Chương 5: Chương trình mô phỏng

Đối với hệ thống không dùng một cơ chế thích nghi nào hoặc thích nghi theo

cơ chế chọn lọc sóng mang sẽ có thông lượng không đổi, kết quả so sánh chỉ có ý

nghĩa đối với hai cơ chế thích nghi là chuyển mức điều chế (AQAM) và kết hợp

giữa chọn lọc sóng mang và mức điều chế.

Khi điều kênh kênh xấu (SNR < 8 dB), hệ thống không thích nghi và hệ thống thích

nghi theo mức điều chế có thông lượng như nhau 1 bit/ký hiệu (các hệ thống đều

phát BPSK). Song cũng với điều kiện kênh như vậy, hệ thống dùng cơ chế thích

nghi kết hợp giữa chọn lọc sóng mang và mức điều chế đã có thể phát 4-QAM. Đến

khi hệ thống thích nghi theo mức điều chế có thể phát ổn định 4-QAM, thì hệ thống

dùng cơ chế thích nghi kết hợp đã có thể phát 16-QAM. Tuy số lần phát 4-QAM và

16-QAM tương đương nhau, nhưng như thế thông lượng của hệ thống dùng cơ chế

thích nghi kết hợp cũng cao hơn rất nhiều so với các hệ thống khác. Để thấy rõ ưu

điểm của các cơ chế thích nghi chuyển mức điều chế ta hãy xét điều kiện kênh

truyền tốt hơn, và mức điều chế cao hơn.

Trường hợp 2: Mức điều chế sóng mang con thiết lập ban đầu là 4-QAM. Kênh

truyền được thiết lập sao cho cơ chế thích nghi chuyển mức điều chế không đạt

ngưỡng phát 64-QAM (vì nếu như vậy sẽ không so sánh chọn vẹn hiệu năng BER

và hiệu năng thông lượng giữa các cơ chế thích nghi cho từng mức ngưỡng phát

khác nhau).

- 82 -

Chương 5: Chương trình mô phỏng

Phân tích kết quả:

 Hiệu năng BER:

Hiệu năng so sánh trong trường hợp này cũng tương tự như trường hợp đầu, hệ

thống dùng nguyên cơ chế thích nghi chọn lọc sóng mang vẫn cho hiệu năng cao

nhất. Khi SNR > 32 dB ta thấy hiệu năng của hệ thống dùng cơ chế thích nghi

- 83 -

Chương 5: Chương trình mô phỏng

chuyển mức điều chế thấp nhất, vì hệ thống phát 16-QAM sẽ có BER cao hơn mức

phát 4-QAM cố định của hệ thống không thích nghi. Hệ thống dùng cơ chế thích

nghi kết hợp đạt ngưỡng phát 16-QAM rất sớm (SNR > 22 dB), và hiệu năng cũng

cao hơn hệ thống dùng nguyên cơ chế chuyển mức điều chế.

 Hiệu năng thông lượng

Thông lượng của hệ thống dùng cơ chế thích nghi kết hợp vẫn tỏ ra ưu thế hơn

hệ thống dùng cơ chế chuyển mức điều chế thông thường, hệ thống này đạt ngưỡng

phát 4-QAM và 16-QAM sớm hơn hệ thống dùng nguyên cơ chế thích nghi chuyển

mức điều chế.

Hai trường hợp vừa khảo sát ta chưa thấy ưu điểm rõ rệt của các hệ thống dùng cơ

chế thích nghi chuyển mức điều chế, tuy nhiên với điều kiện kênh truyền tốt hơn và

mức điều chế sóng mang con thiết lập ban đầu cao hơn ta sẽ thấy ưu điểm của các

hệ thống này.

Trường hợp 3: Mức điều chế sóng mang con thiết lập ban đầu là 16-QAM.

