gian khổ, thiếu thốn nhưng ông vẫn liên tục sáng tác nhiều tác phẩm mới trong đó có nhiều tác phẩm ký hoạ về nông dân, về bộ đội, về dân tộc Thái và xây dựng nhiều tác phẩm với chất liệu in đá, sơn mài, lụa... tác
  4. phẩm Chiến luỹ ngã tư sở, Xe cứu thương, Cầu mới tại triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1948 chào mừng Đại hội Văn nghệ Việt Nam; tác phẩm Bộ đội giã gạo; Vùng biển Cảnh Dương - lụa; Lão chài - sơn mài dự triển lãm Hội hoạ 1951 tại Chiêm Hoá - Tuyên Quang. Ông còn viết nhiều bài báo, các bài nghiên cứu về mỹ thuật. Hoà bình được lập lại, ông trở về Hà Nội tham gia Ban tổ chức triển lãm chào mừng Thủ đô giải phóng do Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức tại Nhà Hát lớn Hà Nội. Sau đó ông công tác tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam và tham gia hoạt động ở Hội Văn nghệ Việt Nam và Hội Mỹ thuật Việt Nam. Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà, ông đã có nhiều tác phẩm mới sáng tác trưng bày tại nhiều triển lãm lớn: Nông dân kể khổ - sơn mài; Cấy ở Tây Bắc; Khu tự trị Việt Bắc - lụa; tranh cổ động Chị Vân tố cáo vụ Hướng Điền (được giải thưởng tranh cổ động) dự triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1955; Hữu nghị - sơn mài (60x45); Xô viết Nghệ Tĩnh (đồng tác giả) - sơn mài (150x302) - 1957; các tác phẩm Nhà tranh gốc mít - sơn mài (67xl05) ; Du kích Bắc Sơn - sơn mài (86x121) - 1958 tham gia triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1958; Buồm Cửa Hàn, lưới Cửa Hội - sơn mài (100x180); Mùa gặt ở Thanh Hoá - sơn mài (90x120); Nhà tranh gốc mít - sơn mài (65x100) tham gia triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 1960, một số tác phẩm của ông đã được
  5. chọn tham dự triển lãm 12 nước XHCN tại Liên Xô và Đông Âu (1960). Sau đó ông tiếp tục sáng tác nhiều tác phẩm khác như: Em bé đọc sách - sơn mài; Phong cảnh Chợ Chu (Cánh đồng Chợ Chu) - sơn dầu; Căm thù - sơn mài - 1960; Bắc Nam thống nhất - sơn mài (86x56); Biển ở Vĩ tuyến 17 - sơn mài (50x65)- 1961; có tác phẩm tham dự triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1962. Cũng trong thời gian này ông đã đi thực tế tại vùng than Quảng Ninh, Hòn Gai, với biển Hạ Long 1961 - 1963, vẽ ở tuyến lửa Vĩnh Linh, vẽ tranh địch vận và tranh cổ động thống nhất. Từ năm 1964 trong cuộc kháng chiến chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, vừa công tác, ông đã có nhiều chuyến đi thực tế tại những vùng rẻo cao Bắc Hà, Si-ma-cai, Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang); ba lần đi vẽ tại tuyến lửa Vĩnh Linh; Đi công tác tại nước bạn Lào (1968); đi Trường Sơn, chiến dịch Buôn Ma Thuột và chiến dịch Hồ Chí Minh (3/1975). Với những tư liệu ký hoạ thời kỳ kháng chiến chống Pháp và qua các chuyến đi thực tế, hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ đã sáng tác nhiều tác phẩm sơn mài, lụa, tranh khắc: Mùa lúa chín- lụa; tác phẩm Du kích mũ nan - khắc gỗ Huy chương Bạc triển lãm quốc tế đồ hoạ Leipzig 1965; tác phẩm Hai đội quân gặp nhau - sơn mài (1968); Du kích Cửa Tùng, Địa đạo Vịnh Mốc, Bên bờ Nhật Lệ (1969); Ra đảo - sơn mài (120x180) (1971); Đêm Nô en 72 - Hà Nội- sơn mài (100x150) (1973); Nam bắc một nhà - sơn mài (1974)
