
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 489 - THÁNG 4 - SỐ 1 - 2020
57
lòng về thái độ phục vụ của nhân viên y tế
(NVYT) 88,9%; về chất lượng điều trị 79,5%; về
giá cả hợp lý 95,5%; về thời gian chờ 91,3%; về
không gian rộng rãi và phù hợp 93,6%; hài lòng
về tình trạng vệ sinh sạch sẽ thấp hơn với
75,3%. Tỷ lệ hài lòng cao hơn ở nhóm bệnh
nhân càng lớn tuổi, học vấn thấp. Nên tiếp tục
cải thiện năng lực chuyên môn của y bác sĩ cũng
như tăng cường trang thiết bị, kinh phí cho TYT
để nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh
tại TYT, đáp ứng nhu cầu của người dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thiện Thuần (2014) "Khảo sát tình hình
đáp ứng dịch vụ y tế tuyến y tế cơ sở tại thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai". Tạp chí Y học
TP.HCM, Tập 8 (1)
2. Bộ y tế (2002), Bảng phân loại quốc tế bệnh tật
(ICD-10), Nhà xuất bản y học, Hà Nội.
3. Viện lão khoa (2015), Điều tra dịch tễ học về
tình hình bệnh tật, nhu cầu chăm sóc y tế và xã
hội của người già Việt Nam, Hà Nội.
4. Bộ Y tế (2014) Quyết định số 4667/QĐ-BYT ngày
07/11/2014 về Quy định các tiêu chí xã chuẩn
quốc gia về Y tế giai đoạn đền năm 2020.
TÌNH HÌNH ĐIỀU TRỊ GLÔCÔM GÓC MỞ TẠI KHOA GLÔCÔM,
BỆNH VIỆN MẮT TRUNG ƯƠNG TRONG 5 NĂM (2014 – 2018)
Phạm Thị Thu Thủy2, Đỗ Tấn1, Nguyễn Công Huân2
TÓM TẮT16
Mục tiêu: Nhận xét về các phương pháp điều trị
glôcôm góc mở áp dụng tại khoa Glôcôm – bệnh viện
Mắt Trung Ương trong 5 năm (2014 – 2018). Đối
tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô
tả, hồi cứu trên hồ sơ bệnh án của các bệnh nhân được
chẩn đoán là glôcôm góc mở điều trị nội trú tại khoa
Glôcôm – bệnh viện Mắt Trung Ương trong thời gian từ
tháng 1/2014 đến hết tháng 12/2018. Kết quả: Tỷ lệ
điều trị trước khi vào viện bằng thuốc là 57,8%, phẫu
thuật là 12,3%, laser là 2,4%. Ở thời điểm trong viện,
đa số mắt được điều trị phương pháp phẫu thuật chiếm
77,2%, điều trị thuốc chiếm 19,0%, có 3,8% mắt điều
trị laser. Qua 5 năm (2014 – 2018), nhìn chung tỷ lệ
điều trị phẫu thuật có xu hướng tăng nhẹ, từ 70,7%
năm 2014 tăng lên 83,9% năm 2015, và giữ khá ổn
định ở năm 2016 – 2018 với tỷ lệ 75,8% – 78,8%. Tỷ lệ
điều trị phẫu thuật cắt củng mạc sâu có xu hướng tăng,
tỷ lệ phẫu thuật cắt bè có xu hướng giảm. Tỷ lệ điều trị
phẫu thuật có dùng chất chống chuyển hóa có xu
hướng tăng đều qua các năm. Phương pháp điều trị lựa
chọn có liên quan đến tuổi, giai đoạn bệnh glôcôm. Kết
luận: Tỷ lệ phẫu thuật glôcôm cũng như sử dụng chất
chống chuyển hóa có xu hướng tăng đều qua các năm
(2014 – 2018).