Hiệu năng BER và hiệu năng thông lượng trong trường hợp này được thể hiện trong

giao diện dưới đây:

- 84 -

Chương 5: Chương trình mô phỏng

Phân tích kết quả:

 Hiệu năng BER

Trường hợp này hiệu năng so sánh giữa các hệ thống đã khác xa so với hai

trường hợp vừa khảo sát. Các hệ thống dùng cơ chế thích nghi chuyển mức điều chế

đã chiếm ưu thế hơn hẳn. Nguyên nhân do có sự chuyển mức điều chế từ cao xuống

thấp làm BER giảm mạnh, trong khi các hệ thống không dùng cơ chế thích nghi

- 85 -

Chương 5: Chương trình mô phỏng

chuyển mức điều chế vẫn giữ nguyên mức điều chế cao (16-QAM). Hiệu năng của

cơ chế thích nghi kết hợp giữa chọn lọc sóng mang và mức điều chế đã cao hơn các

hệ thống khác. Song khi SNR cao do hệ thống này đạt mức phát 64-QAM, do đó

hiệu năng có phần thấp hơn hệ thống dùng nguyên cơ chế thích nghi chọn lọc sóng

mang.

 Hiệu năng thông lượng

Trong trường hợp này vẫn có sự khác nhau về thông lượng giữa hai cơ chế thích

nghi: chuyển mức điều chế đơn thuần và kết hợp giữa chọn lọc sóng mang và mức

điều chế. Cơ chế thích nghi kết hợp vẫn tỏ ra hiệu quả hơn hẳn, cả khi SNR thấp và

SNR cao hơn. Đặc biệt khi SNR > 35 hệ thống dùng cơ chế thích nghi kết hợp đã có

thể phát 64-QAM, trong khi hệ thống dùng nguyên cơ chế thích nghi chuyển mức

điều chế chỉ đạt ngưỡng BER phát 16-QAM. Để thấy rõ ưu điểm vượt trội của hệ

thống dùng cơ chế thích nghi kết hợp giữa chọn lọc sóng mang và mức điều chế ta

hãy xét trường hợp mức điều chế thiết lập ban đầu là 64-QAM.

Trường hợp 4: Mức điều chế sóng mang con thiết lập ban đầu là 64-QAM.

- 86 -

Chương 5: Chương trình mô phỏng

Phân tích kết quả

 Hiệu năng BER

- 87 -

Chương 5: Chương trình mô phỏng

Hiệu năng của các hệ thống dùng cơ chế thích nghi chuyển mức điều chế đã chiếm

ưu thế tuyệt đối. Trong đó hệ thống dùng cơ chế thích nghi kết hợp giữa chọn lọc

sóng mang và mức điều chế cho hiệu năng cao nhất.

 Hiệu năng thông lượng

Trong trường hợp này các hệ thống không dùng cơ chế chuyển mức điều chế sẽ cho

thông lượng cao nhất do giữ nguyên mức điều chế 64-QAM. Tuy nhiên cần lưu ý

rằng, hiệu năng BER của các hệ thống này thấp hơn rất nhiều so với các hệ thống

dùng cơ chế thích nghi chuyển mức điều chế, do đó sẽ không đảm bảo QoS

5.6 Kết luận chương

Chương này đã giới thiệu tính năng của chương trình mô phỏng hệ thống truyền dẫn

OFDM. Phân tích phương pháp mô phỏng tín hiệu OFDM, phân tích các thông số

hệ thống truyền dẫn OFDM. So sánh hiệu quả của các hệ thống OFDM sử dụng các

cơ chế thích nghi và các hệ thống OFDM không dùng cơ chế thích nghi, tiêu chí so

sánh được thể hiện thông qua đánh giá chất lượng ảnh ban đầu và ảnh truyền qua

các hệ thống OFDM. Một kết quả rất quan trọng là chương này đã đánh giá hiệu

năng BER và hiệu năng thông lượng của các cơ chế thích nghi khác nhau thông qua

mô phỏng, kết quả so sánh giữa các hệ thống sử dụng các cơ chế thích nghi khác

nhau và các hệ thống không dùng cơ chế thích nghi cho thấy sự kết hợp của hai cơ

chế thích nghi là thích nghi theo mức điều chế (AQAM) và cơ chế thích nghi chọn

lọc sóng mang đã đem lại hiệu năng BER cực đại đồng thời hiệu năng thông lượng

cũng cao hơn rất nhiều so với các hệ thống chỉ dùng một cơ chế thích nghi độc lập.