  6. Đất nước thống nhất, cùng với nhiều hoạ sĩ trong cả nước, ông đã tập trung sáng tác nhiều tác phẩm dựa trên những ký hoạ, những ký ức của các chuyến đi thực tế từ thời kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mỹ. Nổi bật là các tác phẩm bằng chất liệu sơn mài, sơn dầu, lụa. Về chất liệu sơn mài có các tác phẩm : Hai đội quân gặp nhau (1968) Ra đảo (1970); Hà Nội đêm Nô - en 72 (1972); Nam bắc một nhà (1974); Vịnh Hạ Long, Chiến dịch Điện Biên Phủ (1980); Ngày vui (1983); Hạ Long (60x90cm); Đường làng (60x90cm); Chợ Bờ (60x90cm); Mèo (40x60cm) (1984); Bên dòng Mê Kông (90x120) (1885); Hai cô Mường (92x60) (1986); Hội đánh cồng (90x60) (1987); Làng Mỗ (115x200) (1988); Phong cảnh miền núi (150x240) (1989); Phong cảnh Tây Nguyên (150x240); Phong cảnh (150x240) (1991). Về chất liệu sơn dầu: Du kích Cửa Tùng, Địa đạo Vịnh Mốc, Bên bờ Nhật Lệ (1969); và tác phẩm Ngày vui, Cảnh Pắc Bó tham dự triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1976. Về chất liệu lụa có: Bác Hồ ở Pắc Bó (80x120) (1978); Lưới Hải Vân, Mưa giông, Cấy lúa, Bàn đá chông chênh (1981); Hồi tưởng (50x68) (1988). Các tác phẩm hội hoạ, đồ hoạ của hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ thể hiện bút pháp khoẻ khoắn, hình hoạ chuẩn xác, bố cục khái quái, phóng khoáng với những tìm tòi thể nghiệm tạo nên bản sắc riêng.
  7. Hoạ sĩ Nguyễn Văn Ty không những chỉ là người có nhiều tác phẩm hội hoạ, đồ hoạ mà ông còn là một nhà giáo, một cây viết phê bình mỹ thuật. Ngay từ trước cách mạng và trong kháng chiến chống Pháp ông đã có nhiều bài viết, công trình đáng chú ý: các bài viết giới thiệu triển lãm hàng năm của Hội khuyến khích Mỹ thuật và công nghệ (SADEI) đăng trên Tạp chí Tri Tân - Hà Nội (1938 - 1942); Bút ký về Chợ Bờ trên Tạp chí Sinh viên (1940); Nghệ thuật tranh Đông Hồ (1942); Sân khấu kháng chiến, bài viết phê bình Mỹ thuật (1947); Biên tập và viết Tạp chí Mỹ thuật (05 số), Triển lãm Mỹ thuật Lam Sơn đăng trên Tạp chí sáng tạo (1948 - 1950); Nghệ thuật Đông Sơn cổ đại, nghệ thuật Lý Trần thế kỷ 11 - 13, nghệ thuật Lê thế kỷ 14 - 18 (1962 - 1963); Thuật ngữ Mỹ thuật Pháp Việt - Việt Pháp (1970); Điêu khắc gỗ dân gian, Tranh lụa Việt Nam và Nguyễn Phan Chánh (1972); Tranh lụa và Hội hoạ Việt Nam (1974); Mỹ thuật dân tộc - dân gian Việt Nam và sáng tác hiện đại (1983); và các bài viết giới thiệu nhiều tác giả mỹ thuật trong nước và nước ngoài từ năm 1973 - 1975. Ngoài ra ông đã viết khoảng 200 bài đã được công bố (in hoặc phổ biến bằng giáo trình hay tham luận khoa học). Hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ bên cạnh việc sáng tác, ông cũng là một nhà giáo đào tạo nhiều thế hệ hoạ sĩ. Trong kháng chiến chống Pháp, ông đã mở các lớp vẽ thiếu nhi từ 9 - 10 tuổi, cho các em nông thôn và thành thị ở Quần Tín Thanh Hoá (1947 - 1950), phụ trách phân trường Cao đẳng Mỹ thuật và xưởng hoạ liên khu 4; dạy trường Cao đẳng Mỹ thuật ở Việt Bắc (1951), mở lớp dạy vẽ ở Đồng Hỷ Thái
  8. Nguyên tháng 8/1952. Từ năm 1956 đến năm 1970 ông là giảng viên của trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam, tham gia giảng dạy từ khoá đầu tiên mang tên Tô Ngọc Vân, đến các khoá Đại học mỹ thuật sau này. Ông còn đảm nhiệm các chức vụ Trưởng phòng giáo vụ, Trưởng khoa hội hoạ của trường. Ông cũng là người viết nhiều giáo trình về Mỹ thuật để phục vụ cho công tác giảng dạy: Giáo trình Mỹ thuật cấp Đại học (1945 - 1946) cho trường Cao đẳng mỹ thuật khi mới được thành lập lại sau cách mạng tháng Tám; Giáo trình về Lịch