Từ khóa:
Glôcôm góc mở, cắt bè, cắt củng mạc
sâu, chất chống chuyển hóa
SUMMARY
FACTS OF OPEN ANGLE GLAUCOMA
TREATMENT AT GLAUCOMA DEPARTEMNT
– VIETNAM NATIONAL EYE HOSPITAL
OVER 5 YEARS (2014-2018)
1Bệnh Viện Mắt Trung Ương
2Đại Học Y Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Đỗ Tấn
Email: dotan20042005@yahoo.com
Ngày nhận bài: 5.2.2020
Ngày phản biện khoa học: 24.3.2020
Ngày duyệt bài: 30.3.2020
Purpose: Evaluation on open-angle glaucoma
treatments at Glaucoma Department – Vietnam
National Eye Hospital over 5 years (2014 - 2018).
Subjects and methods: Retrospective study on
medical records of inpatients who was diagnosed and
hospitalized with open-angle glaucoma at Glaucoma
Department – Vietnam National Eye Hospital from
January 2014 to December 2018. Results: The rate
of pre-admission medical treatment was 57.8%,
surgeries was 12.3% and laser therapy was 2.4%.
After hospitalization, 77.2% eyes were treated
surgically while 19.0% continued with medical
treatment and 3.8% received laser therapy. Over 5
years (2014 – 2018), the percentage of surgical
treatment increased slightly, from 70.7% in 2014 to
83.9% in 2015, and remained unchange around
75.8% - 78.8% at 2016-2018 stage. Deep sclerectomy
rate was also higher, while trabeculectomy was
decreased. The trend of using anti-metabolites
associated with filtering surgery rose steadily over
thise years. Choosing of treatment type was affected
by age and stages of glaucoma. Conclusion: The
percentage of surgery and antimetabolites in
Glaucoma treatment increased steadily over years
(2014 - 2018).
Key words:
Open angle Glaucoma,
trabeculectomy, deep sclerectomy, antimetabolites
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Glôcôm là bệnh lý mạn tính của thần kinh thị
giác, đặc trưng bởi sự mất dần các tế bào hạch
võng mạc và các sợi trục của chúng. Glôcôm góc
mở là một hình thái của bệnh glôcôm với góc
tiền phòng mở rộng nhưng thủy dịch không lưu
thông được, dẫn tới tăng nhãn áp [4]. Theo
Hyun (2014) có khoảng 44,3 triệu người mắc
bệnh glôcôm góc mở nguyên phát, trong đó 23,5
triệu người là người Châu Á, tỉ lệ bệnh ở vùng
Đông Nam Á là 2,2% [6].
Hiện nay mọi phương pháp điều trị glôcôm,
đều nhằm mục tiêu là đưa nhãn áp, yếu tố nguy

vietnam medical journal n01 - APRIL - 2020
58
cơ hàng đầu và là yếu tố có thể can thiệp được,
về mức an toàn đối với thị thần kinh. Có 3
phương pháp chính làm hạ nhãn áp: điều trị nội
khoa, laser và phẫu thuật. Trong đó, điều trị nội
khoa bằng thuốc tra hạ nhãn áp được coi là sự
lựa chọn hàng đầu. Laser là phương pháp xuất
hiện sau nhưng ngày càng được chỉ định rộng rãi
hơn và trong một số trường hợp có thể sử dụng
như điều trị đầu tiên. Còn phẫu thuật thường là
phương pháp được lựa chọn cuối cùng sau khi
các phương pháp điều trị khác đều thất bại.
Ở Việt Nam, những năm gần đây đã có nhiều
tiến bộ mới về các phương pháp điều trị như
thuốc, laser, phẫu thuật nên việc điều trị glôcôm
góc mở tại bệnh viện Mắt Trung Ương có nhiều
thay đổi. Để đánh giá tình hình các phương pháp
điều trị glôcôm góc mở áp dụng tại khoa Glôcôm,
chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu
nhận xét về các phương pháp điều trị glôcôm góc
mở áp dụng tại khoa Glôcôm – bệnh viện Mắt
Trung Ương trong 5 năm (2014 – 2018).
