Tạp chí Khoa học, Tập 1, Số 1/2022
105
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BẢO TỒN, KHAI THÁC VÀ PHÁT TRIỂN
CÁC GIỐNG GÀ BẢN ĐỊA
Trần Thị Cúc1,*, Châu Thị Tâm1
1Trường Đại học Kinh tế Nghệ An, * Email: tranthicuc2502@gmail.com
Tóm tắt: Thực tiễn cho thấy các giống bản địa năng suất thấp nhưng chất lượng
lại rất phù hợp với thói quen văn hóa, khẩu vị của người Việt Nam. Chăn nuôi bản địa
hiện nay đang được quan tâm bởi khả năng thích nghi cao, phù hợp với tập quán, văn hóa
và phương thức chăn nuôi; hơn nữa chất lượng thịt gà ngon, quí hiếm nên có giá cao, ít biến
động và rất phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng có thu nhập cao. Chăn nuôi, phát triển
các giống gà bản địa cũng góp phần vào việc bảo tồn nguồn gen vật nuôi, bảo tồn sự đa dạng
sinh học của môi trường. Nhiều quốc gia trên thế giới đã các hành động tích cực trong việc
chăn nuôi, phát triển các giống gà bản địa của nước mình. vậy, phát triển các giống gà bản
địa để trở thành hàng hóa có giá trị cao đang là một xu hướng chăn nuôi.
Từ khóa: Gà bản địa, chăn nuôi, bảo tồn, khai thác.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăn nuôi vai trò quan trọng trong
hệ thống sản xuất nông nghiệp Việt Nam.
Trong đó, chăn nuôi gia cầm chiếm vị trí
quan trọng thứ hai (sau chăn nuôi lợn) trong
ngành chăn nuôi Việt Nam, hàng năm cung
cấp 1,920.2 ngàn tấn thịt hơi, chiếm 28.5%
tổng sản lượng thịt ngành chăn nuôi; đồng
thời cung cấp thường xuyên bền vững
nguồn thực phẩm dinh dưỡng khá hoàn
chỉnh cho đại bộ phận người Việt (17,6 tỷ
quả trứng/năm) (Tổng cục thống kê, 2021).
Song song với phát triển chăn nuôi
theo hướng thâm canh năng suất cao tại các
trang trại công nghiệp, chăn nuôi trong
nông hộ xu hướng phát triển. Những năm
gần đây việc sưu tầm, bảo tồn, nhân giống
phát triển các giống gà địa phương trong
nước được nhiều người quan tâm. Chăn
nuôi bản địa hiện nay đang được các nhà
quản quan tâm bởi khả năng thích nghi
cao với điều kiện khí hậu, phù hợp với tập
quán, văn hóa phương thức chăn nuôi;
hơn nữa, chất lượng thịt cao, quý hiếm
nên có giá cao, ít biến động và rất phù hợp
với thị hiếu của người tiêu dùng thu
nhập cao. Ngoài ra, chăn nuôi bản địa
còn ý nghĩa bảo vệ sự đa dạng sinh học
đa dạng di truyền, giúp cho ngành chăn
nuôi của Việt Nam phát triển bền vững.
Do vậy, bài báo này nhằm tìm hiểu về việc
chăn nuôi, bảo tồn một số giống gà bản địa
tại Việt Nam.
2. NỘI DUNG
2.1. Tình hình nghiên cứu bảo tồn,
khai thác phát triển các giống bản
địa trong nước
2.1.1. Các giống bản địa các địa
phương
Ri giống phổ biến nhất nước ta
phân bố rộng rãi trong cả nước. Ri
tầm vóc nhỏ, thân hình thanh tú, nhỏ xương,
thịt thơm ngon.
Trường Đại học Kinh tế Nghệ An
106
Đông Tảo hay còn gọi Đông
Cảo, mang tên thôn Đông Cảo, xã Đông Tảo
huyện Khoái Châu (nay gọi huyện Châu
Giang) tĩnh Hưng Yên. Gà Đông Tảo có tầm
vóc tương đối to.