sử Mỹ thuật thế giới đã giảng ở 4 khoá Văn nghệ kháng chiến ở Liên khu 4 từ năm 1947 đến năm 1950; Giáo trình nghệ thuật trang trí tư liệu giảng dạy trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam (1961). Đặc biệt cuốn sách Bước đầu học vẽ được Nhà xuất bản Văn hoá in năm 1963 và được tái bản 3 lần vào các năm 1968, 1975, 1984. Ông là một trong những hoạ sĩ tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương có công lao đào tạo nhiều thế hệ hoạ sĩ góp phần cho sự phát triển nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại. Nhiều học sinh của ông sau này đã giành được nhiều giải thưởng cao tại các triển lãm mỹ thuật toàn quốc, triển lãm mỹ thuật lớn ở trong nước, và nước ngoài và được trao tặng giải thưởng Nhà nước. Hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ là một nhà hoạt động xã hội, tham gia Hội văn hoá Cứu quốc từ năm 1945, tham gia hoạt động trong các tổ chức văn hoá ở thời kỳ kháng chiến chống Pháp: Uỷ viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (1957 - 1958). Tại Đại hội thành lập Hội Mỹ thuật Việt Nam từ ngày 26 đến
  9. ngày 29/3/1957 ông được bầu vào Ban chấp hành, được bầu làm Uỷ viên Ban thường vụ và giữ chức Tổng thư ký Hội Mỹ thuật Việt Nam từ năm 1957 đến năm 1958. Năm 1983 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai Hội Mỹ thuật Việt Nam, ông tiếp tục được bầu vào Ban chấp hành TW Hội, Hội đồng nghệ thuật TW Hội, Uỷ viên Ban chuyên ngành Hội hoạ, Phó chủ tịch Hội đồng chuyên ngành Hội hoạ, Uỷ viên Ban chuyên ngành Lý luận phê bình khoá II (1983 - 1989); Uỷ viên Hội đồng nghệ thuật TW Hội khoá III (1989 - 1994). Trong suốt 35 năm công tác Hội ông đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Hội cũng như sự phát triển của nền Mỹ thuật Việt Nam hiện đại. ông mất ngày 19/1/1992 tại Hà Nội. Trong suốt cuộc đời hoạt động nghệ thuật, Hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ đã nhận được nhiều giải thưởng lớn như: Huy chương Vàng triển lãm SEDEAI năm 1937, Huy chương ngoại hạng triển lãm SEDEAI năm 1939, Huy chương Bạc triển lãm quốc tế đồ hoạ Leipzig 1965, Huy chương Đồng triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1995. ông được Đảng và Nhà nước khen thưởng: Huân chương kháng chiến hạng Nhì, Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng I, Huân chương Độc lập hạng Ba (12/1988); Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam, Vì sự nghiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Năm 2001 Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trao tặng hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 2) cho các
  10. tác phẩm: Nhà tranh gốc mít - sơn mài (67xl05) - 1958, Du kích Bắc Sơn - sơn mài (86x121) - 1958, Buồm Cửa Hàn, lưới Cửa Hội - sơn mài (100x180) - 1960, Bắc Nam thống nhất - sơn mài (86x566) - 1961, Phong cảnh - sơn mài (150x240) - 1991. Hội đồng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đã nhận xét: Tác phẩm chính của hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ là những tranh sơn mài đẹp, với màu sắc trầm ấm và lộng lẫy của chất liệu sơn mài. Hoạ sĩ đã có nhiều năm nghiên cứu sơn mài với tình cảm quê hương sâu đậm. Ông quan tâm đến lý luận phê bình Mỹ thuật, đã có những bài viết về Mỹ thuật có giá trị từ những ngày đầu cách mạng tháng Tám đến những giai đoạn sau.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2