
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hệ thống kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ
quản lý kinh tế - tài chính, có vai trò tích cực phục vụ cho việc quản lý, điều hành và
kiểm soát các hoạt động kinh tế. Với xu hướng hội nhập kinh tế thế giới và khu vực,
đòi hỏi hệ thống kế toán doanh nghiệp cần thiết phải được hoàn thiện một cách đồng
bộ và phù hợp trong việc cung cấp thông tin nhằm đáp ứng những yêu cầu quản lý
mới. Hệ thống kế toán doanh nghiệp có nhiều nội dung, trong đó hệ thống TKKT là
nội dung quan trọng, có liên quan và có ảnh hưởng quyết định đến tất cả các nội dung
còn lại của hệ thống kế toán doanh nghiệp đó.
Thông qua hệ thống tài khoản kế toán (TKKT) doanh nghiệp, kế toán tiến hành
phân loại, phản ánh, ghi chép và xử lý các nghiệp vụ kinh tế phát sinh rõ ràng, kịp
thời và đầy đủ. Từ đó giúp cho việc cung cấp, kiểm tra và phân tích đầy đủ các thông
tin về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp, nhằm giúp
ban lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra các quyết định kinh tế và điều hành quản lý kịp
thời. Đồng thời, thông qua hệ thống TKKT doanh nghiệp, kế toán tiến hành thu thập
các thông tin cần thiết làm cơ sở cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính (BCTC),
sẽ là căn cứ đáng tin cậy để các nhà quản lý đánh giá đúng tình trạng tình hình tài
chính, dự báo được nhu cầu tài chính trong tương lai của doanh nghiệp. Vì vậy, hệ
thống TKKT đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định chất lượng, thông tin kế
toán cũng như chất lượng công tác kế toán. Do vậy, trong quá trình hoàn thiện hệ
thống kế toán doanh nghiệp thì yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống TKKT doanh
nghiệp được đặt lên hàng đầu.
Thực tế cho thấy, bên cạnh hệ thống TKKT quy định trong CĐKT doanh
nghiệp ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ - BTC ngày 20/3/2006 (sau đây gọi
tắt là Quyết định số 15) của Bộ trưởng Bộ Tài chính, còn có hệ thống TKKT áp dụng
cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành theo Quyết định số 48/2006/QĐ - BTC ngày
14/9/2006. Ngoài ra, trên cơ sở Quyết định 15, các ngành và doanh nghiệp kinh
doanh đặc thù còn được phép xây dựng và ban hành hệ thống tài khoản kế toán riêng
(Tập đoàn Điện lực, Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông, Tập đoàn Dầu khí, Tổng
Công ty Hàng không, ...). Mặt khác, do những qui định của chế độ tài khoản kế toán
không theo kịp sự phát triển của nền kinh tế nên Bộ Tài chính phải thường xuyên sửa
đổi, bổ sung hệ thống tài khoản kế toán (các thông tư Thông tư số 138/2011/TT -