Mía nguồn gốc làng Miu,
Đường Lâm, huyện Tùng Thiện, nay
huyện Ba Vì, tỉnh Tây (cũ). Mía
tầm vóc tương đối lớn, ngoại hình thô, đi lại
chậm chạp.
Tre nguồn gốc từ các tỉnh Nam
Bộ, vóc dáng nhỏ, thịt thơm ngon. Sáu tháng
tuổi, con trống nặng 800-850g, con mái nặng
600-620g.
Hồ còn được gọi Đông Hồ hay Tổ.
Chúng có nguồn gốc từ làng Hồ, nay làng
Lạc Thổ, Song Hồ, huyện Thuận Thành,
tỉnh Bắc Ninh. Hồ tầm vóc tương đối
lớn, ngoại hình thô, đi lại chậm chạp.
Ác được thuần dường phát triển
đầu tiên các tỉnh TVinh, Long An, Kiên
Giang... Đặc điểm ngoại hình: thân hình nhỏ,
nhẹ, thịt xương màu đen, lông trắng tuyền
như bông.
H’mong vật nuôi truyền đời của
đồng bào Dao, H’Mong, Nùng,… ở các tỉnh
miền núi phía Bắc. Đặc điểm nổi bật bộ
lông pha tạp như nâu, hoa vàng sẫm…
nhưng chủ yếu là màu đen.
Chọi có số lượng không nhiều, rải rác
nhiều nơi, thường tồn tại chủ yếu ở những địa
phương truyền thống chơi chọi gà như Hà
Nội, Bắc Ninh, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh.
Gà Móng là giống hiện được nuôi nhiều
tại xã Tiên Phong, huyện Duy Tiên, tỉnh
Nam. Khi trưởng thành trống lông màu
nâu đỏ, đỏ tía (màu mã lĩnh), gà mái có lông
màu nâu nhạt (màu lá chuối khô).
Liên Minh một giống bản địa
nguồn gốc từ thôn Liên Minh, Trân
Châu, huyện Cát Hải thành phố Hải Phòng
từ rất lâu đời.
Lạc Thủy một trong các giống đã
được thuần hóa phát triển lâu đời cùng với
đời sống của người dân huyện Lạc Thủy,
tỉnh Hòa Bình.
2.1.2. Các chính sách bảo tồn của nhà
nước, của các tỉnh
Những năm gần đây việc khai thác
nguồn gen bản địa đã được ngành nông
nghiệp quan tâm nhiều, các giống vật nuôi
hiếm hoi của các cộng đồng người dân tộc
thiểu số được đầu tư để phát triển.
Thấu hiểu sâu sắc hiểm hoạ đối với các
giống vật nuôi bản địa, sự tuyệt chủng của
nhiều giống vật nuôi địa phương, những
giống tuy năng suất thấp nhưng mang những
đặc điểm quý giá như thơm ngon, chịu đựng
dinh dưỡng thấp, thích nghi với điều kiện
sinh thái. Bộ Khoa học Công nghệ Bộ
Nông nghiệp Phát triển Nông thôn đã
nhiều chính sách, triển khai các đề án Bảo
tồn nguồn gen vật nuôi Việt Nam bảo tồn các
giống vật nuôi bản địa, cụ thể trong những
năm gần đây gồm có:
Năm 2010, Bộ Khoa học Công nghệ
đã ban hành thông số 18/TT-BKHCN ngày
24/12/2010 đã quy định việc quản nhiệm
vụ khoa học công nghệ về quỹ gen. Từ khi
triển khai thông tư này đến nay Bộ Khoa học
và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn đã phê duyệt chương trình khai
thác phát triển nguồn gen vật nuôi, với
mục tiêu tạo ra được đàn hạt nhân, đàn sản
xuất con thương phẩm cùng với các quy
trình kỹ thuật kèm theo để phát triển rộng rải
sản phẩm vật nuôi bản địa vào sản xuất.