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là bệnh nhân glôcôm
góc mở được điều trị nội trú tại khoa Glôcôm –
bệnh viện Mắt Trung Ương trong 5 năm từ năm
2014 đến hết năm 2018 có đầy đủ các thông tin
phục vụ cho nghiên cứu bao gồm bệnh nhân có
hồ sơ bệnh án được chẩn đoán là glôcôm góc mở
nguyên phát, glôcôm góc mở thứ phát điều trị nội
trú tại khoa Glôcôm với đầy đủ các tiêu chuẩn
chẩn đoán, giai đoạn bệnh (có số liệu chỉ số C/D
và/hoặc kết quả đánh giá thị trường)
Cách thức tiến hành:
thu thập hồ sơ bệnh
án được quản lý tại kho bệnh án bệnh viện Mắt
Trung Ương và lựa chọn những hồ sơ đạt tiêu
chuẩn nghiên cứu. Khai thác các thông tin trong
hồ sơ và ghi lại vào bệnh án nghiên cứu theo các
chỉ tiêu nghiên cứu:
- Điều trị trước khi vào viện: điều trị thuốc:
số lượng thuốc, laser, phẫu thuật.
- Phương pháp điều trị hiện tại
+ Điều trị thuốc: số lượng thuốc (điều trị 1
thuốc, 2 thuốc, 3 thuốc, 4 thuốc).
+ Điều trị laser: phương pháp laser (laser tạo
hình vùng bè, laser quang đông thể mi).
+ Điều trị phẫu thuật: phương pháp phẫu
thuật (cắt bè có hoặc không dùng chất chống
chuyển hóa, cắt củng mạc sâu có hoặc không
dùng chất chống chuyển hóa, đặt van dẫn lưu
tiền phòng, mở bè, sửa sẹo bọng).
- Liên quan giữa phương điều trị hiện tại và đặc
điểm bệnh lý glôcôm: tuổi, giai đoạn bệnh glôcôm.
- Liên quan giữa sử dụng chất chống chuyển
hóa trong phẫu thuật và tuổi, giới, nhãn áp vào viện.
Xử lý số liệu
bằng phần mềm thống kê y
học SPSS
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu trên 1398 mắt của 984 bệnh nhân
glôcôm góc mở điều trị nội trú tại khoa Glôcôm
trong thời gian từ tháng 1/2014 đến 12/2018.
Trước khi vào viện có 541 mắt chưa điều trị gì
chiếm 38,7%, điều trị thuốc đơn thuần có 657
mắt, chiếm tỷ lệ cao nhất (47,0%). Số mắt được
điều trị các phương pháp laser đơn thuần hoặc
phẫu thuật đơn thuần hoặc phối hợp các phương
pháp, chiếm tỷ lệ khá thấp là 14,3%.
Bảng 1. Tình hình điều trị trước khi vào viện
Phương pháp điều trị
Số mắt
(n)
Tỷ lệ
(%)
Chưa điều trị
541
38,7
Thuốc đơn thuần
Laser đơn thuần
Phẫu thuật đơn thuần
657
3
44
47,0
0,2
3,2
Thuốc + Laser
Thuốc + Phẫu thuật
Laser + Phẫu thuật
25
122
2
1,8
8,7
0,1
Thuốc+Laser+Phẫu thuật
4
0,3
Tổng
1398
100
Trong số 808 mắt được điều trị trước khi vào
viện bằng thuốc, có 243 mắt được điều trị 3
thuốc chiếm tỷ lệ cao nhất là 30,1%, có 225 mắt
được điều trị 2 thuốc chiếm 27,9%, điều trị 1
thuốc và 4 thuốc lần lượt là 157 và 161 mắt
chiếm 19,4% và 19,9%.