- 88 -

KẾT LUẬN VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA ĐỀ TÀI

Kết luận:

Đồ án đã tập trung tìm hiểu, trình bày tương đối chi tiết về kĩ thuật OFDM

cũng như kĩ thuật OFDM thích nghi. Trong kĩ thuật AOFDM, đồ án trình bày ba

giải thuật chính để tiến hành điều chế thích nghi theo sự biến đổi của kênh truyền.

Đó là: thích nghi theo SNR phát trên mỗi sóng mang, thích nghi theo mức điều chế,

thích nghi theo cơ chế chọn lọc sóng mang. Thực hiện các cơ chế thích nghi nhằm

tăng cường thông lượng của hệ thống, nâng cao chất lượng truyền dẫn mà ở đây

được đánh giá qua hiệu năng BER và hiệu năng thông lượng. Thông qua chương

trình mô phỏng, nhận thấy sự kết hợp của hai cơ chế thích nghi chọn lọc sóng mang

và chuyển mức điều chế đã đem lại hiệu năng vượt trội hơn hẳn so với các cơ chế

riêng rẽ khác.

Hướng phát triển của đề tài:

Qua quá trình mô phỏng, ta nhận thấy cơ chế thích nghi chọn lọc sóng mang

hoạt động rất hiệu quả, nhưng phương pháp thích nghi theo mức điều chế cần được

tối ưu hơn. Trong đồ án cơ chế thích nghi theo mức điều chế sẽ thay đổi mức điều

chế trên toàn bộ các sóng mang con một cách đồng loạt như nhau nên hiệu quả

mang lại chưa cao. Nếu có thể xây dựng từng sơ đồ thích nghi mức điều chế độc

lập cho mỗi sóng mang con thì hiệu quả mang lại sẽ cao hơn.

Ngoài ra do quá trình thích nghi theo cơ chế chuyển mức điều chế bị giới hạn

bởi ngưỡng SNR mà tại đó các bộ giải mã vẫn có thể làm việc tốt, vì vậy việc

- 89 -

nghiên cứu thiết kế các bộ mã tốt thích hợp với hệ thống OFDM điều chế nhiều

mức trong điều kiện kênh fading là việc có ý nghĩa quan trọng. Hướng nghiên cứu

có thể là thiết kế các mã thích nghi dùng cho OFDM như mã xoắn, mã Turbo, mã

RSC,…

Xuất phát từ đòi hỏi không ngừng về chất lượng truyền dẫn đa dịch vụ trong các

mạng vô tuyến và thông tin di động, để nâng cao khả năng ứng dụng của hệ thống

OFDM, bộ mã cần dùng cần có kết cấu bộ mã đơn giản mà vẫn đảm bảo được chỉ

tiêu về tỉ lệ lỗi bit BER và thông lượng thông tin BPS của toàn bộ hệ thống. Sau mã

Turbo mã BICM-ID được đề xuất nghiên cứu từ những năm 1990 bởi nhóm nghiên

cứu X.Li và Ritcey là bộ mã tốt cho truyền dẫn trên kênh đa đường do thừa hưởng

ưu điểm của các mã xoắn cơ sở, phương pháp xáo trộn bít, giải mã lặp và các

phương pháp khác. Việc ứng dụng bộ mã này kết hợp với OFDM thích nghi sẽ

mang lại cho chúng ta một hệ thống mềm dẻo, có hiệu quả cao trong điều kiện

truyền dẫn đa đường.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] TS. Nguyễn Phạm Anh Dũng, “Lý thuyết trải phổ và ứng dụng”. Nhà xuất bản

bưu điện 2001.

[2] Các tạp chí bưu chính viễn thông.

[3] "Adaptive techniques for multiuser OFDM", for the degree of Doctor of

Philosophy in Electrical and Computer Engineering, Eric Philip Lawrey, 12 -

2001.

- 90 -