Tạp chí Khoa học, Tập 1, Số 1/2022
107
Ngày 28/9/2015 Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 1671/QĐ-TTg phê
duyệt Chương trình bảo tồn sử dụng bền
vững nguồn gen đến năm 2025 định hướng
đến năm 2030 với nhiều quan điểm, trong đó
việc đẩy mạnh ứng ứng dụng khoa học
công nghệ (KH&CN) hiện đại kết hợp hài hòa
với tri thức truyền thống trong bảo tồn sử
dụng bền vững nguồn gen. Sau gần 10 năm
triển khai thực hiện Quyết định số 1671/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ, đến nay công
tác bảo tồn nguồn gen đã được quan tâm phát
triển, đặc biệt một số nguồn gen vật nuôi đã
triển khai thành hàng hóa bảo tồn bền vững
(Phạm Công Hoạt & cs., 2022).
Ngoài ra còn có một số chính sách khác
như: Quyết định số 1520/QĐ-TTg ngày
06/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt “Chiến lược phát triển chăn nuôi giai
đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2045”; Quyết
định số 2157/QĐ-UBND ngày 24/8/2020
của tỉnh Thừa Thiên Huế phê duyệt Đề
án khung các nhiệm vụ bảo tồn nguồn
gen tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2021-
2025”; Quyết định số 5040/QĐ-UBND ngày
11/11/2020 của thành phố Nội phê duyệt
“Đề án khung nhiệm vụ khoa học công
nghệ về quỹ gen cấp thành phố thực hiện
trong giai đoạn 2021 - 2025”…
Từ đó thể khẳng định, các giống vật
nuôi một bộ phận quan trọng của đa dạng
sinh học, nó là tài sản quý giá hiện đang phát
huy ý nghĩa kinh tế như là giống thuần thích
nghi với điều kiện sinh thái địa phương đồng
thời còn là nguyên liệu phục vụ cho công tác
lai tạo giống. vậy, các chính sách do nhà
nước, các tỉnh đưa ra hết sức kịp thời nhằm
giảm thiểu sự tuyệt chủng của nhiều giống
vật nuôi địa phương nói chung và các giống
gà bản địa nói riêng.
2.1.3. Kết quả nghiên cứu, khai thác
phát triển các giống gà bản địa
Với mục tiêu của đề án “bảo tồn nguồn
gen vật nuôi quốc gia” bảo tồn để khai thác
phát triển. Trong những năm gần đây sau
khi được nuôi giữ bảo tồn, một số giống
bản địa đã được đưa vào khai thác, phát
triển và đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho
người dân.
Sau giai đoạn đầu tư kinh phí bảo tồn, gà
H’mong đã được chọn lọc phát triển. Đến năm
2004, đã thực hiện thành công 4 mô hình chăn
nuôi sinh sản 5 hình nuôi thương
phẩm H’mong các tỉnh Nội, Sơn La,
Vĩnh Phúc (Phạm Công Thiếu và cs, 2004).
Giống Hồ cũng đã được bảo tồn chọn
lọc nhằm bảo tồn một cách bền vững thông
qua chương trình hợp tác song phương với
vương quốc Bỉ giai đoạn 2013 - 2015. Kết
quả đã tạo ra được đàn hạt nhân 4 thế hệ
với tổng số quần thể 240 con tại 20 nông
hộ (Nguyễn Văn Duy, 2013).
Một số các nghiên cứu khác của các tác
giả góp phần vào khai thác phát triển các
giống bản địa như: Các giống Mía,
Móng, Đông Tảo, Chọi, Tre, Liên Minh
cũng đã được nghiên cứu một cách bài bản
trong chương trình quỹ gen cấp nhà nước từ
năm 2012 đến năm 2017. (Ngô Thị Kim Cúc,
2016; Lê Thị Thu Hiền, 2016; Vũ Công Quý
cs., 2017). Ngọc Sơn (2015) nghiên
cứu nhân thuần, chọn lọc bảo tồn Lạc
Thủy theo phương thức nuôi nhốt. Kết quả
của các nghiên cứu đã đưa ra được các chỉ
tiêu về khả năng sinh trưởng khả năng
sinh sản của các giống gà, góp phần cung cấp
dữ liệu cho việc nhân giống và bảo tồn.