Bảng 2. Phân bố mắt theo số thuốc đã
sử dụng
Số nhóm thuốc
Số mắt
n
%
1 thuốc
157
19,4
2 thuốc
225
27,9
3 thuốc
243
30,1
4 thuốc
161
19,9
Khác
22
2,7
Tổng
808
100
Sau khi nhập viện viện, đa số mắt được điều
trị phẫu thuật: 1079 mắt chiếm tỷ lệ cao nhất
(77,2%), trong đó có 277 mắt được phối hợp thay
thể thủy tinh. Có 266 mắt điều trị thuốc chiếm
19,0%. Chỉ có 53 mắt điều trị laser (18 mắt laser
tạo hình vùng bè và 35 mắt quang đông thể mi)
chiếm 3,8%, trong đó có 12 mắt phải điều trị
thêm thuốc tra hạ nhãn áp khi ra viện. Qua 5 năm
(2014 – 2018), nhìn chung tỷ lệ điều trị phẫu
thuật có xu hướng tăng nhẹ, từ 70,7% năm 2014
tăng lên 83,9% năm 2015, và giữ khá ổn định ở
năm 2016 – 2018 với tỷ lệ 75,8% – 78,8%. Tỷ lệ
điều trị thuốc có xu hướng giảm nhẹ, từ 26,5%
năm 2014 xuống 12,8% năm 2015, và giữ khá ổn

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 489 - THÁNG 4 - SỐ 1 - 2020
59
định ở năm 2016 – 2018 với tỷ lệ 18,1% –
19,7%. Điều trị laser có tỷ lệ khá thấp, dao động
trong khoảng 2,8% – 4,8%.
Biểu đồ 1. Phương pháp điều trị qua các năm
Các phẫu thuật lỗ dò vẫn là phẫu thuật thông
dụng nhất. Tỷ lệ điều trị phẫu thuật cắt củng
mạc sâu có xu hướng tăng, từ 24,6% năm 2014
tăng lên 40,2% năm 2018. Tỷ lệ phẫu thuật cắt
bè có xu hướng giảm, từ 70,3% năm 2014 giảm
xuống 57,4% năm 2018.
70.7
83.9 78.8 75.8 77.1
26.5 12.8 18.1 19.7 18.1
2.8 3.3 3.1 4.5 4.8
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
2014 2015 2016 2017 2018
Phẫu thuật Thuốc Laser
Biểu đồ 2. Phương pháp phẫu thuật áp
dụng qua các năm
Thuốc chống chuyển hóa cũng được áp dụng
thường quy hơn. Tỷ lệ điều trị phẫu thuật có
dùng chất chống chuyển hóa có xu hướng tăng
đều qua các năm, từ 33,1% năm 2014 tăng lên
51,3% năm 2018.
70.3 52.7 55.8 63.9 57.4
24.6 43.3 38.8 31.9 40.2
5.1 45.4 4.2 2.4
0%
20%
40%
60%
80%
100%
2014 2015 2016 2017 2018
Phẫu thuật cắt bè Phẫu thuật cắt CMS
Phẫu thuật đặt van DLTP
Biểu đồ 3. Tình hình phẫu thuật sử dụng
chất chống chuyển hóa qua các năm
Tỷ lệ điều trị phẫu thuật của nhóm bệnh giai
đoạn cuối cao nhất là 83,9%, của nhóm giai đoạn
trầm trọng là 81,7%, nhóm ở giai đoạn tiến triển
là 72,2% và nhóm ở giai đoạn sơ phát là 52,8%.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
66.9 62.7 61.8 58 48.7
33.1 37.3 38.2 42 51.3
0%
20%
40%
60%
80%
100%
2014 2015 2016 2017 2018
Phẫu thuật có dùng chất CCH
Phẫu thuật không dùng chất CCH
Bảng 3. Mối liên quan giữa giai đoạn bệnh và phương pháp điều trị
Điều trị hiện tại
Tổng
p
Thuốc
Laser
Phẫu thuật
Giai
đoạn
bệnh
glôcôm
Sơ phát
49(45,4%)
2(1,8%)
57(52,8%)
108(100,0%)
0,00
Tiến triển
97(24,7%)
12(3,1%)
283(72,2%)
392(100,0%)
Trầm trọng
102(15,7%)
17(2,6%)
531(81,7%)
650(100,0%)
Cuối
18(7,2%)
22(8,9%)
208(83,9%)
248(100,0%)
Tổng
266(19,0%)
53(3,8%)
1079(77,2%)
1398(100,0%)
Độ tuổi trung bình của nhóm phẫu thuật có sử dụng chất chống chuyển hóa là 39,1 ± 18,0 thấp
hơn nhóm phẫu thuật không sử dụng chất chống chuyển hóa là 58,9 ± 16,1 tuổi. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,05). Tỷ lệ phẫu thuật có sử dụng chất chống chuyển hóa ở nam là 43,8% và ở
nữ là 37,5%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Nhãn áp trung bình lúc vào viện ở nhóm
phẫu thuật có sử dụng chất chống chuyển hóa là 27,6 ± 6,1 mmHg cao hơn nhóm phẫu thuật không
sử dụng chất chống chuyển hóa là 25,8 ± 5,8 mmHg. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Bảng 4. Mối liên quan giữa một số yếu tố và phẫu thuật có sử dụng chất chống chuyển hóa
Phẫu thuật có sử
dụng chất CCH
Phẫu thuật không
sử dụng chất CCH
Tổng
n (%)
p
Tuổi (
X
± SD)
39,1 ± 18,0
58,9 ± 16,1
0,00
Giới
Nam
250(43,8%)
321(56,2%)
571(100,0%)
0,04
Nữ
167(37,5%)
278(62,5%)
445(100,0%)
Nhãn áp vào viện
mmHg(
X
± SD)
27,6 ± 6,1
25,8 ± 5,8
0,00

vietnam medical journal n01 - APRIL - 2020
60
IV. BÀN LUẬN
Cho đến nay, điều trị bệnh glôcôm góc mở vẫn
thường được bắt đầu bằng sử dụng thuốc tra hạ
nhãn áp, điều trị laser hoặc phẫu thuật chỉ thực
hiện khi điều trị thuốc không hiệu quả hoặc người
bệnh không dùng được thuốc do tác dụng phụ,
do điều kiện kinh tế. Chính vì vậy, phần lớn bệnh
nhân trong nhóm nghiên cứu đều đã được điều trị
bệnh glôcôm trước khi vào viện, chiếm 61,3%.
Trong đó, tỷ lệ đã sử dụng thuốc hạ nhãn áp đơn
thuần là cao nhất, tới 47,0%. Số mắt đã được
điều trị laser hoặc phẫu thuật không nhiều
(14,3%). Bên cạnh đó, có những bệnh nhân mặc
dù đã điều trị laser và phẫu thuật nhưng vẫn phải
bổ sung thêm thuốc tra hạ nhãn áp.
Trong nghiên cứu này có 541 mắt (38,7%)
chưa được điều trị trước khi vào viện. Giai đoạn
bệnh của nhóm này cũng tới gần 60% ở giai
đoạn trầm trọng và giai đoạn cuối, giai đoạn tiến
triển chiếm 33,1% và chỉ có 7,6% còn ở giai
đoạn sớm. Điều này cho thấy việc phát hiện và
điều trị sớm bệnh glôcôm góc mở còn rất nhiều
khó khăn. Ở nhóm bệnh nhân đã điều trị thuốc
có 808/1398 mắt (57,8%), đa phần đều phải
dùng từ 2 thuốc tra hạ nhãn áp trở lên (80,6%),
trong đó tỷ lệ sử dụng 3 loại thuốc chiếm tỷ lệ
cao nhất (30,1%). So sánh với nghiên cứu của
các tác giả khác, tỷ lệ dùng thuốc trong nghiên
cứu của chúng tôi tương tự với nghiên cứu của
Phạm Thị Thu Hà (2009) có tỷ lệ điều trị thuốc là
58,8% và thấp hơn của Đỗ Khánh Hà (2017) có
tỷ lệ mắt điều trị thuốc là 82,2%, trong đó số
mắt sử dụng 1 thuốc, 2 thuốc chiếm tỷ lệ cao
nhất, lần lượt là 36,4% và 21,7% [3],[2]. Điều
này có thể là do đối tượng nghiên cứu của chúng
tôi ở giai đoạn nặng hơn. Mặt khác, do bệnh
glôcôm góc mở, thường có triệu chứng nghèo
nàn, bệnh nhân không phát hiện ra bệnh, hoặc
bệnh nhân có điều trị nhưng không tuân thủ tốt
và không theo dõi định kỳ nên có tỷ lệ lớn bệnh
nhân chưa được điều trị hoặc mới điều trị,
nhưng bệnh đã ở giai đoạn nặng, vì vậy phần
lớn cần phải vào viện để can thiệp phẫu thuật.