Về khai thác phát triển nguồn gen:
các đề tài khai thác phát triển nguồn gen
Trường Đại học Kinh tế Nghệ An
108
đã đang thực hiện trên gia cầm gồm:
Mía Móng (2011-2015); vịt Bầu Bến,
vịt Đốm, vịt Kỳ Lừa, vịt Mốc, gà Đông Tảo,
Tre, Chọi (2012-2015); (2012-
2014); Liên Minh, Tiên Yên, Cu
Roang (2013-2016); vịt Cổ Lũng, Cáy
Củm, Tai đỏ, Hắc Phong
(2014-2017); Lạc Thủy, Kiến vịt Sín
Chéng (2016-2020); vịt Hòa Lan, Xước
ngan Sen (2017-2020); Lạc Sơn và gà
nhiều ngón (2018-2021). Nhóm các dự án
sản xuất thử nghiệm đang thực hiện trên các
đối tượng: gà Cáy Củm, gà Liên Minh, ngan
Trâu, vịt Minh Hương (2019-2022); Hắc
Phong, Tai đỏ, vịt Cổ Lũng (bắt đầu từ
2020)… (Phạm Công Hoạt & cs., 2022).
2.1.4. Đánh giá tình hình nghiên cứu
về bảo tồn, phát triển các giống gà bản địa
trong tương lai
Nhiệm vụ khai thác phát triển nguồn
gen vật nuôi giai đoạn vừa qua đã góp
phần phục tráng, hoàn thiện việc đánh giá
bổ sung một số đặc điểm như di truyền,
ngoại hình, đặc tính sinh học, sinh sản, dinh
dưỡng, thương phẩm, phân bố khả năng
phát triển nhân rộng của nhiều nguồn gen
vật nuôi quý hiếm. Các nhiệm vụ khai thác
phát triển nguồn gen vật nuôi đều cho
kết quả tốt, được ứng dụng hiệu quả vào
đời sống. Các đề tài nghiên cứu đã chọn lọc
được đàn hạt nhân mang các đặc trưng của
giống dựa trên các tiêu chuẩn sở xây
dựng được một số quy trình chăn nuôi phù
hợp với từng đối tượng vật nuôi. Hiện nay,
các dự án sản xuất thử nghiệm với sự tham
gia của doanh nghiệp đã được tiến hành
nhằm hoàn thiện các quy trình chăm sóc,
nuôi dưỡng phù hợp với thực tế xây dựng
các hình sản xuất thương phẩm, góp
phần phát triển kinh tế - hội, tạo công
ăn việc làm và tăng thu nhập cho người dân
(Phạm Công Hoạt & cs., 2022).
Hiện nay, trong bối cảnh của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, để bảo tồn
nguồn gen quý, các nhà khoa học trên thế
giới đã kêu gọi cách tiếp cận mới ứng dụng
kết hợp công nghệ tin học, công nghệ sinh
học. Xu hướng tiếp cận này tập trung vào
5 bước chính: (i) Thiết lập ngân hàng mẫu
sinh học (BioBanking) để lưu trữ tế bào, mô,
phôi, tinh, trứng… của sinh vật nguy cấp,
làm nguyên liệu phục hồi về sau; (ii) Giải
trình tự bộ gen sinh vật để hiểu tường tận bản
chất nguồn gen quý của sinh vật cần bảo tồn
phát triển; (iii) Sinh tổng hợp các hợp chất
thay thế cho các chất hoạt tính sinh học
lấy từ động vật hoang dã quý hiếm; (iv) Ứng
dụng kỹ thuật sinh sản mới để tạo dòng, thúc
đẩy nhanh quá trình sinh sản tạo con non mới
sinh vật nguy cấp; (v) Thay đổi di truyền
bằng cách sử dụng các kỹ thuật cải biến di
truyền từ mức độ gen đến mức độ bộ gen để
phá vỡ thế cân bằng giới tính 1:1 giúp quần
thể sinh vật quý hiếm có cơ hội phát triển tốt
hơn (Phạm Công Hoạt & cs., 2022).
Một số mối đe dọa đến các giống
bản địa Việt Nam như: Sự lấn át quá mạnh
của ngành chăn nuôi công nghiệp; thiên
tai dịch họa; bệnh tật; nguy cơ lai tạp; nguy
cơ giảm sự đa dạng. Trong các Nhưng nguy
lớn nhất vẫn sự cạnh tranh về giá cả
so với công nghiệp, giá thường gấp hai
hoặc ba lần so với gà công nghiệp (Võ Văn
Sự & cs., 2018).