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên đối
tượng bệnh nhân điều trị nội trú, do vậy ở thời
điểm hiện tại, phần lớn bệnh nhân đều được lựa
chọn điều trị phẫu thuật (77,2%), chỉ 3,8% chỉ
định điều trị laser và 19,0% được sử dụng thuốc
hạ nhãn áp.
Phân tích tình hình điều trị qua 5 năm, chúng
tôi nhận thấy nhìn chung tỷ lệ phẫu thuật của
bệnh nhân glôcôm góc mở điều trị nội trú tại
khoa Glôcôm – bệnh viện Mắt Trung Ương có
chiều hướng tăng nhẹ, tuy nhiên không đồng
đều giữa các năm. Năm 2014, nhóm điều trị
phẫu thuật là 70,7%, tăng lên 83,9% ở năm
2015 và từ năm 2016 đến 2018 dao động trong
khoảng 75,8% – 78,8%. Ngược lại, tỷ lệ điều trị
thuốc có xu hướng giảm nhẹ, từ 26,5% năm
2014 xuống 12,8% năm 2015 và dao động
18,1% – 19,7% trong những năm 2016 – 2018.
Số bệnh nhân được chỉ định laser vẫn chưa
nhiều trong suốt 5 năm theo dõi. Khác với
nghiên cứu của Lin (2015) về sự thay đổi điều trị
glôcôm từ năm 1997 đến năm 2007 tại Đài Loan
cho thấy tỷ lệ phẫu thuật có xu hướng giảm nhẹ.
Tác giả cho rằng tỷ lệ phẫu thuật giảm như vậy
là do sự phát triển của các loại thuốc tra hạ nhãn
áp mới như latanoprost (1999), brimonidine
(2000), brinzolamide (2001), travoprost (2002),
bimatoprost (2002) cùng với sự xuất hiện của
các thuốc kết hợp cố định giúp cho việc tuân thủ
điều trị của người bệnh tốt hơn. Mặt khác, số
lượng bác sĩ nhãn khoa tăng lên hơn 2 lần trong
khoảng thời gian từ năm 1997 đến năm 2007,
nhiều bác sĩ nhãn khoa tại cộng đồng đã giúp
cho việc phát hiện và chăm sóc sức khỏe của
người bệnh được tốt hơn, phát hiện được bệnh
từ giai đoạn sớm [5].
Về phương pháp phẫu thuật, theo dõi qua 5
năm cho thấy tỷ lệ phẫu thuật cắt củng mạc sâu
tăng dần, từ 24,6% năm 2014 lên tới 40,2%
năm 2018. Đồng thời, nhìn chung phẫu thuật cắt
bè được lựa chọn giảm dần, từ 70,3% năm 2014
xuống còn 57,4% vào năm 2018. Cắt củng mạc
sâu là phương pháp pháp phẫu thuật không
xuyên thủng, ra đời từ những năm 90 của thế kỷ
trước, cùng với những cải tiến về kỹ thuật đã
giúp hạ nhãn áp rất hiệu quả và khắc phục được
các biến chứng của phẫu thuật cắt bè. Kết quả
của chúng tôi tương tự với kết quả của Phạm Thị
Thu Hà (2009), đánh giá điều trị glôcôm góc mở
trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2008 tại
bệnh viện Mắt Trung Ương có tỷ lệ phẫu thuật
cắt củng mạc sâu tăng dần [3]. Ngày nay, sử
dụng các chất chống tăng sinh xơ như thuốc
5FU, Mitomycin C, chất độn Collagen nhằm làm
giảm tỷ lệ thất bại của phẫu thuật glôcôm ngày
càng trở nên phổ biến. Điều này thể hiện rõ
trong nghiên cứu của chúng tôi, theo dõi qua 5
năm, tỷ lệ phẫu thuật sử dụng chất chống
chuyển hóa tăng đều qua các năm, từ 33,1%
năm 2014 lên 51,3% năm 2018.
Về liên quan của giai đoạn bệnh glôcôm, kết
quả cũng cho thấy có sự liên quan khá rõ rệt với
việc lựa chọn phương pháp phẫu thuật. Mặc dù,
việc điều trị bằng thuốc hạ nhãn áp có thể thực
hiện được với bệnh nhân ngoại trú nên phần

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 489 - THÁNG 4 - SỐ 1 - 2020
61
đông các bệnh nhân điều trị nội trú được chỉ
định phẫu thuật nhưng nghiên cứu vẫn thấy
rằng tỷ lệ điều trị thuốc ở nhóm bệnh nhân giai
đoạn sơ phát (45,4%) cao hơn hẳn các giai đoạn
bệnh tiến triển cũng như trầm trọng với tỷ lệ lần
lượt là 24,7% và 15,7%. Trái lại, chỉ định phẫu
thuật gặp nhiều hơn ở những mắt giai đoạn
bệnh nặng so với giai đoạn sớm. Tỷ lệ phẫu
thuật cao nhất ở nhóm bệnh glôcôm giai đoạn
cuối (83,9%) và thấp nhất ở giai đoạn sơ phát,
chiếm 52,8%.
Đối với việc quyết định phương pháp phẫu
thuật có hay không dùng chất chống chuyển hóa
cho người bệnh, chúng tôi thấy rằng nhóm được
chỉ định có dùng chất chống chuyển hóa có độ
tuổi trung bình là 39,1 ± 18,0 thấp hơn nhóm
không dùng chất chống chuyển hóa (58,9 ± 16,1
tuổi). Ở những bệnh nhân trẻ quá trình tăng sinh
xơ thường phát triển mạnh nên việc sử dụng chất
chống chuyển hóa giúp tăng hiệu quả của phẫu
thuật nhờ kéo dài thời gian duy trì bọng thấm.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ phẫu thuật của bệnh nhân glôcôm góc
mở điều trị nội trú tại khoa Glôcôm – bệnh viện
Mắt Trung Ương có chiều hướng tăng nhẹ, tuy
nhiên không đồng đều giữa các năm, tỷ lệ phẫu
thuật cắt củng mạc sâu tăng dần, từ 24,6% năm
2014 lên tới 40,2% năm 2018 và tỷ lệ phẫu
thuật sử dụng chất chống chuyển hóa tăng đều
qua các năm, từ 33,1% năm 2014 lên 51,3%
năm 2018.
Có sự liên quan khá rõ rệt với việc lựa chọn
phương pháp phẫu thuật: ở giai đoạn nhẹ phác
đồ điều trị chung là thay đổi hoặc thêm thuốc hạ
nhãn áp, còn ở giai đoạn nặng bệnh nhân sẽ
được áp dụng phẫu thuật hạ nhãn áp; sử dụng
chất chống chuyển hóa trong phẫu thuật thường
được thực hiện ở nhóm bệnh nhân trẻ tuổi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Thị Dịu (2017). Đặc điểm lâm sàng, cận lâm
sàng của bệnh nhân glôcôm góc mở nguyên phát
có cận thị nặng, Luận văn Thạc sĩ y học, Trường
Đại học Y Hà Nội.