Việc bảo tồn phát triển các giống
bản địa trong tương lai cấp thiết phù hợp
với xu thế phát triển của trên thế giới lẫn
Việt Nam. Do đó, cơ quan nhà nước, các nhà
khoa học, doanh nghiệp người dân cần
Tạp chí Khoa học, Tập 1, Số 1/2022
109
quan tâm, đầu tư để có hướng phát triển phù
hợp từng vùng sinh thái, từng địa phương
trong thời gian tới.
3. KẾT LUẬN
Từ các nghiên cứu trên của các nhà
nghiên cứu cho thấy nguồn gen các giống gà
bản địa tiềm năng cải tiến về di truyền
qua các thế hệ; cùng với những đòi hỏi của
phát triển kinh tế bảo vệ môi trường, vấn
đề bảo vệ sinh thái và tài nguyên môi trường
nổi lên như một thách thức đối với từng quốc
gia cũng như cả nhân loại. Bảo vệ nguồn gen
vật nuôi gắn liền với bảo vệ tính đa dạng sinh
học không những là một trong những nhiệm
vụ cấp bách hàng đầu của các ngành, cấp liên
quan mà còn là của toàn xã hội.
Cần phải gắn công tác bảo tồn với việc
khai thác và phát triển nguồn gen hai giống
trên một cách hiệu quả để khai thác
lai tạo ra các đàn thương phẩm trong tương
lai nhằm tạo thêm sản phẩm cho tiêu dùng
của hội giữ được sự đa dạng nguồn
gen vật nuôi Việt Nam nói riêng sự đa
dạng sinh học cũng như phát triển một nền
nông nghiệp sinh thái bền vững nói chung
ở nước ta góp phần sử dụng nguồn gen một
cách hiệu quả và tăng tính hàng hóa sản
phẩm của chúng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thị Thu Hiền, (2016). Báo cáo tổng kết kết quả khoa học và công nghệ của đề tài:
Khai thác, phát triển nguồn gen đặc sản: Đông Tảo, Chọi, Tre. Bộ Khoa học
Công Nghệ.
2. Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Công Định, Thị Thu Hiền, Vũ Chí Thiện, Trần Trung
Thông, Nguyễn Hữu Cường, Phạm Công Thiếu, (2016). Chọn lọc nhân thuần
Mía và gà Móng. Tạp chí Khoa học công nghệ Chăn nuôi số 61 tháng 03/2016.
3. Nguyễn Văn Duy, (2013). Khả năng sinh sản của Hồ nuôi trong nông hộ tại
huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh. Luận văn thạc sỹ nông nghiệp, Đại học nông
nghiệp Hà Nội.
4. Phạm Công Hoạt, Trần Hoàng Dũng, Phạm Văn Tiềm, Phạm Lê Anh Minh, (2022).
Bảo tồn nguồn gen vật nuôi tại Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, Tạp chí khoa học Việt Nam điện tử (http://vjst.vn/vn/tin-tuc/6739/bao-ton-
nguon-gen-vat-nuoi-tai-viet-nam-trong-boi-canh-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-lan-
thu-tu.aspx)
5. Phạm Công Thiếu, Ngọc Sơn, Hoàng Văn Tiệu, Nguyễn Viết Thái, Trần Kim Nhàn,
(2004). Bước đầu chọn lọc nâng cao năng suất chất lượng gà H, Mông. Tạp chí khoa
học công nghệ chăn nuôi, Sô 18, tháng 6.
6. Tổng cục thống kê, (2021). Niên giám thống kê, NXB Thống kê.
7. Tike Sartika and Ronny Rachman Noor, 2005. Productin performance of some local
chicken genotypes in Indonesia: An overview. Global perspectives on animal genetic
resources íor sustamable agriculture and food production in the tropics.
8. Vũ Ngọc Sơn, Trần Quốc Hùng, Đỗ Thị Kim Dung, Cao Thị Liên, Nguyễn Văn Tám,