2. Đỗ Khánh Hà (2017). Nhận xét tình hình bệnh
nhân glôcôm điều trị ngoại trú tại phòng khám
Dixpanse - Khoa Glôcôm - Bệnh viện Mắt Trung
Ương, Khóa luận tốt nghiệp Bác sĩ y khoa, Trường
Đại học Y Hà Nội.
3. Phạm Thị Thu Hà (2009). Đánh giá tình hình
điều trị Glôcôm góc mở tại khoa Glôcôm - bệnh
viện Mắt Trung ương trong 5 năm (2004 - 2008),
Luận văn Thạc sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
4. Mahabadi N., Foris L.A, Tripathy K. (2019). Open
Angle Glaucoma. StatPearls, Treasure Island (FL).
5. Lin J.C (2015). The use of ocular hypotensive drugs
for glaucoma treatment: changing trend in Taiwan
from 1997 to 2007. J Glaucoma, 24(5), 364-71.
6. Bron A.M, Mariet A.S, Benzenine E. et al
(2017). Trends in operating room-based
glaucoma procedures in France from 2005 to 2014:
a nationwide study. Br J Ophthalmol, 101(11),
1500-1504.
7. Murphy C., Ogston S., Cobb C. et al (2015).
Recent trends in glaucoma surgery in Scotland,
England and Wales. Br J Ophthalmol, 99(3), 308-12.
8. Kerr N.M, Kumar H.K, Crowston J.G et al
(2016). Glaucoma laser and surgical procedure rates
in Australia. Br J Ophthalmol, 100(12), 1686-1691.
KHẢO SÁT NGUYÊN NHÂN TỬ VONG THEO MÃ BỆNH ICD-X
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN LONG BIÊN – HÀ NỘI NĂM 2018
Nguyễn Thị Thanh Hương1, Nguyễn Minh Quốc2
TÓM TẮT17
Đặt vấn đề: Nguyên nhân tử vong theo nhóm
tuổi, giới và theo bệnh giúp các nhà quản lý y tế có
biện pháp can thiệp nhằm tăng cường sức khỏe và
tuổi thọ của người dân nhằm thực hiện mục tiêu quốc
gia về tuổi thọ và chất lượng cuộc sống. Mục tiêu của
nghiên cứ là chỉ ra đặc điểm nguyên nhân tử vong
theo lứa tuổi, nhóm bệnh, giới tại quận Long Biên
nhằm đưa ra giải pháp khuyến cáo, tuyên truyền cho
1Trường Đại học Dược Hà Nội,
2Trung tâm y tế quận Long Biên, Hà Nội;
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Thanh Hương
Email: thanhhuong.duochn@gmail.com
Ngày nhận bài: 3.2.2020
Ngày phản biện khoa học: 23.3.2020
Ngày duyệt bài: 30.3.2020
người dân trên địa bàn quận trong việc nâng cao tuổi
thọ và phòng ngừa các bệnh có nguy cơ tử vong cao.
Đối tượng và phương pháp: Người dân tử vong
trên địa bàn quận Long Biên từ 1/1/2018-31/12/2018
gồm 938 người của 14 phường. Phương pháp nghiên
cứu: mô tả cắt ngang. Phương pháp thu thập số liệu:
hồi cứu số liệu sẵn có và phỏng vấn hộ gia đình. Kết
quả: 237 người tử vong do bệnh hệ tuần hoàn
(25,3%); 195 người tử vong do ung thư (20,8%). 6
trẻ dưới 1 tuổi tử vong, nguyên nhân tử vong chủ yếu
do bệnh lý thời kỳ chu sinh (3/6). Tự tử và tai nạn
giao thông là nguyên nhân tử vong chỉ có ở nhóm từ
15 đến 49 tuổi (13 người). Bệnh không lây nhiễm có
tỷ lệ tử vong cao (64,61%). Kết luận: Bệnh không lây
nhiễm có tỷ lệ tử vong cao trong đó có bệnh hệ tuần
hoàn và ung thư. Tỷ lệ tử vong có sự khác nhau giữa
các nhóm tuổi, giới.